Tường Vũ Anh Thy
Cao Bá Quát: T́nh Ẩn Trăm Năm
tản luận
Đời lê thê quá anh về muộn
Em ngủ một ḿnh đêm gió mưa
(Hoàng Trúc Ly)
Đó là t́nh hiện (xem Cao Bá Quát: t́nh hiện ra lời) c̣n t́nh ẩn của nhà thơ trong những ngày heo hút đó? Thấp thoáng trong hiện t́nh là những ẩn t́nh xa xôi nơi phương trời nào c̣n ai oán hận chia phôi. Cao Bá Quát đă nói và nói rất nhiều về cái ẩn t́nh đó.
Ẩn t́nh hay ân t́nh?
Ngày Cao Bá Quát nhận được thư nhà, vợ ông gửi vào cho ông tấm áo bông, bút và các thứ; ông đă ứa nước mắt. Ra đi, những tưởng nên công cán ǵ, rốt cuộc lại ngồi tù như một anh trượng phu quèn, số phận chưa biết sẽ ra sao. (lúc đó nhà nước chưa định tội.) Cuộc thăm nuôi đầu tiên này, tuy không gặp mặt, nhưng ḷng ông xúc động mănh liệt c̣n hơn lần trở về sau những cuộc đi xa trước kia. Ông thương vợ con, cha mẹ, anh em, hàng xóm, đă trực tiếp hay gián tiếp v́ ông mà chịu nhiều khổ lụy. Ta không biết nội dung bức thư nhà đă viết những ǵ, nhưng qua bài Được Thư Vợ Gửi Áo Bông, Bút và Các Thứ (Tiếp nội thư tính kư hàn y bút điều sổ sự), ta cũng có thể đoán ra vợ ông mong mỏi ông sẽ sớm được khoan hồng trở về xum họp với gia đ́nh. Bà cũng báo qua tin tức ở nhà, mọi sự không có ǵ thay đổi nhiều từ ngày ông ra đi. Riêng bà, bà rất yên tâm và tin ở ông. Bà sẽ như nàng Mạnh Quang vợ của Lương Hồng đời đông Hán, nhà nghèo, theo chồng đi ở ẩn, thường giă gạo thuê kiếm ăn, không chút phàn nàn. Nay ông gặp vận không may, mắc ṿng lao lư, th́ ở nhà, cùng lắm th́ bà cũng đi giă gạo thuê, gánh nước mướn, buôn chiếu bán tằm nuôi con, thay ông phụng dưỡng cha mẹ… Ư bà như thế, nên đọc đi đọc lại lá thư dưới ánh đèn tù, nước mắt ông ứa ra. Hồn ông suốt đêm như luẩn quẩn quanh chốn buồng thêu lảng vảng xa xăm của vợ. Ông hận không về được ngay nhà, hay đón được vợ ra để cảm tạ ḷng bà. Tấm áo bông bà gói ghém rất phẳng phiu cẩn thận, tưởng như bà c̣n gói vào đấy bao nhiêu ân t́nh cho đời ông. Ngọn bút lông bà cho, màu trắng, đầu nhọn, tưởng có thể vung lên xóa sạch bao đau khổ từ xưa. Bất chợt ḷng ông mềm ra như bún, ông bỗng có một nỗi mong mỏi, ngày nào đó sao kim kê xuất hiện, báo hiệu nhà nước có lệnh ân xá cho các tù nhân. Ông sẽ được trở về mái nhà xưa. Nơi ấy, ngay ở ngưỡng cửa, chân ông vừa giẵm lên, vừa biết có người vợ yêu quí, t́nh nghĩa thâm trọng, vẫn chờ ông, vẫn tin ông, vẫn hiểu ông, vẫn buôn tần bán tảo trong suốt thời gian qua.
