THI VŨ
Cao
Bá Quát,
những ḍng thơ
đẹp
Thế nào là thơ đẹp ? Thơ là ǵ ? Những câu hỏi như thế đánh lên nhiều lần. Được các nhà biên khảo, phê b́nh trả lời nhiều bận. Đặc biệt có một số thầy đồ văn chương hí hửng ba hoa, ê a cà kệ, say sưa theo từng cơn đồng nhập. Triệu chứng nghĩa địa ấy ngày càng chôn cất rất tử tế các nhà thơ. Chưa kể nạn độc đoán chính trị hay bè lũ trong văn học chợ trời quyết tuyệt diệt và thảm sát những Người Thơ.
Ai trong chúng ta không nghe danh Cao Bá Quát, không từng học thơ Cao Bá Quát thời trung học ? Thế nhưng Cao Bá Quát c̣n lại ǵ trong mỗi chúng ta ngoài chữ NGÔNG với vài ba giai thoại coi như «ngang tàng» ? Sức ngang tàng không ngang tàng nổi cuộc đời tẻ lạnh, đơn điệu, buồn hiu và bế tắc của mỗi chúng ta ! C̣n ḍng thơ lớn của Cao Bá Quát ? —Ít người c̣n nhớ. Thế là vô t́nh hay cố ư, chúng ta đồng lơa thảm sát một nhà thơ. Thảm sát những nhà thơ, nhà văn, nhà nghệ thuật trong đời sống, tuy vẫn bô bô đề cao văn học trên sách báo !
Chấm dứt những định nghĩa, những đàm tiếu, những giai thoại. Đến gặp thẳng người thơ bằng cách đọc thơ người, cho thơ tái sinh và người thơ sống lại. Ta sẽ có thêm bằng hữu giữa cuộc đời chợ búa, quạnh hiu.
Thơ là thực hay mộng ? Lại hỏi !
Trên mặt đất có ǵ không thực đâu. Kể cả mộng. Mộng cũng từ người sinh ra. Huyễn hay thực, chỉ là vấn đề đánh giá. «Nếu không thấy sóng dâng hùng tráng, làm sao biết tấm ḷng ngh́n phương ?» :
Bất kiến ba đào tráng
An tri vạn lư tâm ?
Thanh tŕ phiếm châu nam hạ (từ Thanh-tŕ buông thuyền xuôi nam)
Trong số những nhà thơ được ra nước ngoài, theo những đoàn sứ các thế kỷ trước, có lẽ Cao Bá Quát là người có cái nh́n quan sát kỹ nhất. Quan sát những điều mới lạ có tính thức tỉnh và sáng tạo cho quê hương con người.
Giữa bốn bức tường đen, thơ mở cánh cửa x̣a nắng hay trăng vào những thiên hà và bốn mùa cỏ cây muôn thú. Giữa các chấn song xiềng xích bản năng, thơ là ch́a khóa trí tuệ tháo cũi sổ lồng cho người về phó hội với thần linh.
Các nhà thơ của ta xưa khi ra nước ngoài thường vẫn tiếp tục vịnh cảnh, vịnh người, cảm đề, hoài niệm các chốn cũ của những vĩ nhân hay thi hào sống trước. Thơ an cư lạc nghiệp với điển cố. Không như Cao Bá Quát thường tự tỉnh trên đường : «Đi làm quan xa mới biết có loài cá lớn ngh́n dặm (1). Kiến thức hẹp ḥi khác chi nh́n con báo chỉ thấy một vằn (2) (Hoạn du tỉnh thức ngư thiên lư, Ngu kiến chân thành báo nhất ban).
Một nhà thơ cách mạng và tân thời được ca tụng ồn ào, như ông Hồ, cũng không vượt khỏi ḍng thơ tự sự. Chưa thoát khỏi tường vây sáo ngữ. Một ngục tù chữ nghĩa.
Một phần khối lượng thơ xưa, đẹp th́ có đẹp. Nhưng bấy nhiêu h́nh ảnh trau qua chuốc lại như một gian hàng bán đồ cổ : phong, hoa, tuyết, nguyệt, Hạng Vơ, Ngu Cơ, Kinh Kha, Nghiêu Thuấn, Bá Di, Thúc Tề... Để tiếp tục với Xít ta lin, Lê nin...
Ít có nhà thơ như Cao Bá Quát biết nh́n sự lạ, và dám đưa vào thơ chuyện lạ. Dù chuyện lạ ấy đôi khi chẳng thơ chút nào. Như chiếc «Tàu thủy Hồng Mao» ông thấy trên đường đi Nam Dương. Các thi sĩ khác, có lẽ sẽ không nh́n khối sắt phun khói này, v́ thơ họ bận tả sóng, mây, chân trời, góc bể...
Hẳn nhiên, ngày nay ta đâu cần đọc thơ Cao mới biết tàu thủy là ǵ. Tuy nhiên, cha ông ta đă phản ứng thế nào, cảm giác ra sao, khi thấy lần đầu một phát minh Tây phương ? Đây là điều lư thú mà nhà thơ ghi lại cho ta :
Khói ùn lên trời xanh
Tỏa cao hàng trăm thước
Uốn lượn như rồng sa
Không tan khi gió thổi
Chủ thuyền sửng sốt, thủy thủ đứng lên theo
Huyên thuyên cười nói
Ta xốc áo đứng nh́n về hướng đông
Đây là hỏa thuyền Tây dương đang vùn vụt tiến lại
Cột tàu cao ngất, con quay gió đứng im
Ống khói nằm giữa nhả khói ngùn ngụt
Hai guồng quay phía dưới đập vào sóng dồn
Guồng quay, sóng vỗ, ầm ầm như sấm ran
Đi ngang, chạy ngược, nhanh như ngựa phi
Không buồm, không chèo, không người đẩy
Từ đảo Nanh Rồng, hang Đả Đỏ xa ngoài trăm dặm
Búng ngón tay đă vượt mọi lớp sóng kinh người
Đầu băi Lặc Tử (3) mây đen phủ kín
Nước triều chiều lên nhanh trước ghềnh Bạch Thạch (4)
Họ gọi trẻ đến, vểnh mũi cười nói
Quần trắng mũ cao, đứng vây quanh cột buồm
Các ngài có thấy không :
Khi nước vũng Vỹ Lư rót vào tảng đá Ốc tiêu (5)
Lửa sẽ dữ dội bốc lên thẳng mây xanh
Mở la bàn sang phương đông nên cẩn thận dè chừng !
Không như biển tây sớm hôm nước triều đều đặn.
Bài ca Tàu thủy Hồng Mao
Cao yên quán thanh không
Tả tác bách xích đôi
Yêu kiều thùy thiên long
Cương phong xuy bất khai
Đă sư kinh khởi thủy thủ lập
Tứ biên tiếu ngữ phân huyên hôi
Ngă diệc lăm y hướng đông vọng
Đạo thị dương phiên hỏa thuyền lư dĩ lai
Nguy tường ngật lập ngũ lạng tĩnh
Tu đồng trung trĩ phún tắc yên tồi ngôi
Hạ hữu song luân triển chuyên đạp cấp lăng
Luân phiên lăng phá ẩn kỳ sinh nội lôi
Hữu thời hoành hành đảo tật bôn mă
Vô phàm vô lỗ vô nhân thôi
Long Nha, Xích Khảm bách lư ngoại
Đàn chỉ tảo khước kinh lan hồi
Lặc Tử châu đầu hắc vân hợp
Bạch Thạch than tiền mộ trào cấp
Hoán nhi ủng tị đàm tiếu lai
Tuyết khóa nga cân nhiễu tường lập
Quân bất kiến :
Vỹ Lư chi thủy hối Ốc tiêu
Kiếp hỏa trực thướng thanh vân tiêu
Khai châm đông khứ thận tự giới
Bất tỷ tây minh triêu mộ trào.
Hồng Mao hỏa thuyền ca
Chất cơ khí của tàu dạt vào thi tứ theo khói rồng uốn lượn, sóng vỗ sấm ran, trước đôi mắt ngạc nhiên người dân Nam ngơ ngác. Tuy nhiên niềm tự hào của nhà thơ phương đông không để cho ḿnh thất thần. Bốn câu thơ cuối diễn tả ư chí bất khuất long trời lở đất trước cường bạo hay xâm lược. Nước vũng Vỹ Lư bạo cuồng tới đâu, tảng đá Ốc tiêu khí phách sẽ cản ngăn đốt cháy. Có la bàn đi tới biển đông, nhưng nên cẩn thận. Thái b́nh dương không là Địa Trung Hải. Các ngài có thấy không ?
Đọc 112 bài thơ trong «Ngục trung nhật kư» của ông Hồ Chí Minh qua 18 nhà lao, nhận ra tâm sự, lao lung và thương tâm lắm. Nhưng thơ nhạt nhạt và vụn vặt thế nào ! Người tù ấy c̣n rất cậu.
Chẳng thấm thía là bao so với người tù Cao Bá Quát suốt ba năm bị tra tấn và giam hăm tại lao Thừa Phủ ở Huế. Hai người đều v́ ư chí mà bị tù. Nhưng sao Cao Bá Quát khí phách thế ? Khí phách bằng thơ và qua thái độ. Ông Hồ mượn thơ để làm quan. Cao sống thơ giữa đời.
Chỉ một bài «Đằng tiên ca» của Cao đủ xóa 112 bài tự sự vụn kia. Qua bài này, «Người thi sĩ nằm tù giữa trời đất» (Thiên địa nhất thi tù — Độc dạ cảm hoài) đă tả chiếc roi song đánh ḿnh như sau :
Sau rằm tháng chín, khí mát dịu
Trời u ám, ban mai thiếu nắng
Người tù đầu rối, ngồi trên giường găy
Gió buốt lộng thốc vào áo quần
Chợt lính bộ đến, tiếng vang lanh lảnh
Thét gọi giục lên công đường
Mang gông đứng dậy bước theo
Khăn sổ, chân vội vàng
Đến cổng thấy lính canh hai hàng
Người kinh đô ngơ ngác kín tường đứng
Quan lớn một hàng, thầy biện ngồi dưới
Truyền đem h́nh cụ bày la liệt
Có chiếc roi song dài vút
Da tía, ḿnh cứng, uốn cong liền bung thẳng
Người tù nằm sấp, sợ tái người
Đầu quay nghiêng như con dê hốt hoảng
Chân tay căng thẳng, đôi mắt thất thần
Mưa vừa dứt, hơi độc bốc tới hông
Tra hỏi giờ lâu, miệng cứng đờ
Kêu trời mà than : oan ! oan !
