TƯỞNG BÌNH MINH

Tản Mạn Về Trăng



tản mạn

 

Ấu thơ tôi bắt đầu từ chốn làng quê thân thuộc với những cánh cò ruộng lúa những bờ sông bãi cỏ; để đến khi lớn lên ký ức luôn lấp lánh vẻ đẹp bình dị mà vô song của quê nhà Việt Nam.

Tuổi thơ tôi có những ngày dài bao cấp khoai sắn có những đêm trong khu tập thể mất điện nên trăng là vì cứu tinh là người bạn dịu hiền là người giữ cho niềm vui và sự hồn nhiên con trẻ luôn đong đầy. Dưới ánh trăng tôi cùng bè bạn thường chơi những trò chơi dân gian như trốn tìm bắn đùng đình cướp cờ… cũng có lúc co rúm người bên nhau nghe kể chuyện ma hết sợ hãi lại vui tươi ca hát:

Bóng trăng tròn lướt qua rặng tre

Trăng lấp lánh ánh vàng xóm quê

Trăng trăng thanh sáng ngời em hát cười

Trăng trông em đang múa hát trăng cũng cười (1)

Ánh trăng quê nhà vẫn còn đó nhưng không biết những người bạn nhỏ ngày xưa giờ đây đã lưu lạc phương nào.

Vầng trăng sáng giữa trời là cầu nối của những miền không gian cách biệt của những miền thời gian biền biệt – đưa hồn kẻ tha hương về với quê nhà. Đó là Linh Thảo trong ’Chân trời góc bể’:

Ra đi chưa hẹn ngày về

Còn chăng vườn cũ trăng quê đợi chờ

Cuộc đời gió đẩy mây đưa

Chân trời góc bể mấy mùa tuyết sương

hay Lý Bạch với ’Xúc cảm đêm trăng’:

Đầu giường trăng tỏ rạng

Đất trắng ngỡ như sương

Ngẩng đầu nhìn trăng sáng

Cúi đầu nhớ cố hương (2)

và Nakamaro bên những vần hòa ca:

Vầng trăng ngà

Bên trời mới mọc

Nhớ thương quê nhà

Một vầng trăng cũ

Miền Kasuga (3)

Vầng trăng Việt Nam mang vẻ đẹp lấp lánh sóng nước như ca dao:

Hỡi cô tát nước bên đàng

Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi?

Chất ca dao đậm đà khiến nhiều người lãng quên tác giả cụ thể của hai câu thơ trên thi sĩ Bàng Bá Lân. Phải chăng đôi khi cái Đẹp được quy về tính vô danh như một nỗ lực tôn thờ tuyệt đối?

Với tôi thơ ca phương Tây là thế giới xa lạ nhưng ngược lại tôi luôn tìm được nỗi đồng điệu trong những thanh vần Á đông. Và vầng trăng Nhật Bản:

Từ bóng tối tôi đi

Vào con đường tăm tối

nhưng đằng xa kia

trên triền núi

ánh trăng lên diệu kỳ (4)

Ánh trăng Nhật Bản không lấp lánh không vằng vặc không sáng ngời Việt Nam cũng không tỏ rạng Trung Hoa – mà man mác một sắc màu sâu thẳm huyền diệu. Đó là ánh sáng của Phật A Di Đà.

Thiên nhiên trong thơ cổ Trung Hoa hoặc Việt Nam là những hình ảnh ước lệ như phong hoa tuyết nguyệt. Các thi nhân xưa thường vay mượn sắc thái trời đất để tức cảnh sinh tình nhằm thoã mãn cái công thức đã trở thành sáo mòn ’người buồn cảnh có vui đâu bao giờ’. Nhưng thiên nhiên trong thơ cổ Nhật Bản có vị thế độc lập hơn đối với những hỉ nộ ái ố ích kỷ và tầm thường chốn thế nhân. Hãy xem:

Khi tôi nhìn trăng

Nghìn điều vương vấn

Sầu đau ngỡ ngàng

Mùa thu đâu phải

Một mình tôi mang (5)

Không phải vì người buồn nên thấy trăng cũng buồn mà là bởi ’sầu đau’ nên người mới có thể nhận ra niềm đồng cảm của mình với trăng một cách bị động bị động đến ’ngỡ ngàng’.  

Nhưng thi ca Việt Nam cuối cùng cũng có một ánh trăng sáng tạo Mai Thảo:  

Chế lấy mây và gây lấy nắng

Chế lấy đừng vay mượn đất trời

Để khi nhật nguyệt đều xa vắng

Đầu thềm vẫn có ánh trăng rơi (6)

Nói đến trăng tôi nhớ đến Hàn Mặc Tử. Sinh thời Hàn Mạc Tử - hay trước đó nữa là Phong Trần Lệ Thanh - đã thêm một vầng trăng non trên chữ Mạc biến ’rèm lạnh’ thành ’lãng khách văn chương’. Hàn Mặc Tử viết rất nhiều về trăng nhất là vào những ngày tháng cuối đời. Trong cô quạnh trong nỗi đau thể xác trong cận kề với cái chết thế giới của Hàn là thế giới về trăng đố vầng trăng thuộc về một thế giới khác. Đó là những ’Một miệng trăng’Ngủ với trăng’Rượt trăng’Say trăng’Trăng tự tử’Uống trăng’… Và ’Vầng trăng’ buốt lạnh hồn ớn lạnh hồn của Hàn thi sĩ:

Lạy Chúa tôi vầng trăng cao giá lắm

Xin ban ơn bằng cách sáng thêm lên

Ánh thêm lên cho không gian rất đẫm

Linh hồn thơ mát rợn với hương nguyền.