Được Thư Vợ Gửi Áo Bông, Bút và Các Thứ
Đọc thư nhà dưới đèn cay mắt
Hồn đêm nay quay quắt pḥng xưa
Hận không sớm được đón đưa
Một ḿnh chờ mộng tin đưa khoan hồng
Tấm áo bông xiết bao t́nh tứ
Ngọn bút lông xóa sạch khổ đau
Mai này về lại nhà sau
Giẫm lên ngưỡng cửa biết nhau nghẹn ngào
Tiếp nội thư tính kư hàn y bút điều sổ sự
Nhất giam đăng hạ vạn hàng đề
Thử dạ tàn hồn nhiễu tú khuê
Trường hận thùy giao luân cẩm tự
Độc miên nhân tự vọng kim kê
Hàn y ổn thiếp phong tân tứ
Tố quản tiêm minh tẩy cựu đề
Lai thất tha thời hảo qui khứ
Nhập môn tri hữu nhẫm thung thê
Chữ “cẩm tự”ở câu thừa, do tích “cẩm tự hồi văn” kể chuyện Tần Đậu Thao giận vợ là Tô Huệ, đến khi đi làm quan ở Tương Châu, không thèm liên lạc về nhà. Bà vợ làm thơ dệt thành một tấm gấm, lời lẽ thâm trọng, gửi cho chồng. Đậu Thao nhận được vừa cảm vừa phục, bèn cho xe đến đón nàng.
Chữ “Lai thất” có nghĩa là nhà ở g̣ Lai, quê hương Cao Bá Quát. C̣n câu cuối nguyên nghĩa là bước vào cửa đă biết có người vợ đă từng đi giă gạo thuê nuôi con, chờ chồng.
Cái cảm động và thành thật trong bài này đă nói lên khía cạnh t́nh cảm chan chứa rất người trong tâm hồn Cao Bá Quát; khác với thái độ ngang tang khí khái khoáng đạt hàng ngày. Ở một bài khác, “Nhân người ngoài bắc vào, hỏi thăm tin tức trong làng” ông làm vào mùa xuân đầu tiên trong tù, cũng chứa chan một tấm ḷng thương yêu. Nh́n thấy người làng, cả hai đều sững sờ cảm động, nước mắt đỏ hoe. Họ quấn quưt, nói chuyện thầm th́ suốt đêm về t́nh cảnh trong làng. Được biết cha mẹ ông vẫn mạnh khỏe, chỉ nhớ thương ông đă đi xa, lại gặp cảnh ngộ xấu. Các con ông th́ mừng rỡ khi biết tin ông vẫn c̣n sống. Hỏi thăm chồng bản thảo cũ, được biết người nhà dọn bỏ cả vào cái bồ rách trong pḥng, bụi thời gian chắc đóng đầy lên chốc. Đặc biệt là cây mai trắng, ông ghi chú cẩn thận, trước ông trồng trong chậu sứ; gần đây người nhà đă đem trồng ra ngoài vườn, nay vọt lên cao quá đầu người. Ông ngâm ngùi nh́n về phương bắc, trời quê hương thăm thẳm mịt mù. Xuân trong tù đă hết, có ai lay gọi hồn ông không? H́nh như hồn ông vừa lịm chết v́ thương nhớ.