Quan thét như sấm chuyển rung nhà
Roi quất vút bay như ánh chớp
Khi tung như hai con thuồng luồng quật bờ ao lở
Khi dừng tựa nước lạnh đổ vào nồi nước sôi
Đôi cọc sừng sững vững chắc
Tiếng rên xé dăy hành lang
Than ôi, cành hải đường đương xuân
Chẳng v́ hương cũ xóm Xương Châu (6) mà bẻ nát
Bấy giờ trời sẩm tối
Khí sương nơi góc điện tỏa ngát v́ ta
Roi song bớt giận rủ xuống
Tay chắp, ruột quặn cuốn được ngón tay (7)
Được, mất do mệnh là sự thường
Mặt mày như mọi người, sao phải đau thương ?
Ơn nhà nợ nước chưa đền đáp
Kẻ dũng cảm đâu cam chết nơi văn tự !
Chao ơi, chiếc roi song !
Mày không thấy :
Ở phía nam sông Đức giang
Trên đỉnh núi Nguyệt hằng
Có cây tùng cây bách thân tàn một nửa
Vẫn hiên ngang đứng giữa trời đông rét
Nếu có người thợ giỏi biết dùng
Th́ sá ǵ loại bồ kết, chương năo không đáng kể kia
Nỡ vào c̣n đốn chặt ?
Bài ca cái roi song
Cửu nguyệt vọng hậu thiên khí lương
Bạch nhật ảm thảm thần vô quang
Cơ nhân ḅng phát tọa đoạn sàng
Bi phong táp táp xuy y thường
Bộ đinh yết lai thanh lang lang
Hoán thủ thúc xúc phó sảnh đường
Phiên thần hạ giới tùy nhạn hàng
Tệ cân bất chỉnh tẩu thả mang
Nhập môn ngục tốt hiệp lưỡng bàng
Đô nhân hăi quan như đổ tường
Đại quan liệt tọa hạ nhất lang
Hô xuất ngục cụ la trí tương
Cự đằng chi tiên trường thả trường
Phu tử nhục ngạnh nhụ như cương
Cơ nhân yển ngọa h́nh thương hoàng
Ḥi đầu trắc cố như kinh dương
Thủ thân cước trực lưỡng nhăn hoang
Vũ hậu tháp độc chưng bàng quang
Lương cứu vấn tấn khẩu bất trương
Khổ đạo khuất khuất hào khung thương
Quan thanh tích lịch ṭi đài lương
Điện hỏa thiểm thiểm giao phi tường
Hân như song giao bác hoại đường
Băi như lănh thủy quán cấp thang
Lưỡng mốc trác lập thế quật cường
Thân thanh thập nhị hồi tu lang
Ô hô nhất chi xuân hải đường
Tồi chiết bát biện Xương Châu hương
Thử thời mộ thiên quưnh thương mang
Đài giác vị ngă phi thanh sương
Đằng tiên thùy thùy khí bất dương
Củng lập nhiễu chỉ hồi nhu trường
Đắc táng mệnh dă nhân chi thường
My mục như nhân hà thích thương ?
Quốc ân gia trạch vị thiểu thường
Dũng phu na tử hàn mặc trường !
Ta tai đằng tiên !
Nhĩ bắt kiến : Đức giang chi dương
Nguyệt hằng chi cương
Thượng hữu bán tử chi tùng bách
Đột ngột đổng cửu nhi tương vương
Cẩu phất khí vu tiết tượng
Cố vô thủ hồ kê thê dữ dự chương
Nhi hà tiễn phạt chi đương ?
Đằng tiên ca
Cao Bá Quát từng chú trong các bài thơ làm thời gian ở tù : «Lúc bị tra tấn, thịt da rách nát, máu chảy đầm đ́a, khiêng về th́ ngất đi, đến hai trống canh mới hồi lại».
Biệt cách với nhân gian là cảnh tù. Nhưng cảnh tù cay đắng nhất khi bạn bè, thế nhân biệt cách với ḿnh :
Sấm gầm chớp giật thân trơ trọi
Bạn hữu kinh nh́n giả tránh ngơ
Ngày 17 tháng
10, sau khi bộ Lễ tra tấn nghiêm ngặt,
gượng đau viết luôn bốn bài
Cấp lôi bôn điện nhất thân cô
Thức hữu kinh khan bất cảm hô
Thất
nguyệt thập nhất nhật, thừa lễ bộ nghiêm
tấn hậu,
cưỡng bệnh mạn chí tử thủ.
Có ai ngờ một người nô bộc lại giữ vẹn t́nh xưa :
Cám ơn chủ bộc Tiêu gia cũ
Gạt lệ âm thầm với chủ xưa
n.t.
Đa tạ Tiêu gia cựu thời bộc
Khấp tương ôn ngữ úy vi tu
n.t.
Hoặc an ủi phần nào, trong cảnh tù đày, khi chợt có kẻ yêu thơ, biết tài thơ của ḿnh, dám đem giấy mực tới xin thơ. Hầu như ngày nay yêu thích thiết tha với thơ, với chữ như thế không c̣n nữa ?! Nhờ có người yêu thơ, Cao đă v́ họ làm thơ trong tù, và để lại cho ta nhiều bài. Như ba bài «Trường giang thiên» (Một thiên vịnh cái gông dài) mà Cao đă chú dẫn : «Cùng nhà giam, có ông chủ sự họ Nguyễn coi kho vũ khí, đem cái gông dài xin ta vịnh thơ. Tự nghĩ v́ ḿnh dại dột ngông cuồng, bị tội là đáng, c̣n dám nói ǵ ? Chỉ mừng rằng đêm khuya ḷng tự hỏi ḷng, có điều không thẹn với vật này mà thôi. Trong lúc vắng vẻ ngồi buồn, thường thường t́nh hiện ra lời, không thể nhịn được. Nay được ông này gợi ra, ta cười mà cho ngay. Gông dài ! Gông dài ! Mày biết ta chăng ? Ta cũng chẳng hợp ǵ với mày đâu ! Thiên này có ba bài».
Ba năm tù tội, hơn một lằn roi song đánh xé da. Thế mà thơ trầm tĩnh, như nhiên đến rợn người. Nỗi đau đớn cùng cực đă vượt khỏi phản ứng căm thù. V́ không chịu hạ ḿnh ngang với kẻ áp bức. Bận tâm chi những kẻ thừa hành ác độc không đáng ấy. Người thơ như tảng núi trước phong ba băo táp. Sức đón nhận hùng tráng này đẹp biết bao, hơn hẳn những lời đấu tố tầm thường. Cái đă xấu, đă gian ác, cần chi tố cáo thêm ? Chỉ cần dẹp vứt. Làm lớn măi mối tráng chí, hào tâm của con người, và là người thơ, bằng chính thái độ vươn ḿnh đứng thẳng, đứng cao, đứng một ḿnh. Như mặt trời giữa quần sao li ti.
Khuynh hướng thi ca hiện thực xă hội chắc chắn sẽ chê «Đằng tiên ca» thiếu lập trường. V́ không chỉ ra đối tượng giai cấp đấu tranh, chế độ phải đập. Nghe như có lư luận. Song chỉ là lư luận huyễn hóa, so le trước sự thực ngh́n đời. Càng lư luận kiểu đó, càng đặt ngang vàng với thau. Dần dà vàng biến mất, chỉ c̣n lại thau, thiết, thép, ch́.
Không đâu, các thi sĩ nước ta xưa chẳng đợi có chủ nghĩa hiện thực xă hội của tư trào Mắc dịch tây phương th́ mới biết làm thơ. Đă có một ḍng thơ Như Thật chảy từ ḷng dạ những nhà thơ Việt, chuyển hóa mỹ học Việt Nam vào con đường nhân đạo và văn minh. Ḍng thơ Như Thật ấy hướng thượng trong nghĩa chuyển hóa nhân sinh theo hướng đẹp, tốt và thật. Khác hẳn ḍng hiện thực xă hội gần đây, chỉ hướng viễn trong nghĩa huyễn tượng hóa nhân sinh.
Cao Bá Quát là một trong những nhà thơ đă vun trồng ḍng thơ Việt tựa như hoa mai nở sớm trước mọi cơn đông giá. «Hạt mai vứt lên triền núi, một nắm sinh sôi gửi đá xanh» (Thí tương mai tử trịch sơn gian, Nhất ác thanh tư kư bích loan — Tài mai [trồng mai]).
Trên đây ta mới chạm trán với cái nh́n của Cao Bá Quát phóng tới thế giới bên ngoài : tây phương ; và thế giới bên trong đất nước : tù tội. Nhưng thơ ông là cái nh́n và sức sống nhân đạo ở bất cứ nơi nào ông ghé mắt. Từ cảnh đến người, và là người dân đen, bằng hữu, gia đ́nh. Sự quyến luyến rất thơ ấy làm ông khác hẳn với nhiều nhà thơ nho nghiêm khắc.
H́nh ảnh người phụ nữ trong thơ ông rất được trân trọng và có đặc tính. Không chung chung như đồ vật, dù là đồ vật đẹp.
Hầu như ta chưa hề thấy người đàn bà tây phương trong thi ca Việt ở các thế kỷ trước. Cao Bá Quát là thi sĩ đầu tiên miêu tả :
Thiếu phụ phương tây áo như tuyết
Dựa vai chồng dưới ánh trăng trong
Nh́n thuyền Nam treo giăng đèn sáng
Níu áo chồng ríu rít nói năng
Trên tay ly sữa biếng cầm
Gió khơi thổi lạnh se thầm ḿnh run
Nghiêng ḿnh chồng đỡ đứng lên
Biết đâu có kẻ Nam buồn biệt ly !