Thời phổ thông trung học tôi rất thích hai tác phẩm được in trong sách giáo khoa có liên quan đến trăng một là truyện ngắn ’Mảnh trăng cuối rừng’ của nhà văn Nguyễn Minh Châu hai là bài thơ ’Ánh trăng’ của thi sĩ Nguyễn Duy. Khách quan mà nói văn học nhà trường ở Việt Nam mấy năm gần đây đã có nhiều cải thiện với sự xuất hiện của nhiều tác phẩm có ’chất văn chương’ hơn thay thế cho không ít thứ nặng nề thuần tuý khẩu hiệu chính trị như vẫn thường thấy trước kia. Tuy nhiên tư duy khai thác các tác phẩm văn học thì vẫn chưa thay đổi vẫn là những lối mòn sáo rỗng ’yêu - căm - chiến - lạc’ (yêu nước - căm thù giặc - tinh thần chiến đấu chiến thắng - lạc quan cách mạng ) hoặc ’đấu tố các cụ ngợi ca chúng ta’ (tố cáo sự thối nát mục ruỗng của chế độ thực dân phong kiến đồng thời ca ngợi sự ưu việt tươi đẹp của chế độ mới xã hội chủ nghĩa). Nhưng thôi văn học nhà trường là chuyện dong dài hẹn tái ngộ trong một dịp tản mạn khác. Nay xin chép ra đây bài ’Ánh trăng’ của Nguyễn Duy:

Hồi nhỏ sống với đồng

với sông rồi với bể

hồi chiến tranh ở rừng

vầng trăng thành tri kỷ.


Trần trụi với thiên nhiên

hồn nhiên như cây cỏ

ngỡ không bao giờ quên

cái vầng trăng tình nghĩa.


Từ hồi về thành phố

quen ánh điện cửa gương

vầng trăng đi qua ngõ

như người dưng qua đường.


Thình lình đèn điện tắt

phòng biu-đing tối om

vội bật tung cửa sổ

đột ngột vầng trăng tròn.


Trăng cứ tròn vành vạnh

kể chi người vô tình

ánh trăng im phăng phắc

đủ cho ta giật mình.

Vầng trăng treo giữa trời như tấm gương tâm thức để người soi lại mình đối diện với lòng mình khiến người vẫn kịp nhận ra những vô tình vô nghĩa bấy lâu. Trăng khơi gợi những kỷ niệm trăng làm lấp lánh những vật những việc những ý nghĩ tuồng như là quen thuộc tuồng như là nhỏ nhặt tầm thường tuồng như đã bị cuộc sống hối hả lướt qua tuồng như đã bị sự hờ hững và biếng nhác của con người phủ lấp.

Tôi ít khi làm thơ vì tự thấy thơ mình dở quá. Đáng quý nếu thơ đến từ sự xúc động trong lòng người làm thơ. Và đáng tiếc nếu những vần thơ ấy không đủ sức làm xúc động người khác. Đọc thơ Nguyễn Trọng Tạo tôi thấy nhiều vần của ông không chỉ khiến cho kẻ khác xúc động rung động mà thật sự rúng động. Ví dụ như ’Thế giới không còn trăng’:


Thế giới không còn trăng! Tin nghe rùng rợn quá

chú Cuội cây Đa tan xác giữa thiên hà

không còn Tết Trung thu không còn đêm phá cỗ

không còn ánh trăng ngà cho thi sĩ làm thơ


Hàn đã quen có trăng như người tình muôn thuở

ta đã quen có em như trăng khuyết trăng tròn

Esenin uống trăng tan đầu ngọn cỏ

Lý Bạch đuổi theo trăng xuống tận đáy sông trong...


Thế giới không còn trăng. Sao có còn không nhỉ?

sao dẫu còn chẳng thay nổi trăng đâu

người cũng vậy chết đi là vĩnh viễn

không còn người dù nhân loại sinh sôi


Ta rờn rợn nghĩ tới lò hoàn vũ

một ngày kia hoả táng cả trăng vàng

đừng tưởng giết một tinh cầu giá lạnh

mà ngỡ mình vô tội với tình trăng...


Thế giới không còn trăng dù chỉ là tưởng tượng

nấm mồ trăng chôn cất ở nơi nào

xin nhỏ lệ một lần cho mãi mãi

những tinh cầu ta ngưỡng mộ trên cao...


Trước sau như một thi sĩ vẫn là những người dễ xúc động và đáng quý nhất thế gian. Tôi tin rằng những tưởng tượng về một thế giới không còn trăng của Nguyễn Trọng Tạo đã làm sáng lại vầng trăng trong lòng nhiều người.   

 

Chú thích:

(1): Trích lời bài hát ’Ánh trăng hòa bình’ nhạc Hồ Bắc lời Mộng Lân.

(2): Bản dịch thơ của Hải Đà từ bài ’Tĩnh dạ tứ’ của Lý Bạch:

Sàng tiền minh nguyệt quang

Nghi thị địa thượng sương.

Cử đầu vọng minh nguyệt

Đê đầu tư cố hương.

(3): Bản dịch thơ của Nhật Chiêu từ bài tanka của Nakamaro:

Ama no hara

Furisake mireba

Kasuga naru

Mikasa no yama ni

Ideshi tsuki kamo

(4):  Bản dịch thơ của Nhật Chiêu từ bài tanka của Izumi:

Kurasa yori

Kuraki miti ni zo

Irinubeki

Faruka ni terase

Yama no Fa no tuki

(5): Bản dịch thơ của Nhật Chiêu từ bài tanka của Chisato:

Tsuki mireba

Chiji ni mono koso

Kanashi kere

Waga mi hitotsu no

Aki ni wa aranedo

(6): Trích trong bài thơ ’Em đã hoang đường từ cổ đại’ của Mai Thảo.

 


Tưởng Bình Minh

2007