Thoại Cố Hương Tiêu Tức
Mạch mạch tương khan thức lệ ngân
Nam nam bất yếm thoại hương thôn
Lăo thân kiện tại liên nhi cách
Trĩ tử hoan lai hỷ phụ tồn
Cựu thảo tự trần đôi phế lộc
Tiểu mai vô lại khóa tu viên
Trường đ́nh bắc cố vân thiên viễn
Xuân tận thùy chiêu vị tử hồn
Thăm Hổi Chuyện Làng
Cùng sững vững cùng trào nước mắt
Cùng miên man hỏi chuyện xóm nhà
Hai thân thương nhớ con xa
Trẻ thơ mừng rỡ reo la bố c̣n
Sách vở cũ đầy trong sọt rách
Cây mai xưa lớn cạnh tường cao
Vời trông mây bắc nghẹn ngào
Ai lay hồn lịm giữa màu xuân tan
Những t́nh cảm rất vụn vặt, rất tầm thường, và rất gần gũi ấy, Cao Bá Quát đều đem cả vào thơ, hết sức giản dị, thành thực, không hề chau chuốt, không hề làm văn chương. Ông không giấu giếm cái ngang tàng khoáng đạt. Ông cùng quan điểm với Vương Diễn khi nói về con người của thi sĩ. Theo đó, thánh nhân là bậc có thể quên t́nh; kẻ tầm thường có thể không biết đến t́nh; riêng thi sĩ là người gom hết mọi t́nh ư trong trời đất để…làm thơ! Có vậy, chỉ cần một h́nh ảnh, một câu nói, một khúc hát, một ư tưởng…cũng đủ là duyên cớ khêu gợi, mở phơi khối t́nh cảm chứa chan của thi sĩ. Thí dụ một lần xa quê, Cao Bá Quát nh́n thấy hai đứa trẻ không biết con nhà ai. Chúng vừa đi vừa bi bô nói chuyện. Chỉ có thế mà bỗng nhiên ông nổi niềm thương nhớ con. Nhớ lúc chúng phụng phịu mếu máo kéo áo mẹ kêu đói, đ̣i ăn. Nhớ lúc chúng lon ton bám theo ông nội học vái học chào. Rồi miên man suy nghĩ tưởng tượng về hoàn cảnh gia đ́nh, thân phận. Tưởng tượng nhà vắng vẻ quạnh hiu từ khi ông đi xa. Ôi càng nh́n ngắm hai đứa trẻ xa lạ càng nhớ nhung cuồn cuộn. Phải chăng t́nh là sự khắng khít không rời. Đó là h́nh ảnh và ư tưởng ông viết trong bài Nỗi Nhớ
Hữu Sở Tư
Tiểu tiểu nhân gia tử
Song song bộ ngữ tŕ
Vong t́nh năng hữu kỷ
Ngộ diệc ức ngô nhi
Luyến mẫu đề cơ xứ
Khiên ông học bái th́
Môn lan kim bán tịch
Ư nhĩ hệ tương tư
Nỗi Nhớ
Tung tăng bé nhà người
Bi bô tiếng nói cười
Quên con đời mấy kẻ
Nhớ con ta nào nguôi
Níu mẹ khóc kêu đói
Ôm ông học vái trời
Cửa nhà giờ vắng vẻ
Thấy trẻ sầu thêm khơi
(bản dịch của Đào Mộng Nam)
Chữ “vong t́nh” lấy ở câu nói của Vương Diễn. Diễn có con nhỏ bị chết. Sơn Giản thấy Diễn quá đau khổ nên t́m lời khuyên giải. Diễn nói: “ thánh nhân vong t́nh, hạ ngu bất cập t́nh, t́nh chi sở chung chính tại ngă bôi.” ( thánh nhân quên t́nh, hạ ngu không tới được t́nh, t́nh gom lại hết ở bọn chúng ta.)
Đời Cao Bá Quát là một đời phiêu dạt, nay đây mai đó, hết lều chơng đi thi, đi làm quan, rồi đi tù, đi đày, v́ thế vợ ông bỗng trở thành khuê phụ. Ông làm bài Từ Ngày Chàng Ra Đi để nói lên tâm sự của bà, mà cũng là mối t́nh của ông. Từ buổi ông đi xa, th́ đêm đêm một ḿnh bà một bóng, gối lẻ, chăn đơn, giường vắng. Trăng soi mặt nước như tràn vào giấc mộng cô liêu. Gió sông rờn rợn lạnh cả trời chiều. Tấm áo bông treo trong pḥng tối quạnh hiu. C̣n tấm gương con bà muốn gửi theo mây trời viễn xứ, để cho ông, và v́ ông. Dù là đời ít gặp, mặt ít kề, nhưng t́nh của ông bà không bao giờ vơi, không bao giờ dứt.