Người đàn bà Tây dương
Tây dương thiếu phụ y như tuyết
Độc bặng lang kiên tọa thanh nguyệt
Khước vọng Nam thuyền đăng hỏa minh
Bả duệ nam nam hướng lang thuyết
Nhát uyển đề hồ thư lăn tŕ
Dạ hàn vô ná hải phong xuy
Phiên thân cánh thiến lang phù khởi
Khởi thức Nam nhân hữu biệt ly !
Dương phụ hành
Có lẽ đây là ly sữa đầu tiên xuất hiện trong văn chương chúng ta ? Và lần đầu ta mới thấy ngoài ánh sáng cảnh người đàn bà «nghiêng ḿnh đ̣i chồng nâng dậy» (Phiên thân cánh thiến lang phù khởi). Sự nũng nịu và sát ḿnh hầu như vắng bóng trong xă hội khổng giáo xưa. Nh́n cảnh ấy, thi sĩ chạnh nhớ tới vợ : Biết đâu có kẻ Nam buồn biệt ly ! (Khởi thức Nam nhân hữu biệt ly). Đằm thắm lắm. H́nh ảnh vợ hiện ra khá nhiều trong thơ văn Cao Bá Quát. Qua những bài ấy, ta biết thêm sự dịu dàng, kín đáo, nhưng không kém thiết tha của đôi cặp thời trước :
Từ ngày anh ra đi
Đêm đêm giường trống lạnh
Mộng lẻ bóng trăng khơi
Trời chiều sông gió thổi,
H́nh em gương đáy tráp
Aó rét giữ dành hơi
Vật xưa an ủi nhớ
Không làm ta quên nhau.
Từ ngày anh ra đi
Tự quân chi xuất hỹ
Dạ dạ thủ không sàng
Hải nguyệt chiếu cô mộng
Giang phong sinh mộ lương
Tiểu kính kư viễn khiếp
Hàn y lưu cố pḥng
Tŕ thử các tự úy
Bất khiển lưỡng tương vong !
Tự quân chi xuất hỹ
Chiếc gương nhỏ người đàn bà bỏ vào đáy tráp cho chồng trước lúc ra đi (Tiểu kính kư viễn khiếp) không chỉ để chồng soi mặt. Bóng dáng vô h́nh của vợ sẽ thấp thoáng trên mặt thủy làm vấn vương ḷng kẻ đi xa. Và người chồng cũng kín đáo để lại cho vợ chiếc áo rét nơi cô pḥng (Hàn y lưu cố pḥng). Không chỉ để chống lạnh. C̣n cả mùi da thịt làm tổ kén yêu đương bao bọc người vợ trẻ. Hơi hám ấy khiến biết bao đôi cặp xoắn xít trong đời ? Mai sau chết đi trên mặt đất, để bay măi vào cơi thinh không. Những cặp t́nh nhân t́m lại được nhau chăng, đều nhờ hơi hám ấy : mùi da thịt trần gian diệu vợi.
Chiếc gương nhỏ trong tráp người thi sĩ long đong đày đọa v́ miếng cơm manh áo, c̣n được nhắc nhở qua nhiều bài thơ khác. «Ly biệt lâu ngày mảnh gương cũ vẫn phong kín trong gói, buồn đến rũ rượi cũng không thành bóng để bạn với ngọn đèn lẻ loi». (Nại biệt hữu giam tàng cựu kính, Công sầu vô ảnh bạn cô đăng — Dữ gia nhân tác biệt thị dạ dư bệnh chuyển phát). Gương soi bộ mặt hữu h́nh của ḿnh, soi luôn cả vô h́nh là bóng người yêu. Chiếc hôn yêu dấu ngàn đời ấy đọng măi trên gương.
Tuy nhiên người thi sĩ của ta không chỉ nh́n măi phía lư tưởng. Thi sĩ cũng biết tự cười cợt với những h́nh ảnh vụng về của vợ con. Vụng về nhưng thân t́nh, thực, lưu luyến và trân trọng :
Từ xuân sang, tâm và lực đáng phàn nàn
Ṿng lưng sút, gầy không siết kể
Vào đời, thân như ngựa ngh́n dặm
Xem sách, đôi mắt là ngọn đèn muôn năm
Người vợ vụng về tựa gối chải tóc rối
Con trẻ ngây thơ kéo áo đ̣i khoanh tay để gối đầu
Cười x̣a một tiếng : muốn nhàn nhưng chưa được
Nhóm ḷ nhỏ pha trà, thanh đạm như nhà sư.
Trong lúc ốm
Xuân lai tâm lực lưỡng kham tăng
Tổn tận yên vi sấu bất thăng
Nhập thế chích thân thiên lư mă
Khan thư song nhăn vạn niên đăng
Chuyết thê ỷ chẩm sơ bồng mấn
Trĩ tử khiên y tạ khúc quăng
Nhất tiếu na tri nhàn vị đắc
Tiểu lô tiên mính đạm như tăng.
Bệnh trung
Nhờ trân trọng mới cảm thấu hết t́nh cảm của người phụ nữ. Dù khi họ đă hóa đá v́ chờ mong, v́ sắc son chung thủy :
Đỉnh cao ḿnh đứng một ḿnh thôi
Son phai phấn lạt hết ai rồi
Người đâu tin tức không c̣n lại
Trời biển không màu mấy dặm phơi
Máu lệ ḥa trăng un khói đẫm
Dầm mây rêu biếc tóc thơm ngời
Trời già, đất cỗi, t́nh không nát
Động biếc chuông đêm đổ mấy hời.
Đá trông chồng
Độc lập sơn đầu đệ nhất phong
Chu điêu phấn tạ vị thùy dung
Âm thư cửu đoạn nhân hà xứ
Thiên hải vô nhai lộ kỷ trùng
Huyết lệ yên ḥa minh nguyệt thấp
Hương hoàn vân tích lục đài phong
Thiên hoang địa lăo t́nh do tạc
Dạ dạ xao tàn bích đỗng chung.
Vọng phu thạch
Đó là Người đẹp trong đá trông chồng. Người đẹp ngoài đời th́ sao ? Đây là h́nh ảnh Cao Bá Quát gặp dưới ánh trăng :
Trời cao sao lác đác
Trăng sáng trong như nước
Lanh lảnh sâu mùa kêu
Gió vàng lên hiu hắt
Người đẹp thoảng trên lầu
Tựa lan can không nói
Dậy xem canh mấy rồi
Chân ngập ngừng gieo bước
Kể ǵ đêm lạnh se
Chỉ lo trăng tàn ánh
Thuở thiếp mười sáu tuổi
Đầy đặn khác ǵ trăng
Lớn lên yêu sắc đẹp
Tưởng dung nhan măi c̣n
Kéo áo đùm trăng sáng
Cắt viết bức t́nh thư
Gửi người yêu tâm sự.
Đêm mười bảy dưới ánh trăng viết gấp gửi bạn
Thiên cao chúng t́nh hy
Minh nguyệt tĩnh như thủy
Tức tức hậu trùng minh
Sắt sắt kim phong khởi
Đường thượng hữu giai nhân
Ỷ lan sầu bất ngữ
Khởi thị dạ hà kỳ
Bộ bộ hành phúc chỉ
Bất ưu trường dạ hàn
Đăn tích nguyệt tương mỹ
Thiếp niên nhị bát thời
Doanh doanh chính tương tự
Trưởng đại ái dư nghiên
Thượng tưởng dung nhan mị
Noa y hiệt kỳ quang
Bất nhẫn nhàn phao trí
Tài tác hợp hoan thư
Kỷ tử tâm trung sự.
Thập thất dạ thừa nguyệt tẩu bút kư hữu nhân
Trăng đẹp quá. Mở áo hứng trăng (Noa y hiệt kỳ quang), cử chỉ của người đẹp làm ánh trăng thêm đẹp. Đẹp hơn nữa, khi trăng được cắt ra một mảnh để viết bức hoan thư cho người yêu (Tài tác hợp hoan thư). Trăng với đẹp là một. Đẹp với người đàn bà không hai. Nhưng sắc đẹp rồi cũng tàn phai, như trăng tṛn rồi khuyết. Nỗi ḷng ưu ái ấy xót thương cho người phụ nữ. Tuổi mười sáu qua mau. Giờ đây, nh́n mảnh trăng mười bảy, nhớ xưa đành vớt vát chút đẹp xưa vào vạt áo. Hoài niệm mới thơ làm sao ! Sắc tàn phai bỗng mang một vẻ đẹp khác. Chỉ người thi sĩ mới thấy và quư. Hỡi các người đẹp, trong đời nên yêu thi sĩ thôi. Thi sĩ, kẻ tụng ca t́nh yêu, ngay cả thời phai úa. Thi sĩ, nơi cất giữ ánh trăng mười sáu. Vĩnh viễn cho trần gian.
Sở dĩ trăng, gió, hoa, tuyết... trong thi ca xưa có khi thành sáo ngữ, là v́ các nhà thơ không hiện thân được sức diệu kỳ của nhan sắc thiên nhiên. Họ chỉ đem gió, trăng, hoa, tuyết vào lấp các vế trầm bổng cho câu thơ. Họ có biết đâu, gió tả như trong bài «Bắc phong kỳ lương» là cái rét buốt phương bắc dùng bêu riếu kẻ bạo ngược. Mưa tuyết bay trong bài «Vũ tuyết kỳ phi» là để bộc lộ đời sống gian khổ của binh sĩ nơi biên pḥng. Hoa trong bài «Đường đệ chi hoa» là mượn nói tới sự nương tựa đùm bọc giữa anh em. Cỏ trong bài «Thái thái phù dĩ» miêu tả hạnh phúc người phụ nữ khi sinh con đẻ cái. Đấy là những điều Bạch Cư Dị viết trong thư cho Nguyên Chẩn nói lên bề sâu ẩn của thơ. Gió, trăng, hoa, tuyết không đơn thuần sự miêu tả sáo ngữ, mà là bối cảnh bộc lộ t́nh và tâm của người theo từng cuộc sống phũ phàng hay hạnh phúc.
Trăng trong thơ Cao Bá Quát ở bài trên là sắc đẹp kiều diễm người đàn bà. Nhưng trăng c̣n là sông nước, là người tri kỷ liếng láu như một trí tuệ biết u mặc bỡn đùa, mà ta gặp qua «Bài ca Trăng thu trên sông Trà» :
Trăng sông Trà !
V́ ai trăng trong xanh đêm nay ?
Muôn dặm quan san một màu trắng
Ở đâu không vướng biệt ly t́nh ?
Cất chén uống mời trăng
Trăng bước vào ḷng chén
Toan uống, trăng bốc bay
Để bóng người chao lộng
Ngừng chén đặt lên bàn
Trăng long lanh trở về
Hỏi trăng sao quyến luyến không rời
Kẻ Trúc Lâm (8) cùng đường như ta, tên lính bộ ?
Đêm nay thu tới đầu sông
Nghiêng bầu chuốc rượu cùng trăng nói :
Ta về thăm bạn cũ Tồn Chân ở cửa Đà Nẵng
Sáng mai thúc ngựa vượt Cần Giờ
Đêm qua gió vàng trời thổi xuống
Móc trắng sương trong buốt tận xương
Trong đời đâu ở măi cùng nhau được
Rượu đây,
Hăy uống với trăng sông Trà
Trăng sông Trà !
Gương dầm đáy nước ḍng dâng bạc
Trượng phu chống kiếm đi như suốt
Đâu ḷng nhi nữ lúc phân kỳ !
Bài ca Trăng thu sông Trà
Trà giang nguyệt
Kim dạ vị thùy thanh ?
Quan sơn vạn lư hạo nhất sắc
Hà xứ bất hệ ly nhân t́nh ?
Cử bôi thí yêu nguyệt
Nguyệt nhập bôi trung hành
Hàm bôi dục yết cánh phi khứ
Chỉ hữu nhân ảnh tương tung hoành
Đinh bôi thả phục trí
Hựu kiến cô quan sinh
Vấn quân hà sự luyến luyến bất nhẫn xả ?
Ngă thị Trúc Lâm cùng đồ chi Bộ binh !
Giang đầu thử tịch phùng thu tiết
Tửu măn tu khuynh vị quan thuyết :
Đà môn cựu lữ Tồn Chân ông
Cần hải minh tiên hiểu tương biệt
Tạc dạ kim phong hà thiên khuyết
Bạch lộ thanh sương sảo xâm cốt
Nhân sinh hội ngộ an khả thường ?
Hữu tửu thả ẩm Trà giang nguyệt !
Trà giang nguyệt !
Như kính há ngân lưu
Trượng phu án kiếm khứ tiện khứ
Kỳ lộ vô vi như nữ sầu !
Trà giang thu nguyệt ca
Trăng ở đây không già cỗi với Chị Hằng, ray rứt t́nh đơn chiếc. Trăng nhanh nhảu tới lui bằng hữu. Giỡn đùa với thi nhân như những câu hỏi đáp triết học. Cất chén rượu mời trăng, trăng lọt vào ḷng chén chào đón (Cử bôi thí yêu nguyệt, Nguyệt nhập bôi trung hành). Nhưng toan uống th́ trăng lại bốc bay, để lại h́nh người uống chao lộng với bóng ḿnh (Hàm bôi đục yết cánh phi khứ, Chỉ hữu nhân ảnh tương tung hoành) Bóng và h́nh, tṛ chơi cút bắt của nhân sinh và triết lư.
Trăng và sông. Hai cái ánh và ướt làm mướt măi đêm nơi hồn người.
Sông, trong thơ Cao Bá Quát có khi miêu tả như dải khăn xanh người gái đẹp (Giang tự mỹ nhân thanh luyện đái — Ninh B́nh đạo trung), khi như lưỡi trường kiếm giữa trời xanh (Trường giang như kiếm lập thanh thiên — Hiếu quá Hương giang).
Trăng và sông, những ảnh h́nh vô hạn trong không gian thơ. Những chi hữu hạn, có giới tuyến, mới bị Cao Bá Quát thu nắm trong tay :
Sớm lên đứng núi Hoành sơn
Chiều xuống tắm khe Bàn thạch
Nhặt mỗi nơi một viên đá
Non sông không đầy vốc tay.
Tắm ở khe Bàn thạch
Triêu đăng Hoành sơn lập
Mộ há Bàn kính dục
Huề thủ lưỡng phiến thạch
Giang sơn bắt dinh cúc.
Bàn thạch kinh
Cũng thế «mây khói mười sáu ngọn núi trào ra đầu ngọn bút, nước non muôn ngh́n dặm thu vào khóe mắt thôi» (Nhăn trung sơn thủy vạn thiên lư, Bút để vân yên thập lục phong — Văn du Sài sơn...).
Giới tuyến nước non, làng cũ... sát với nhân sự, nên trong thơ Cao Bá Quát ít khi vui. Về làng cũ thấy ngậm ngùi, v́ theo với thời gian người và cảnh ngày càng thưa thớt, tàn suy :
Đầu sông ngóng mắt quê nhà
Vài ba bước nữa, sao đà thối chân
Bước đi bước lại tần ngần
Chẳng v́ đợi bạn, cáng đâu thiếu người
Bởi chưng thân chước lụy đời
Máu nồng thuở nọ nửa vời tiêu tan
Đường đời mây khói phù vân
Việc người nóng lạnh bàng hoàng tấm thân
Mũ treo ḷng vẫn phân vân
Mai sau biết dựng cổng trần về đâu
Vườn xưa ruộng cắm năm sào
Cỏ lan rậm ngát ai vào dấu chân
Càng lưa thân thích xa gần
Càng chưa dịp tiệc đăi đằng thịt ngon
Tiền đồ ly biệt đau buồn
Lặng thầm không nói chiều hôm tối trời
Bước chân vô định bồi hồi
Quê nhà gang tấc quê người trú thân.
Đường bộ về làng Đông dư, tối trời phải ngủ trọ
Giang đầu vọng cố hương
Cố hương vị tu trở
Như hà hành bất tiến
Nhất bộ nhất diên trữ
Phi quan phạp dư lệ
Ninh vị đẳng trù lữ
Cận lai phụ tục lụy
Tráng đồ bán tiêu tử
Thế lộ cánh yên vân
Nhân sự như hàn thử
Vị hữu quải quan kỳ
Sài môn tại hà hử
Bán mẫu cựu điền viên
Vu uế dĩ bất cử
Thân thích nhật dĩ sơ
Hà thường tốc ph́ trữ
Niệm biệt trướng tiền đồ
Mặc mặc bất dục ngữ
Nhật mộ vô định tung
Do vi dị hương xứ
Sa hành để Đông dư, kư mộ lưu túc
Bước ngập ngừng không tiến về quê được, chẳng v́ chờ đợi bạn hay thiếu người vơng cán (Nhất bộ nhất diên trữ, phi quan phạp dư lệ, ninh vị đẳng trù lữ). Mà chỉ v́ ṿng tục lụy mang lấy vào người làm cho hùng khí hăng hái thuở xưa tiêu tan mất một nửa (Cận lai phụ tục lụy, tráng đồ bán tiêu tử). Khiến tới sát nách bên làng, không chỗ dừng chân, đành ngủ trọ (Nhật mộ vô định tung, do vi dị hương xứ).
Bước chân vô định bồi hồi
Quê nhà gang tấc quê người trú thân
Đó có là tâm trạng của tất cả chúng ta hôm nay ? Người trên quê hương, cũng như người nơi hải ngoại.
Nhớ làng, nhớ nước. Nhưng làng nước có nhớ ta không ? Làng nước chỉ là tên gọi. Quê hương, đất nước luôn bị bọn con buôn chính trị chiếm đóng. Khi th́ con buôn khác giống, khi th́ con buôn cùng giống. Từ thời Cao Bá Quát cho tới nay vẫn thế. Cao Bá Quát đă nhân đi xem người Thanh diễn kịch mà thát lời làm thơ chỉ trích triều đ́nh và giới sĩ phu nhu nhược thời bấy giờ :
Trên đài cao, đèn sáng như ngày
Một tiếng thét lớn, gió đêm ớn lạnh
Chàng tráng sĩ râu tua tủa nghênh ngang trong bộ giáp
Vị tướng trừng mắt ngồi trên lưng ngựa chễm chệ
Ra đời lẽ nào không có bộ mặt thật
Để vào cuộc vui đùa giỡn với mũ áo xưa
Việc ở Hổ Môn gần đây anh biết không ?
Đáng than cho những kẻ vểnh mũi ngồi xem.
Đêm xem người Thanh diễn kịch
Liệt cự thôi minh tối thượng đàn
Nhất thanh hám khởi dạ phong hàn
Kích tu tráng sĩ phương hoành giáp
Nộ mục tương quân dĩ cứ an
Xuất thế khởi vô chân diện mục
Phùng trường lăng tiếu cổ y quan
Hổ Môn cận sự quân tri phủ ?
Thán tức hà nhân ủng tỵ khan !
Dạ quan Thanh nhân diễn kịch trưởng
Việc ở Hổ Môn là việc nhà Thanh đem hết thuốc phiện của lái buôn Anh đốt ở Hổ Môn (1840). Chính phủ Anh xua tàu chiến bắn phá, uy hiếp triều đ́nh nhà Thanh, bắt kư «điều ước Nam kinh» bồi thường binh phí, mở 5 cửa bể, và cắt Hương Cảng cho Anh. Mở đầu việc Tây phương chinh phục Trung quốc.
Sự trợ giúp vô h́nh mà căn bản cho Tây phương xâm lược chính là tính ươn hèn và dốt nát của các triều đ́nh và sĩ phu Á châu thời ấy. Không riêng v́ chủ nghĩa đế quốc, và sức phát triển tư bản của Tây phương mà thôi. Những người có hùng tâm, tráng chí và khả năng như Cao Bá Quát đâu được dùng ?
Đời mấy kẻ mắt xanh ?