Tự Quân Chi Xuất Hỹ
Tự quân chi xuất hỹ
Dạ dạ thủ không sàng
Hải nguyệt chiếu cô mộng
Giang phong sinh mộ lương
Tiểu kính kư viễn thiếp
Hàn y lưu cố pḥng
Tŕ thử các tự úy
Bất khiển lường tương vong
Từ Ngày Chàng Ra Đi
Từ buổi chàng đi xa biền biệt
Thiếp đêm đêm gối lẻ chăn buồn
Trăng soi biển mộng chập chờn
Gió sông rờn rợn chiều gờn gợn xanh
Chiếc gương nhỏ theo chàng viễn xứ
Mảnh áo bông thiếp giữ trong pḥng
Của nhau an ủi đôi gịng
Xa nhau ḷng vẫn một ḷng nhớ nhau
Đầu bài nguyên là câu đầu bài thơ “nhuận t́nh” của Từ Cán, người nước Ngụy thời Tam Quốc; Trương Cửu Linh thời Đường mượn làm đề tài cho một bài thơ tả thiếu phụ nhớ chồng:
Tự quân chi xuất hỹ
Bất phục lư tàn ky
Tự quân như măn nguyệt
Dạ dạ cảm thanh huy
( Từ ngày chàng đi rồi, thiếp không đụng tay đến cái máy dệt nữa. Thân h́nh thiếp gầy ṃn v́ nhớ chàng, như mặt trăng tṛn cứ khuyết dần mỗi đêm.) Tùng Thiện Vương cũng mượn đề tài này viết thành thơ năm 1845 trong tập Thương Sơn:
Tự quân chi xuất hỹ
Nhật dạ tổn dung quang
Tư quân nhược thù vơng
Xúc xứ tiện hồi trường
( Kể từ giờ phút chàng xa
Ngày đêm thân thiếp phôi pha hao ṃn
Giống như lưới nhện bao tṛn
Nhớ thương động đến ruột c̣n quặn đau)
(Bản dịch của Ưng Tŕnh và Bửu Ư)
Sở dĩ chúng tôi trích dẫn dài gịng v́ có thể ngờ rằng đề tài này rất sôi nổi, và được nhiều người hưởng ứng như một phong trào văn nghệ thời bấy giờ. Sự kiện Tùng Thiện Vương làm năm 1845, th́ có thể Cao Bá Quát cũng làm trong khoảng thời gian đó. Qua mấy bài thơ vừa kể, ta thấy ư và lời của thơ Cao Bá Quát chân thật trong sáng; khác với Trương Cửu Linh và Tùng Thiện Vương. Cao không bao giờ làm thơ chơi khơi khơi. Thơ Cao là chính hơi thở đời sống ông. Dù là thơ họa hay thơ vịnh, hay nói đến các việc, các sự vật b́nh thường như chải đầu, ăn cơm, cây gạo, ḥn đá…hay các đề tài cũ rích cà tang vẫn mang một tâm t́nh trân trọng, gắn bó, mang một vẻ tươi sáng, hy vọng, một sắc thái mới mẻ, riêng biệt rất…Cao Bá Quát. Đúng như ông chủ trương: “làm thơ gốc vẫn ở tâm t́nh thi sĩ" ( xem bài Cao Bá Quát : Tim Vẫn Say…) Nghĩ thế nào, cảm thế nào ông viết ra ngay, không do dự, làm dáng. Bởi thế đề tài “tự quân chi xuất hỹ”, người ta đua nhau khởi hứng ngâm vịnh như một tṛ tiêu khiển, th́ ông gửi gấm bao nhiêu ân t́nh và ẩn t́nh của riêng ḿnh. Chiếc gương nhỏ là vật kỷ niệm có thật, vợ ông bỏ vào hành lư khi ông ra đi. Nó có ư nghĩa của tin c̣n một chút này. Trong bài “Từ Biệt Người Nhà” (Dữ Gia Nhân Tác Biệt) ta bắt gặp cái gương nhỏ đó. Ông viết: “cách biệt đă lâu ngày mà cái gương nhỏ ngày xưa vẫn c̣n gói kín. Buồn quá, buồn như mất xác không thành bóng để làm bạn với ngọn đèn lẻ loi le lói.”