Trắng đầu cơn sóng dữ
Ngày 16, neo
thuyền ở bến Lữ Thuận,
họa thơ Trần Ngộ Hiên
Phù thế thùy thanh nhăn
Kinh ba tự bạch đầu
Thập lục nhật yết đĩnh Lữ thuận, thứ Trần Ngộ Hiên
Từ một chức quan, bị tù xuưt mang án tử h́nh, bị biếm làm tên phục dịch cho đoàn sứ ra nước ngoài, rồi đày đi dạy học. Nơi Cao đă tự than : «Mô phạm dăm ba thằng mặt trắng ; Đỉnh chung chiếc rưỡi cái lương vàng !». Đấy là cách dùng người tài của Nhà nước. Cao bị tù chỉ v́ muốn thu dụng nhân tài cho đất nước. Éo le và mâu thuẫn ! Nguyên làm Sơ khảo trường thi Thừa thiên, ông cùng bạn Phan Nhạ dùng muội đèn ḥa son chữa cho 24 quyển văn ưu tú đáng đỗ mà chỉ v́ «phạm húy» nên đánh trượt. Cái lối «học tài thi lư lịch» ấy từ triều Nguyễn tới triều Hồ vẫn chưa thay đổi. Gọi là «nhân tài» những ai giỏi nhớ hết tên húy gia đ́nh vua, hoặc thuộc làu kinh Mác Lê, thay v́ chí khí và khả năng thực ! Cao Bá Quát muốn cứu 24 nhân tài. Nhưng triều chính lại d́m đè, đánh hỏng. Giết hại luôn cả kẻ cứu nhân tài. Tất cả đó đều nhân danh «trẫm» và «đại sự quốc gia» !
Nh́n những con chim có sức bay cao mà bị nhốt trong lồng... Nh́n gông với cùm, khóc cạn từng ḍng lệ máu (Nhăn khan cao điều độc phàn lung... Lệ sái hành dương huyết bính không — Tức sự).
Trước triều đ́nh và bọn quan lại như thế, Cao chỉ biết khóc, hoặc dấy binh lật đổ. Nhưng việc không thành, v́ đa số sĩ phu và quần chúng chỉ biết chê chửi, chẳng ai dám ra tay hay tiếp tay hành động ! Buồn chăng ? - Chẳng có chi buồn, đời là như thế. Vào đời là chọn lựa : hoặc cô đơn của kẻ trượng phu, hay cô độc của kẻ giữ riêng cho ḿnh giàu sang và quyền bính.
Câu chuyện tâm sự giữa Cao Bá Quát và một người bạn ngoại quốc ở Tân Gia Ba (Singapore) cho ta biết nỗi ḷng và quan điểm chính trị thức thời của ông trước biến động Tây phương vào Á châu. Đây là bài «Cùng với Hoàng Liên Phương nói chuyện việc hải ngoại, có điều cảm xúc, viết gấp đưa bạn» :
Quạnh hiu dưới trướng chức tham quân (9)
Ngâm tiếng «tu ngu» ngán bội phần (10) !
Khói sóng quê người thân vạn dặm
Gió trăng t́nh bạn cảnh ba xuân
Dong bè những rắp làm Trương Sứ (11)
Khoét mắt ai người viếng Ngũ Viên (12)
Ta cũng như người Trung Thổ cũ (12)
Gió tây ngoảnh lại lệ đầm khăn
Hoàng Tạo dịch
Tiêu tiêu liên mạc nhất tham quân
Ngâm đáo tu ngu bất nhẫn văn
Vạn lư yên ba do tác khách
Tam xuân phong nguyệt thặng thùng quân
Phiếm sà mạn tự đàm Trương Sứ
Quyết nhăn bằng thùy điếu Ngũ Viên
Ngă thị Trung Nguyên cựu nhân vật
Tây phương hồi thủ lệ phân phân
Dữ
Hoàng Liên Phương ngữ cập hải ngoại sự,
triếp hữu sở cảm, tẩu bút dữ chi
Thân muốn làm Trương Sứ (11), Ngũ Viên (12) giúp nước, nhưng ai nghe, ai dùng ? Biết mà không làm ǵ được. Cảm thức này đeo đẳng măi ḷng Cao :
Đành nỗi hạc gà chung chỗ đậu
Cùng đau sóng gió cơi người ta
Nâng chén viết gấp tặng ông Đoàn Tính lúc sắp lên đường
Cố ưng kê hạc đồng thê địa
Cộng chứng phong ba hiện tại thân
Đoàn Tính lâm hành bả tửu vi biệt tẩu bút dữ chi
Hoặc :
Nâng rượu toan hỏi trời
Trời cao không thể hỏi
Rằm tháng sáu dưới ánh trăng Viết gửi các bạn cũ
Ba tửu dục vấn thiên
Thiên cao bất khả vấn
Lục nguyệt
thập ngũ dạ nguyêt
hạ tác phụng kư chư cố nhân
Cao thường để ư chuyện thời sự, v́ sống không rời với dân đen khổ ách. Bao nét khổ đau chấm phá trong thơ ông thành nỗi lo toan khôn dứt. Lo toan trong ư, trong thơ, trong hành động chống kháng. Cao thi sĩ như trái đất xanh biếc mỹ miều. Nhưng giữa ḷng là khối lửa sùng sục ngất trời. Ngọn lửa lo toan cho nhân thế. Ngọn lửa Bồ tát. Giữa cơi đời đói lạnh :
Khổ lạnh so ra thua khổ đói
Cám cao như ngọc, áo cam mua
Sương gió qua cầu quên rét buốt
Nghĩ người tựa cửa ngóng ta về.
Trên cầu chiều cô gái trở về
Tư lương hàn khổ vị đương ky
Khang ngột như châu khước điển y
Phong lộ quá kiều hồn bất ác
Ỷ môn ưng hữu vọng nùng quy
Mộ kiều quy nữ
Sương nặng gầu đôi mới kéo lên
Môi run, bụng lép, chiếc tơi quèn
Người
tát nước trên đồng cao buổi sáng
Khương Hữu Dụng dịch
Vụ lư song cao tấn thủ khiên
Phúc hiêu, thần chiến, đoản xoa xuyên
Hiểu lũng quán phu
H́nh ảnh «Người vác ḥm», «Người ăn mày», «Dọc đường gặp người đói», «Ông già Phúc Lâm (ở Hà nội)» dưới triều Tự Đức kia có phải vẫn là chuyện hôm nay ?
Thất thểu chàng vác ḥm
Mơi bước lại than thở
Bỗng gặp người quan nhân
Nắm tay, nước mắt giàn giụa
Hỏi : «Anh nay làm nghề ǵ
Mười năm rồi không gặp ?»
Chàng thưa : «Thôi hết rồi !
Có ai thuê mướn đâu
Xưa có ruộng ở chân đê
Mười mẫu coi tạm đủ
Năm Mậu Tư mất mùa
Lang thang đi kiếm ăn
Lúc về ruộng bỏ hoang
Chức dịch đ̣i tiền thuế
Thuế nộp vẫn hạn kỳ
Ruộng rẻ cố không được
Than ôi ! bạn cũ của ông
Đành bán sức cho nhà buôn
Việc đời thường ngang trái
Ba năm không t́nh thân
Ai chả muốn khỏe mạnh
Nhưng cứ bị đánh mắng
Trên nhà đầy của ngon vật lạ
Dưới (bếp) người ở gầy giơ xương
Nhà nào không có chủ
Muốn bỏ biết đi đâu ?
Nợ thuế đă lâu ngày
Tiền ở dành được mấy
Sáng nay bày tiệc rượu
Lỡ tay vỡ b́nh ngọc !
Người vác ḥm
Vũ vũ phụ tương tử
Nhất bộ nhất hồi thán
Hốt phùng y quan nhân
Ác thủ lệ doanh nhăn
Vấn tử kim hà cư ?
Thập niên bất tương phùng
Tự vân trường dĩ hỹ
Hề hữu nhân gia dong ?
Tích giả đê hạ điền
Thập mẫu phả dĩ phong
Tự thất Mậu Tư thu
Lữ thực vô tây đông
Qui lai điền cửu vu
Lư tư vấn thâu cang
Thâu cung hữu tŕnh kư
Tiện trị điển bất đắc
Ô hô quân cố nhân
Mại đắc thương gia lực
Nhân sự lũ quai ngộ
Tam tải vô thân t́nh
Khởi bất dục thường kiện
Xuy cấu nhật giao tinh
Đường thượng sung phi cam
Hạ tận sấu lộ tích
Thùy gia vô chủ nhân
Khứ thử dục hà thích
Tô trách nhật dĩ cửu
Dong tiền dư sổ mâu
Triêu lai lư tửu tịch
Ngộ phá lưu lư tôn !
Phu tương lử
Tần ngần đứng ăn xin
Không kêu ca đói lạnh
Nón rách khép che ḿnh
Mạng đời, đồng xu bé
Giữa thời thuế sưu đe
Tội đồ hay phiêu tán
Bất tài cũng người thôi
Các em đừng trêu nghịch !
Người ăn mày
Cái tử lập tŕ trù
Cơ hàn bất cảm hô
Y khiên song lạp phá
Mệnh đăi nhất tiền tô
Trưng liễm thời phương cấp
Phiêu lưu nhữ hạt cô
Bất tài diệc nhân dă
Nhi nữ mạc khiêu du
Cái tử
Một người đi thất thểu
Ảo nón rách tả tơi,
Từ phía Nam tiến lại,
Đến trước ta than hoài.
Ta gạn hỏi nông nỗi,
Rằng : «Gian nan măi thôi.
Làm nghề thuốc, nghề bói,
Đến kinh kỳ sinh nhai.
Kinh kỳ chẳng ai ốm
Thầy lang mọc khắp nơi.
Muốn quay về làng cũ
Ngh́n dặm đường xa xôi.
Ngày thứ hai bán tráp
Ngày thứ ba đói nhoài.
Gặp người những mừng hụt,
Muốn nói không ra lời.»
— «Than ôi ! Hăy ngừng lệ,
Một bữa ta tạm mời.
Đời người như quán trọ,
Ung dung nào mấy ai ?
Thong thả đừng nuốt vội,
No ứ dễ hại người !»