Nại biệt hữu giam tàng cửu kính
Công sầu vô ảnh bạn cô đăng
( Mảnh gương c̣n gói hồn người
Ánh đèn ră rượi bóng đời biệt tăm)
Mảnh gương nhỏ đó bây giờ ông mang nó vào tù, có nghĩa là ông sẽ gói thêm một lần giấy gói. H́nh như càng gói kín, mảnh gương càng chiếu sáng lung linh. T́nh bà cách biệt càng làm ông thao thức. Thân ông như cánh hạc lẻ loi soi vào gương thấy bóng thời gian vời vợi. Cánh hạc trong tù. Cuộc đời nhốt gió. T́nh trăm năm không trọn nghĩa bởi v́ đâu?
Hai bài Kư Hận là để bày tỏ mối ẩn t́nh của Cao Bá Quát. Bài thứ I ông viết: Thân phận như ngọn cỏ bồng đứt gốc, như bông tơ bay tơi tả trong gió đời. Ḷng đau đớn về hoàn cảnh chia cách thường lảm nhảm như dối dăng vĩnh biệt. Con hạc lẻ loi vẫn không quên bóng trong tấm gương xưa. Núi ơi núi ơi! Sao nét mi buồn ẩm đục xa xăm! Ta viết chữ HẬN mà ḷng đau bật máu. Hồn ta chết lặng trong chén rượu chia ly. Ôi từ ngày cách biệt, đă bao nhiêu nắng gió mưa sương, xóm làng ảm đạm.
Kư Hận I
Đoạn bồng phi nhứ lưỡng vô căn
Tích biệt tần đề vị tử ngôn
Độc hạc bất tằng tiêu kính ảnh
Viễn sơn hà sự phá mi ngân
Thư thành hận tự không đề huyết
Tửu túy ly bôi tức mộng hồn
Liệu đắc lữ đ́nh phân thủ hậu
Kỷ hồi phong vũ ám tây thôn
Gửi Niềm Đau I
Ngọn cỏ bồng tơ bay đứt gốc
Đời lê thê bối rối trối trăn
Lẻ loi bóng hạc đăm đăm
Gương xưa núi mới xa xăm mi gầy
Viết chữ “hận” khóc đầy bụng máu
Nhắp rượu cay ch́m đáy mộng say
Từ ta ngày ấy phân tay
Phương trời mưa gió những đầy gió mưa
Bài thứ II vẫn da diết lăng mạn: Đời ta chỉ v́ chút danh Nho mà bị trói buộc trong cơi người. Lại c̣n sợi tơ t́nh vương vấn, càng thấm thía lúc phân ly. Thế đấy, cái ấy như thói quen không bỏ được. T́nh đôi ta lồng lộng, ḷng đôi ta đă thấy nhau như tấm gương soi, nhưng biết làm thế nào hỡi em, khi đời ngăn cách. Nh́n bóng hoa vàng đẫm sương tưởng như từng giọt lệ em đă tràn ngày trước. Bóng nhạn trắng kêu trước gió, tưởng như tiếng em xưa. Mưa gió mùa thu, lá rơi mây xám, dằng dặc bao mối u t́nh. Không nỡ đem mối sầu riêng này mà giăng lên khắp chốn giang thành.