Dọc đường gặp người đói Ngô Lập Chi dịch
Vũ vũ thùy gia tử
Y phá lạp bất hoàn
Thức ṭng Nam phương lai
Hương ngă tiền đầu than
Vấn : «Tử hà sở ưu ?»
Tự vân : «Trường gian nan.»
Gia bần, nghiệp y bốc
Ngă lai tẩu Trường An
Trường An vô bệnh nhân
Quần y như khâu san
Linh đinh vọng quy lộ
Cực mục vân man man
Nhị nhật điển không níp
Tam nhập xuyết ung xan
Phùng nhân đăn ngộ hỉ
Dục ngôn thanh lũ can.»
— Y ! Tử thả hưu lệ !
Nhát qũy dữ tử hoan.
Du du nghịch lữ trung
Bách niên thùy tự khoan ?
Mạn dă ! Mạc sậu yết
Bạo doanh phi tráng nhan.»
Đạo phùng ngă phu
Sáng t́nh cờ qua chợ Phúc Lâm
Mọi người xôn xao chạy trốn
Lớn trẻ giục nhau chuồn
«Nhanh, nhanh lên ! công sai về đấy !»
Hỏi ông lăo đứng gần
Ông lăo ghé tai đáp :
«Tôi nghèo chạy đi đâu
Đêm ngày trốn như chuột
Ông chẳng nghe ư, năm nay cấp kỳ đi bắt tráng ?
Hết hạn không c̣n ai, bắt tứ tung
Huyện quan như cha mẹ không cần xét
Nha lại đánh dân như chẻ tre
Sống trong hai huyện đă lâu đời
Ai không có tổ nghiệp, ruộng nương, nhà cửa
Năm ngoái năm nay thóc lúa mất
Bỏ đi, biết về phương nào
Xóm tây di tản, xóm đông đói
Kẻ sống mười phần c̣n một hai
Khổ phu, khổ lính, chưa hết khổ
Cháu nghèo, con dại bỏ làng đi
Thuế tôi ngạch cũ vô cùng khó
Chiếu lệ c̣n tăng, tôi chết thôi
Năm năm lăm tuổi, tăng một suất
Năm tôi sáu mươi, tăng suất nữa
Huống chi c̣n tăng bao loại khác
Tăng tới sang năm đào tiền đâu ?
Nghĩ các đời vua trước
Chiếu lệ lấy của dân
Quan lại không phiền dân
Làng xóm chẳng phiêu tán
Dân hết lo lắng, quan cùng vui
«Than ôi, tôi già rồi !»
(Miệng nói) tay chỉ bức tường đổ.
Ông già Phúc Lâm
Triêu hành ngẫu bạc Phúc Lâm tứ
Phúc Lâm phường nhân kính tẩu ty
Nam đồng tương khiếu cấp cáo bôn
Cấp cấp quan câu kim thả chí
Đê thanh vấn lân ông
Lân ông tiền tri ngữ :
Cùng lăo kim hà thích ?
Trú dạ thoán như thử
Quân bất văn, kim tuế công đinh nhật trưng đốc ?
Kỳ măn vô nhân tứ truy trục
Huyện quan phụ mẫu phất ngă sát
Tuyển tào tiên phát như chiết trúc
Thả ngă nhị huyện thùy thế cư
Thùy vô tổ nghiệp vô điền lư ?
Khứ niên thất cốc kim thất ḥa
Thệ tương khứ thử trù y dư
Đông gia cơ ngọa, tây gia tỷ
Suyễn tức vị vong thập nhất nhị
Binh đào, dịch trọng khổ vị trừ
Tử nhược điệt bần khí hương lư
Thủ thường cựu ngạch ngô dĩ nan
Lệ phục chiểu tăng ngô tử hỹ
Ngô ngũ thập ngũ tăng nhất suất
Ngô chi lục thập hựu tăng nhất
Hà huống số ngoại tăng phục tăng
Tăng tận hậu niên hà ṭng xuất
Ngô quan tiền thời vương
Thủ dân duy tại thường
Hữu lại bất thức dân
Tinh ấp mỹ tản vong
Dân vô ưu hoạn, quan diệc lạc
Hu ta lăo hỹ ! chỉ bại tường.
Phúc Lâm lăo
Than ôi,
Mặt trời đỏ trốn đâu
Để dân đen than thở ?
Nh́n mưa
Xích nhật hành hà đạo
Thương sinh thán kỷ hồi
Đối vũ
Làm người ở xă hội nhiễu nhương, tham nhũng, sao khổ quá. Có phải là ư than khi Cao Bá Quát làm bài thơ Vịnh chim sáo :
Chim sáo vẫn tự đắc là khôn sớm
Đem thân sống gửi trong lồng son
Chỉ v́ có thể nói được tiếng người
Đến nỗi cụt mất đầu lưỡi !
…
Hàn cao căng tảo tuệ
Thê thác tại chu lan
Chỉ vị năng nhân ngữ
Phiên giao tổn thiệt đoan
Vịnh cù dục
V́ chưng học nói tiếng người
Lưỡi xưa cắt lưỡi khiến đời hư hao !
Biết bao loại tiếng người đă làm cho người khổ ? Những tiếng, những h́nh, những điều tưởng như nghe, thấy, sờ mó được, ta đem làm sự thật. Với Cao Bá Quát, nhà thơ, nhà hành động, và cũng là nhà tư tưởng, th́ không thế. Ông răn đe ta : Coi chừng ! Tạo vật xưa nay không bám vào h́nh tướng. Núi sông sừng sững tưởng như chắc nịch kia, mới chi là một nửa của nguyên trạng thôi. Đừng chấp nửa này để mất nửa căn nguyên kia.
Ai người rót rượu hỏi trời xanh ?
Ma ni (14) ngời chiếu rạng muôn trời (15)
Tạo vật từ xưa không bám tướng
Núi sông hiển hiện nửa h́nh thôi
Đêm 23 trông trăng
Hà nhân chước tửu vấn thanh thiên
Thí bả ma ni chiếu đại thiên
Tạo vật bản lai vô trước tướng
Chỉ lưu nhất bán tại sơn xuyên
Nhị thập tam dạ khán nguyệt
Không chấp vào h́nh tướng, khác với quay lưng bỏ biệt. Nhà tu quay lưng. Nhà thơ không chấp. Nhà tu quay lưng với đời, để yên tâm học tập cái không chấp. Nhà thơ tu thẳng giữa đời bằng sự không chấp — không bám tướng.
H́nh hài thế gian tuy mới nửa, nhưng qua thơ Cao Bá Quát đẹp xiết bao. Yên ả một cảnh chiều, gió gào trên biển lộng hay hung hăn những cơn mưa nhiệt đới... Lối tả có khi đạt tới nghệ thuật phim ảnh. Từng hoạt cảnh khi phóng lớn khi dàn trải, gọn, đập mắt, gây ấn tượng động chấn. Người đọc thôi đọc, v́ thoắt thấy, nghe, cảm, thót ḿnh.
Ngoài giậu khói xanh tre ŕnh bóng
Khúc ca giă gạo, tiếng đ̣ rong
Khách về chia sách chung cùng đọc
Bó gối ngâm tràn thơ mới xong
Sông Hương nước xuống bờ nông dạt
Ḥn Chén chiều sa nắng nhạt hồng
Gió nồm thổi lại hồn thư thái
Động chiếc rèm treo nhẹ nửa ḷng.
Cảnh chiều thôn quê
Ly ngoại nhân yên trúc ngoại âm
Thung ca thanh yết trạo ca thâm
Truy du khách chi phân thư khán
Tức sự thi thành băo tất ngâm
Hương thủy mộ trào sinh thiển lại
Trản sơn hồi chiếu đạm không lâm
Huân phong đa dữ nhàn phương tiện
Xuy khởi cô liêm nhất bán tâm.
Thôn cư văn cảnh
Bạn thấy không :
Biển xanh sóng trắng như đầu bạc
Muôn hộc thuyền tan dưới gió gào
Sấm ran chớp giật người kinh hăi
Điểm nước chim âu nổi chập chờn
Khói biển xông tràn tay núi chởm
Bạt ngàn Nam Bắc núi trùng xa
Công danh đường ấy ai nhàn nhĩ ?
Mũ lọng dềnh dang ta bước đi.
Đứng ở Đèo Ngang nh́n ra biển
Quân bất kiến :
Hải thượng bạch ba như bạch đầu
Nộ phong hám phá vạn hộc châu
Lôi khu điện bác hăi nhân mục
Trung hữu điểm điểm phù khinh âu
Hải khí quyển sơn sơn như chi
Sơn Bắc sơn Nam thiên vạn lư
Công danh nhất lộ kỷ nhân nhàn
Quan cái phân phân ngă hành hỹ !
Hoành Sơn vọng hải ca
Mưa dữ đổ nghiêng trời
Sóng táp tràn lan đất
Man mác một màu sông
Tiếng đêm ḥa gió oán
Mặt trời đỏ trốn đâu
Để dân đen than thở
Khách chờ khan giọng đọc
Hơi thu giục giă ḷng.
Nh́n mưa
Bạo vũ khuynh thiên lậu
Phi đào táp địa lai
Thế liên giang sắc tráng
Thanh nhập dạ phong ai
Xích nhật hành hà đạo
Thương sinh khán kỷ hồi
Khách t́nh ngâm vọng viễn
Thu khí chính tương thôi
Đối vũ
Sấm dữ ầm vang tiếng
Khách nửa đêm giật ḿnh
Sầm sập gió tung mành
Mưa bay như tên bắn
Đẫy gối dậy khêu đèn
Đọi dầu pha nửa nước
Tranh giọt nhảy tong tong
Dưới sân chân đầy ngập
Sấm gầm giận ai đây
Mưa về sao gấp thế
Trời đất dựng muôn loài
Thôi đừng làm như thế !
…
Nửa đêm
Bạo lôi điền nhất thanh
Khách tử trung dạ khởi
Táp táp phong đả liêm
Phi vũ tẩu vạn thỉ
Thôi chẩm tật môn đăng
Đăng du bán nhập thủy
Cấp lựu tranh tông tông
Hạ giai nhi một chỉ
Lôi hống đắc vô nộ
Vũ lai nhất hà sử
Thiên địa thành vật tâm
Bất ưng phục vi nhĩ
…
Trung dạ thập tứ vận
Thơ Cao Bá Quát có khi đùa bỡn, tự nhiên. Thoát ly khỏi sự nghiêm trọng bí tiểu, kiểu hủ nho, đại cán hay tiểu cán con con :
Này bác sóng, mời xơi chén rượu
Trẻ xưa tôi thích chọc cười chơi
Bác lôi dùm núi phương tây lại
San phẳng thành đông, sẽ tuyệt vời
Chơi Hồ Tây (bài 3)
Khuyến nhĩ trừng ba tửu nhất chi
Thiếu niên dư tối giải nhân di
Khiên lai tây bạn sơn vưu hảo
Sản khước đông biên quách cánh nghi
Du Tây Hổ bát tuyệt
Gọi sóng là bác, xem sóng như bạn. Lư Bạch yêu sóng nước v́ ánh trăng. Cao đánh bạn với mọi sự trước mắt ḿnh. Cao mời sóng uống rượu. Hai thứ nước ấy ḥa nhau ra ǵ nhỉ ? Một thứ đậm đà, thứ kia trong trẻo. Bạn mới cùng nhau nói hết nỗi niềm riêng. Cao tâm sự với sóng rằng tính ḿnh chỉ muốn chọc cười thiên hạ. Thiên hạ trang nghiêm quá. Nh́n đi, nh́n đi, chung quanh ta toàn một lũ đạo mạo. Quan trọng hóa tới hề kịch và đạo đức giả. Lột hết áo quần ra c̣n lại ǵ ? Ngoài xác thân, c̣n cái trần truồng không thần trí. Bỏ qua đi, mời bác sóng uống rượu chơi. Bác có tiện tay, xin lôi dùm dăy núi phía tây lại đây cùng nhau chén th́ tốt quá. Và nếu bác san phẳng hộ cho bức thành ở phía đông làm choáng mắt ta, th́ hay biết bao nhiêu. Bài thơ không ngông đâu. Đó là t́nh bầu bạn giữa vũ trụ với con người.
Đùa rồi rong chơi : Đem chiếc cần không lưỡi câu dạo trên ḍng nước biếc. Chẳng có ư chi, tạm mượn giải buồn ngày xuân thôi. Thế mà lũ cá không tin ḿnh chẳng phải là ông chài, cứ nhớn nhác sợ mắc phải lưỡi câu như những người dân sợ sệt kia :
Cần không, ḍng biếc dạo rong chơi
Chẳng ỷ ǵ đâu, xuân giải sầu
Lũ cá cứ ngờ ta ngư phủ
Nhớn nhác như dân sợ mắc câu
Chơi Hồ Tây (bài 5)
Dục bả không can phiến bích lưu
Vong t́nh tạm tả khiển xuân sầu
Ngư nhi vị tín phi ngư phủ
Đạp đạp như dân khiếp thụ câu
Du Tây Hồ bát tuyệt
Rong chơi đành là cốt để tiêu sầu. Nhưng với Cao Bá Quát, không chỉ thế thôi. Rong chơi là cởi bỏ bộ áo quan cách, và tấm ḷng trĩu nặng chữ nghĩa, niệm, ư, để thong dong nơi vô niệm thảnh thơi chốn trời đất. Nơi trống không sự vướng mắc.
Ta không thấy đó sao ?
Trên khoảng non sông từng qua trăm trận đánh, nay chỉ thấy một chiếc thuyền câu
Bao khách anh hùng muôn thuở, nay chỉ c̣n đám bụi !
Bách chiến giang sơn thặng ngư đĩnh
Vạn cổ anh hùng nhất tụ trần !
Ta không thấy đó sao ?
Ngẩng mặt lên, cất lời gọi kêu thời thái cổ
Chỉ thấy ngọn cây dào dạt, gió thổi lạnh lùng
Ngưỡng diện cao thanh khiếu thái cổ
Hàn sao táp táp phong linh linh
Ta không thấy đó sao ?
Đời buồn hay vui tùy từng lúc
Nơi kẻ này yêu thích, người sau lại ngậm ngùi
Lọn tâm, liễu nghĩa là chuyện ngu si !
Ngồi thừ ra tham thiền, để làm ǵ ?
Nhân thế bi hoan bắt đồng th́
Kim nhân du thưởng hậu nhân bi
Tức tâm liễu nghĩa chân như si
Ngột tọa cùng thiền hề dĩ vi !
Toàn những kẻ chưa hề biết rong chơi. Chưa từng thong dong. Sao dám bô bô hai chữ tự tại ? Ấy cũng bởi :
Khách đi không hiểu ḷng du tử
Đem thiền nói măi với nhà sư
Hành khách bất tri du tử ư
Mạn hướng sơn tăng thuyết thiền lư
Khác chi con két trong cuốn phim kia được chủ dạy cho hai tiếng chửi Hitler : «Hitler caca !» Nhưng khi đứng trước mặt Hitler, con két chẳng biết làm ǵ khác ngoài hai tiếng chửi vô vọng.
Hớp hết từng hơi Phật đưa vào cuộc sống oanh liệt, người thơ Cao Bá Quát từng có lúc răn đe giới Phật tử từ chương môi mép, chỉ than thở măi chuyện tương chao :
Cứ bảo đời là nhà lửa
C̣n ai dám học chuyển pháp luân ?
Lăng truyền thế đế giai hỏa trạch
Cánh hữu hà nhân thám pháp luân ?
Vài câu trích trên đây rút từ bài thơ «Côn Sơn hành» Cao sáng tác khi lên chơi núi Côn sơn với ông bạn thơ Phạm Long Trân. Đi chơi núi, mà kỳ thực là cuộc hành hương về dấu tích tâm linh dân tộc, với thơ, với tư tưởng Việt. Tư tưởng đă cổi trói khỏi mọi ràng buộc nô lệ, bay lên như chim Hồng vượt thắng. Thong dong tự tại. Phải chăng đó là niềm tự do, an vui tối hậu của con người ? Mà Cao Bá Quát đă chứng đắc. Nhờ sống mănh liệt từng giây khắc một. Không loạn tâm dự phóng. Quá khứ với tương lai đều nằm trong hiện tại.
Ngày xuân, ta hăy sánh bước cùng Cao trở lại rong chơi Côn Sơn :
Trời xuân mênh mông
Núi xuân muôn trùng
Chiều mang bầu rượu
Khách hứng vượt lưng trời
Bạn nói : đỉnh Côn Sơn thanh tú
Ta cùng đi thăm dấu cũ
Trèo cao, vượt hiểm, ṿng lối rậm
Xa xa cḥm cổ thụ xanh um
Phanh áo, giang tay, đủng đỉnh đi
Thông reo thổi vút mối t́nh xa
Tam Thanh, Bát cảnh (16) như theo đến
Đỗng Tân, Lư Bạch (17) rộn ràng đưa
Ngẩng mặt cất lời kêu thái cổ
Cây rạt rào gió thổi vi vu
Thấp giọng ngâm bài Tử phủ
X̣a tóc bước vào chùa trên núi
Chùa có đài Phạm vương (18)
Dấu cổ lờ mờ rêu biếc phủ
Xưa Trần Công (19) thường đến dạo
Khí núi nay c̣n đẹp
Hoa lấm tấm bên cầu Thấu Ngọc (20)
Chim líu lo trong động Thanh Hư (21)
Bài phú Ức Trai (22) c̣n đó, nhưng biết cùng ai nói ?
Danh cao muôn thuở phó trời xanh
Duy các thiền sư đời Trần (23) thân không nát
Đôi mắt tuệ (24) sáng ngời nh́n người hôm nay
Cứ bảo đời là nhà lửa (25)
C̣n ai dám học chuyển pháp luân (26)
Khách đi không hiểu ḷng du tử
Đem thiền nói măi với nhà sư
Có ṿ rượu trước mắt, cứ uống đi
Ta sẽ v́ bạn ca bài Hàn Sơn tử (27)
Dưới thành Cổ Phao bến Lục Đầu (28)
Hăy quay nh́n phương bắc nhớ người xưa
Trên khoảng non sông từng qua trăm trận đánh, nay chỉ thấy một chiếc thuyền câu
Bao khách anh hùng muôn thuở, nay chỉ c̣n đám bụi !
Uống, uống nữa đi ! chớ từ chối !
Đời buồn hay vui tùy từng lúc
Nơi kẻ này yêu thích, người sau lại ngậm ngùi
Lọn tâm, liễu nghĩa, chuyện ngu si
Ngồi thừ ra tham thiền, để làm ǵ ?
Uống, uống nữa đi ! chớ từ chối !
Ḱa trên đầu non, cây tùng cao đâm nhiều nhánh
Trèo lên nh́n ra tám cơi
Mây bay bát ngát trời
Chim xa rủ nhau về
Lá rụng bay phất phới
Khách du về hay ở ?
Côn Sơn hành
Xuân thiên hà minh mông !
Xuân sơn liên vạn trùng !
Du tử vă huề hồ
Hào hứng lăng trường không
Khách đạo Côn Sơn chi thượng thanh thả u.
Dữ tử tương tương phỏng cố du
Khóa cao độ hiểm nhiễu la kính,
Dao chỉ âm âm thương thụ đầu.
Giải y phân thủ tản bộ hành,
Tùng đào vị ngă trữ viễn t́nh.
Tam thanh, bát cảnh như truy tùy,
Đỗng Tân, Thái Bạch phân tống nghinh.
Ngưỡng diện cao thanh khiếu thái cổ
Hàn sao táp táp phong linh linh.
Đê thanh phục ngâm Tử phủ chương,
Phiên nhiên phi phát đăng sơn quynh.
Sơn quynh thượng hữu Phạm vương đài.
Cổ tích thương thương ế lục đài.
Kiến thuyết Trần công cựu du thưởng
Chí kim sơn khí y nhiên giai,
Thấu Ngọc kiều biên dă hoa tiểu
Thanh Hư động lư văn đề điểu.
Úc Trai phú tại dữ thùy luân ?
Thiên cổ cao danh phó t́nh hiệu.