Kư Hận II
Dư sinh cơ bạn chỉ vi danh
Cánh chước ly tư nhất đoạn t́nh
Kết tập vị trừ ưng nhĩ nhĩ
Si tâm tương chiếu nại khanh khanh
Hoàng hoa sương lư tha thời lệ
Bạch nhạn phong tiền cựu lữ thanh
Hàn điệp thu vân cô hạn sự
Bất kham đề oán măn giang thành
Gửi Niềm Đau II
Vẫn đă biết nho danh ràng buộc
Lại thêm t́nh thân thuộc chia xa
Cuộc ta quen thói cũng là
Cuộc em thơ dại biết là làm sao
Hoa vàng sương tưởng bao lệ ướt
Nhạn trắng kêu sước gió tiếng em
Mây thu lá đổ ruột mềm
Sầu riêng ta chẳng nỡ giăng lên khắp giang thành
Cả hai bài thơ đều chân thật, đằm thắm chứa chan và lăng mạn. Cùng một gịng thơ đó, ở một nơi nào đó, một lúc nào đó, Cao Bá Quát đă làm bài:
Trệ Vũ Chung Dạ Cảm Tác
Tế vũ phi phi dạ bế môn
Cô đăng minh diệt tiễu vô ngôn
Thiên biên chinh khách khuê trung phụ
Hà xứ tương tư bất đoạn hồn
Phải là người t́nh nghĩa thâm trọng lắm th́ gió mưa, nhất là gió mưa dầm dề suốt đêm mới đóng cửa ngồi buồn bên ngọn đèn leo lét không nói năng ǵ. Hỡi ơi cái lặng thinh là cái muốn nói vô cùng. Một người đang trên đường lữ thứ, hiu hắt phương trời. Một người khóa kín lẻ loi trong khuê pḥng quạnh quẽ. Hai khung cảnh, một tấm ḷng. Đó là ḷng nhớ thương trọn vẹn cho nhau. Gặp cảnh đó, ḷng đó, th́ cả hai cùng buồn bă xiết bao!
Đêm Mưa Dầm Cảm Tác
Mưa dầm kín cửa đêm rồi
Ngọn đèn leo lét cùng ngồi lặng câm
Người lữ thứ, kẻ âm thầm
Cùng thương cùng nhớ ngấm ngầm xót xa
Đề tài đă cũ, lại gặp những tay tài t́nh như Đặng Trần Côn, Đoàn Thị Điểm, hay Ôn Như Hầu …xử dụng gần hết chữ, nhưng Cao Bá Quát vẫn không tránh né. V́ đó là ḷng ông, t́nh ông, và đời ông. Cho nên thơ ông vẫn có một âm điệu thật thà riêng biệt đến cảm động.
Đặc biệt bài dương phụ hành ông làm trong thời gian đi quân thứ chuộc tội ở Mă Lai, Tân Gia Ba. Bài này ông vừa là một chuyên viên thu h́nh, vừa là diễn viên thi sĩ. Ông tả một thiếu phụ tây phương (có lẽ là người Anh Cát Lợi) mặc áo trắng như tuyết. Nàng ngồi tựa vào chồng, dưới ánh trăng trong sáng trên thuyền nàng. Nh́n sang thuyền Việt Nam có ánh đèn sáng, nàng ríu rít nói chuyện với chồng. ( chắc là nàng nói về cái thuyền lạ, người lạ.) Tay nàng cầm một ly sữa, dáng điệu uể oải. Gió biển thổi rất lạnh về đêm, có lẽ nàng không chịu nổi, nghiêng ḿnh đ̣i chồng nâng dậy.
Đó là tất cả h́nh ảnh và động tác, như một khúc phim đen trắng không âm thanh. Chỉ có gió biển là nhạc đệm. Cuối cùng ông buông một tiếng thở dài: Họ đâu biết có một người Việt Nam đang trong cảnh phân ly.
Dương Phụ Hành
Tây Dương thiếu phụ y như tuyết
Độc băng lang kiên tọa thanh nguyệt
Khước vọng Nam thuyền đăng hỏa minh
Bả duệ nam nam hướng lang thuyết
Nhất uyển đề hồ thủ lăn tŕ
Dạ hàn vô ná hải phong xuy
Phiên thân cánh thiến lang phù khởi
Khởi thức Nam nhân hữu biệt ly
Cả bài thơ lại chỉ để nhớ thương người trăm năm nơi quê nhà ngóng đợi. Đó là cái t́nh ẩn trăm năm hơn một lần ḥ hẹn mà cứ măi chia xa. Bài thơ c̣n cho ta thấy cái nh́n của Cao Bá Quát về người ngoại quốc tây phương không phải là cái nh́n nghi kỵ. Nó cũng cho ta thấy tính khí ông rất khoáng đạt trước cảnh âu yếm công khai của hai vợ chồng người lạ.
Thiếu Phụ Tây Dương
Áo thiếu phụ trắng phau như tuyết
Tựa vai chồng trăng biếc đêm say
Ánh đèn thuyền Việt lung lay
Liếc sang ríu rít nàng lay áo chồng
Ly sữa ngọt tay hồng uể oải
Gió căm căm biển phả rùng ḿnh
Nàng đ̣i chồng đỡ thân h́nh
Bỗng ta trơ trọi trong t́nh biệt ly
Thơ văn Cao Bá Quát dành một chỗ đứng rất trang trọng cho t́nh nghĩa gia đ́nh. Gia đ́nh là đơn vị truyền thống của dân tộc Việt Nam. Khác với Tây Phương lấy cá nhân làm đơn vị, Xă hội Việt Nam lấy gia đ́nh làm đơn vị, bắt đầu từ cặp đôi. Điều này rất phù hợp với huyền sử dựng người dựng nước của ta. Khi người con trai hay con gái đến tuổi trưởng thành sẽ được ra ở riêng, không c̣n ở chung với cha mẹ anh em nữa. ( Ta nói tắt là “ra riêng”). Cha mẹ sẽ cấp cho một số vốn cần thiết tùy theo hoàn cảnh gia tộc. ( ngày xưa thường là cho bao nhiêu ruộng đất: mấy mẫu, mấy sào…) Trai hay gái thành thân rồi phải tự lực canh sinh. Từ đây họ chính thức là đơn vị của xă hội. Tập tục này có từ ngh́n xưa, và không hề thay đổi. Câu thành ngữ: “vợ chồng như đũa có đôi” đă nói lên cái định nghĩa về một đơn vị kép của xă hội Việt Nam. Ta hay đếm “một đôi” hơn là đếm một. Chữ đôi mang ư nghĩa đặc thù của dân tộc tính. Trong mâm cơm có nhiều đôi đũa, nhưng chỉ có một đôi đũa cả. Điều đó cũng xác định được tập tục truyền thống, trật tự xă hội, và ư nghĩa nhân sinh của ta. Chữ đôi là sự khơi mở gịng đời. Thuận với thiên nhiên, và bản tính dung ḥa của người Việt. Cũng như ta thường tự hào là con Rồng cháu Tiên. Chữ đôi c̣n có nghĩa là chẵn. Cho nên người Việt hay tính chẵn, tṛn, vuông, chứ không chịu sự phá lẻ. Khi hai vợ chồng mà một người chết sớm ( hoặc ly hôn là rất hiếm) phá lẻ ra, th́ kẻ c̣n lại tất đau buồn. Sự đau buồn này, ngoài vấn đề t́nh cảm, c̣n là sự mất mát trong đơn vị xă hội. Từ đây, đơn vị xă hội đó khấp khểnh như đũa chiếc. Kẻ c̣n sống một ḿnh có thể sống v́ nhiệm vụ, nghĩa vụ, hay v́ hoàn cảnh hay lư do nào đó, nhưng vẫn hoài băo cái ngày cuối đời, được trở về đơn vị gốc. Cho nên trong bài thơ “Khóc Vợ” của Tú Mỡ mơi có câu: Bà về trước, tôi về sau”. Trước và sau, mở và khép, đó là tất cả ư nghĩa của một đời sống riêng biệt Việt Nam. Và chỉ có Việt Nam mới có được những lời lẽ thâm t́nh thống thiết như câu đối của Phan Bội Châu làm khi vợ chết:
Ba mươi năm cầm sắt khéo xa nhau, mưa sầu gió thảm, chỉ bóng làm chồng, ngồi ngó trẻ con rơi lệ nóng.