Duy hữu Trần triều thiền giả bất hoại thân,
Y y tuệ nhăn chiếu kim nhân
Lăng truyền thế đế giai hỏa trạch,
Cánh hữu hà nhân thám pháp luân ?
Hành khách bất tri du tử ư
Mạn hướng sơn tăng thuyết thiền lư.
Tôn tiền hữu tửu quân thả ẩm.
Vị quân nhất ca Hàn Sơn tử
Cổ Phao thành hạ Lục Đầu tân,
Thỉnh quân bắc vọng khan tích nhân
Bách chiến giang sơn thặng ngư đĩnh,
Vạn cổ anh hùng nhất tụ trần.
Chước chước quân mạc tử.
Nhân thế bi hoan bất đồng th́.
Kim nhân du thưởng hậu nhân bi,
Túc tâm liễu nghĩa chân như si.
Ngột tọa cùng thiền hề dĩ vi ?
Chước chước quân mạc từ
Sơn tiêu phục hữu cao tùng tam lưỡng chi.
Phan trắc diếu bát hoang,
Minh vân thiên ngoại phi.
Chinh điểu tương dữ hoàn,
Lạc diệp phân phân nhi.
Du nhàn qui bất qui ?
Dữ thi hữu
Phan Lung Trân du Côn Sơn,
nhân tác Côn Sơn hành vân.
Paris, 9.1.1992
Chú thích :
1. Liệt tử nói : «Ở bể Điền Hải cá lớn ngh́n dặm, chiều dài cũng tương xứng» (Điền hải ngư quảng thiên lư, kỳ trường xứng chi).
2. Trong Tấn thư, chuyện Vương Huy Chi viết : «Quản trung khuy báo, thời kiến nhất ban» (nh́n con báo qua chiếc ống, thấy được một cái vằn). Ư nói kiến thức hẹp ḥi.
3. Địa danh ở Singapore.
4. Thuộc hải phận Nam Dương.
5. Tích xưa nói ở bể Đông có vịnh nước lớn, gọi là Vỹ Lư. Muôn ḍng nước đổ vào. Có tảng đá lớn gọi là Ốc tiêu. Khi nước dồn đến th́ bốc cháy dữ dội, thiêu hủy mọi vật, nước cũng khô kiệt.
6. Hoa hải đường không thơm. Chỉ riêng cây của Ôn Đ́nh Quân trồng ở Xương Châu là có mùi thơm.
7. Nhiễu chỉ : cuốn ngón tay. Thơ Lưu Côn tặng Lữ Thẩm đời Tấn có câu : «Hà ư bách luyện cương, hóa vi nhiễu chỉ nhu» (Ngờ đâu thứ thép cứng trăm lần tôi luyện lại mềm yếu cuốn vào ngón tay được).
8. Nguyễn Tịch đời Tấn, tính phóng đạt, thường uống rượu liên miên. Nghe ở trại bộ binh có nhiều rượu ngon, liền xin vào làm hiệu úy để được uống. V́ thế có tên Nguyễn Bộ binh (Nguyễn lính bộ). Tịch cùng với các bạn khác (Kê Khang, Sơn Đào, v.v...) gồm 7 người thường đi chơi ở Rừng Trúc (Trúc Lâm). Người đời gọi là Trúc Lâm thất hiền, bảy người bạn hiền ở Rừng Trúc. Tịch thường đi chơi rất xa, thấy cùng đường th́ khóc mà về.
9. Ma ni (tiếng Phạn) kinh Phật hay dùng, là ngọc rất sáng để vào nước đục, nước hóa ra trong. Ở đây tác giả ví mặt trăng như ngọc Ma ni.
10. Dịch thoát chữ Tam thiên, tức tam thiên đại thiên thế giới. Theo thế giới quan Phật giáo, một ngh́n thế giới họp thành một «tiểu thiên”. Một ngh́n «tiểu thiên» họp thành một «trung thiên». Một ngh́n «trung thiên» họp thành một «đại thiên». Vậy một đại thiên thế giới tính ra bằng một ngàn triệu thế giới (1.000.000.000).
11. Tham quân, chức giữ văn thư trong quân đội.
12. Tu ngu : ư nói tiếng nước ngoài. Đời Tấn Hoàn công, Hác Long làm chức tham quân, coi riêng việc rợ Nam, có vịnh câu thơ rằng : «Tu ngu dược thanh tŕ» (Tu ngu nhảy vào ao trong). Hoàn công không hiểu hỏi, Hác Long đáp : Người Nam Man gọi cá là tu ngu.
13. Trương Sứ, tức Trương Khiên đời Hán, cỡi bè đi sứ nước Nhục Chi dọc đường 2 lần bị người Hung nô bắt giam. Mười năm sau mới trốn về được. Nhờ chuyến đi ấy, người Hán mới biết địa thế và tinh h́nh các nước Tây vực.
14. Đời Chiến Quốc, Ngũ Viên tự là Tử Tư làm tướng giúp vua Ngô đánh bắt được vua nước Việt về giam. Vua Việt dâng nàng Tây Thi, vua Ngô tha vua Việt. Ngũ Viên can không nghe, c̣n nghe lời gièm pha đem giết Ngũ Viên. Khi lâm h́nh, Ngũ Viên dặn rằng : «Sau khi ta chết, khoét mắt ta đem treo ở cửa thành, để ta nh́n thấy quân Việt kéo vào nước Ngô».
15. Nhân vật ở Trung Nguyên, ư Cao Bá Quát chỉ Trương Khiên và Ngũ Viên, cốt nói lên tâm sự ḿnh.
16. Tam Thanh là thắng cảnh nổi tiếng ở phía bắc Lạng sơn gồm ba động (Nhất thanh, Nhị thanh và Tam thanh). Bát cảnh là 8 cảnh đẹp nên thơ quanh Hồ Tây tả trong «Tây Hồ bát cảnh» của một nhà thơ thời Lê Vinh Hựu. Tám cảnh ấy là : 1. Bến trúc Nghi Tàm (bến tắm của chúa Trịnh Giang dưới dăy trúc ngà ở làng Nghi Tàm). 2. Rừng bàng Yên Thái, trên vùng đất làng Yên Thái do Trịnh Giang cho trồng. 3. Đàn thề Đồng cổ, do vua Lư Thái Tông (1028 - 1054) xây để hàng năm quần thần đến thề tỏ ḷng trung hiếu. 4. Phật say làng Thụy, pho tượng Phật chống gậy, dáng đi như người say rượu ở chùa làng Thụy Chương. 5. Sâm cầm rợp bóng, nghề săn chim sâm cầm quanh Hồ Tây. 6. Đồng hoa Nghi Tàm, làng trồng hoa. 7. Chợ đêm Khán Xuân, Chúa Trịnh thường họp các cung nữ mở chợ đêm tại phường Khán Xuân mua vui. 8. Tiếng đàn hành cung, sau khi họ Trịnh đổ, những cung nữ c̣n lại ở hành cung vẫn gảy những điệu đàn rất du dương.
17. Đỗng Tân và Lư Bạch tức Lữ Đỗng Tân và Lư Thái Bạch, hai thi hào đời Đường. Lữ Đỗng Tân c̣n gọi là Lữ Tổ, một trong 8 vị tiên (bát tiên). Lư Thái Bạch được gọi là Trích tiên, ông tiên bị đày xuống trần.
18. Phạm vương, vị Hộ Pháp thường thấy trước các chùa thờ Phật. Đây là ở chùa Thiên Phúc trên núi Côn Sơn, nơi thờ ba vị Tổ phái Trúc Lâm đời Trần : Trần Nhân Tông, Pháp Loa và Huyền Quang.
19. Tức Trần Nguyên Đán, tôn thất đời Trần, làm quan đến chức Nhập nội kiêm hiệu tư đồ, B́nh chương sự, Quốc thượng hầu, lúc về già về nghĩ ở Côn Sơn. Ông ngoại của Nguyễn Trăi.
20. Tên chiếc cầu ở Côn Sơn dưới động Thanh Hư.
21. Thanh Hư, tên động thờ Phật ở Côn Sơn, do Trần Nguyên Đán sửa sang làm mới để tỉnh dưỡng lúc về già
22. Ức Trai tên hiệu của Nguyên Trăi, khai quốc công thần đời Hậu Lê. Ông có làm bài «Côn Sơn Ca» nhắc lại công ơn của ông ngoại Trần Nguyên Đán. Cao Bá Quát có cùng tâm sự Nguyễn Trăi, nên nói gặp lại bài phú nhưng chẳng biết cùng ai chia sẻ.
23. Tức Trúc Lâm tam tổ : Trần Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang.
24. Tuệ nhăn, con mắt của trí tuệ bát nhă nh́n thấu suốt thực tướng của sự vật.
25. Nhà lửa là hỏa trạch. Kinh Phật thường ví dụ cơi đời phiền năo như ngôi nhà lửa, để thúc đẩy mọi người tinh tấn tu học, sống đạo, cứu đời. Nay mở miệng cứ ba hoa than thở, một điều đời là bể khổ, một điều thế giới là nhà lửa, th́ không thể nào chuyển pháp độ người cho được.
26. Pháp luân là bánh xe pháp. Sau khi thành đạo, Phật Thích Ca thuyết pháp lần đầu nói về Tứ đế, giúp con người diệt khổ năo, chứng đạo an vui giải thoát, gọi là Phật chuyển bánh xe Pháp. Xem thêm (25).
27. Hàn Sơn tử tên một cao tăng đời Đường, tu ở động Hàn Nham trên núi Thiên Thai, không ai rơ tung tích. Lư Chỉ Dận, làm quan ở Đan Khâu nghe tiếng đến thăm, nhưng Hàn Sơn tử không tiếp, lánh chạy vào động. Cửa động tự nhiên đóng lại.
28. Thành Cổ Phao, ṭa thành cũ ở chân núi Phao Sơn, tỉnh Hải Dương, nhà Mạc sửa sang và xây dựng thêm. Bến Lục Đầu, trên sông thuộc huyện Chí Linh, Hải Dương, v́ có 6 ngọn sông đổ về nên gọi như thế.
http://www.gio-o.com/ThiVu.html
© gio-o.com 2014