Dưới chín suối thân bằng như hỏi đến, lấp biển dời non, nào ai giúp bác, chỉ c̣n ḿnh lăo múa tay không.
C̣n h́nh ảnh bi hùng nào hơn h́nh ảnh một tay lăo trượng vẫn vũ lộng thanh kiếm chống xâm lăng, cứu nước và dựng nước, với tâm t́nh đơn lẻ trầm trọng của sự vừa mất đi đơn vị gia đ́nh? H́nh ảnh đó ta cũng thấy nơi Cao Bá Quát, một thân trượng phu c̣n tràn đầy nội lực, c̣n vững tay kiếm trong trận chiến tư tưởng cách mạng con người, nay bỗng hoàn toàn cô độc v́ người bạn trăm năm đă ra đi. Có lẽ hoàn cảnh của Cao Bá Quát c̣n bi phẫn hơn nữa, bởi cha ông chết chưa đầy năm, mẹ ông vừa đau ốm dai dẳng chưa lành, mà vợ ông bỗng lại qua đời. Tai họa đến với ông như bức bách, như thách thức. Ông thấy giữa sống và chết là hai phương trời khác biệt và cách biệt, cũng như hồn và xác. Ông đă từng khóc chị, khóc con, khóc bố, bây giờ là khóc vợ. Nước mắt ông tuôn ra không biết cho ngày xưa, cho bây giờ, hay cho ngày sau. Cái đau đớn cùng cực của ông có lẽ là sự vĩnh viễn chia xa trong khoảng trời đất bao la c̣n lại, một ḿnh ông từ nay phải chiến đấu trong cô độc. Phải chăng đó là sự sắp đặt của hóa công? Cái cố t́nh của định mạng? Trước và sau, mở và khép, tại sao ông lại chỉ có một ḿnh?
Điếu Nội
Phụ vong tài bát nguyệt
Mẫu bệnh dĩ kinh tuần
Huống tử khuê trung phụ
Phục vị tuyền hạ nhân
Tử sinh hồn dị biệt
Tân cựu lệ nan phân
Tạo vật cố vi giả
Du du thử nhất thân
Khóc Vợ
Cha mất chửa đầy năm
Mẹ đau trải cả tuần
Tới giờ về chín suối
Lại chính bạn chung chăn
Sống thác hồn chia dễ
Trước sau lệ khó phân
Trời xanh sắp đặt thế
Mờ mịt tủi cho thân
(bản dịch của Đào Mộng Nam)
Một bài thơ khác cùng nhan đề:
Điếu Nội
Lệ kết hàn băng lệ vị tàn
La y huống phục lệ lan can
Phương tương bạch thủ ḱ giai lăo
Ninh quán thanh niên cự tác quan
Hoa lạc dĩ vô đăng hạ chiếu
Nguyệt minh duy hữu mộng trung khan
Thương quân bất cảm cao thanh khốc
Chỉ khủng quân tâm bất tự an
Khóc Vợ
Lệ đọng thành băng lệ chửa tan
Áo tơ lại đẵm lệ tuôn tràn
Mới vừa tóc bạc nguyền chung sống
Sao nỡ đầu xanh vội cách ngăn
Hoa rụng ánh đèn nào chiếu sáng
Trăng soi hồn mộng măi băn khoăn
Thương người không dám hờ to tiếng
V́ sợ ḷng người chẳng được an
(bản dịch của Đào Mộng Nam)
Tường Vũ Anh Thy
(trích Cao Bá Quát Giữa Hồn Thiêng Sông Núi - Ức Trai xuất bản 1985)
Cao Bá Quát: tiếng hát giữa rừng
Cao Bá Quát: bài hát cái roi song
Cao Bá Quát: tiếng hú dài cơi mộng
Cao Bá Quát: ngày sinh của thi sĩ
http://www.gio-o.com/TuongVuAnhThy.html
© gio-o.com 2017