phỏng vấn

nhà thơ, nhà tranh đấu nhân quyền

Thi Vũ

Vơ Văn Ái

lê thị huệ, chủ biên gio-o.com thực hiện 

(tiếp theo, phần 4)

 

(bấm vào đây đọc phần 1- câu hỏi  từ 1 - 9) 

(bấm vào đây đọc phần 2 – câu hỏi từ  10 – 20 )

(bấm vào đây đọc phần 3 – câu hỏi từ  21 – 29 )

(bấm vào đây đọc phần 4 – câu hỏi từ  30 – 42 )

(bấm vào đây đọc phần 5 – câu hỏi từ  43 – 56 hết )

 

30. Lê Thị Huệ: Ông có một lối kiến trúc tiếng Việt rất bản sắc. Tôi nghĩ lối chơi chữ trong các bài viết của ông biểu lộ cá tính trí thức, cầu kỳ, cô đọng, động năo, nhưng vẫn có cái lôi cuốn của bay bướm t́nh cảm của Tiếng Việt. Ông có một thần tượng tiếng Việt nào không ? Ông có dùng một thần tượng tiếng Việt nào để theo đấy làm nơi so đối không ?

Vơ Văn Ái : Tôi chưa bao giờ có thần tượng. Thuở nhỏ có ư thích riêng văn Nguyễn Tuân. Sau này, chấn động mới với phương ngữ Nam bộ qua Lê Xuyên trong Chú Tư Cầu. Thế mới biết ngôn ngữ nước ta giàu biết bao, nhưng chiến tranh huynh đệ quá dài hăm hại sự phát triển ngôn ngữ và văn học. Với Lê Xuyên, ngôn ngữ Việt rộ nở tới Cà Mau, không c̣n khoanh vùng nơi miền Bắc với mẫu mực Tự Lực Văn Đoàn.

Từ nhỏ tới lớn chỉ có một ư chí không ngừng là làm mới ngôn ngữ Việt. Tôi quan niệm mỗi nhà văn phải là cái rồng ḿnh cho ngôn ngữ sống dậy. Làm sao cho ngôn ngữ bắt kịp cái thơ mộng của đất trời, đồng thời bắt kịp tư tưởng để con người đứng vào vị trí môi giới với vũ trụ.

 

31. Lê Thị Huệ: Ông là một trong vài người hiếm hoi, mà khi đọc bài ông, tôi bắt gặp những từ ông chế ra rất cầu kỳ trí thức, nhưng lại đắc địa và toát ra vẻ đẹp của sự cầu kỳ trí thức. Chẳng hạn trong bài thơ ông giới thiệu Bùi Giáng ông gọi thơ Bùi Giáng là "Một Triều Thơ Luân Sinh", phải là một độc giả cầu kỳ trí thức mới thích nổi sự chơi chữ "luân sinh". Nhưng cũng chính trong bài viết này, ông lại có những đoạn rất sáng tạo cảm xúc : "Các nhà thơ tiền chiến lập công đầu thi hoá ngôn ngữ Viêt. Thơ phơi phới những niềm chiều, nỗi nhớ, những t́nh vang ư thiết, những nhú người khua động b́nh minh" . T́nh vang ư thiết” là cái ǵ mà lần đầu tiên đọc thấy…  Ông có chủ tâm làm một cuộc cách mạng nào trong cách viết Việt không?  Cá nhân tôi thấy "văn chương" vẫn được người Việt Nam ghiền, là lối viết bay bướm ḷng ṿng chủ lời hơn ư, duy cảm hơn duy trí, là lối viết bỏ lơ và không hảo phần trí lực. Nên khi bắt đầu cầm bút tôi đă muốn “hạ thấp xuống một tông” lối viết “duy lời duy cảm” này trong tôi (muốn th́ muốn vậy, nhưng ...). Đến khi gặp được cách viết của ông Thi Vũ trên tờ Quê Mẹ, tôi thấy như gặp được một lối viết tâm đắc với ḿnh. Tôi học hỏi được trong các tác phẩm của ông những cấu trúc tiếng Việt rất sáng tạo, thoả măn nhu cầu trí thức cầu kỳ, thoả măn được nhu cầu thông suốt tiếng Việt. Điều mà ở những nhà trí thức khác tôi thấy hoặc là họ mang nguyên con cấu trúc của ngoại quốc chuyển sang tiếng Việt, hoặc là họ thiếu phần "sống", thiếu mùi định mệnh bị cuốn hút lăn lộn trong ngôn ngữ Việt để chuyển hoá trí thức ḿnh.

Vơ Văn Ái : Chữ luân sinh là một bước tiến về suy tưởng trong tôi trên lĩnh vực Phật học. Đạo Phật thường dùng chữ luân hồi để diễn tả sự tái sinh của con người trong cơi trầm luân khi chưa được giải thoát giác ngộ. Luân hồi như thế là một ṿng tṛn không dứt. Năm 13 tuổi nằm trong tù đọc các bộ kinh Phật, tôi bắt đầu quan niệm khác. Tôi nghĩ rằng trong đời con người, hay thông qua nhiều kiếp, con người luôn có sự tiến bộ dù ít dù nhiều tùy theo năng lực tự giác hay học hỏi t́m ṭi. Thế th́ chúng ta chuyển hóa theo ṿng tṛn xoáy ốc hướng thượng. Chúng ta thoắt sinh từ cơi này sang cơi khác càng lúc càng tiến bộ, càng lúc càng giải thoát, trên phạm vi một đời người hay trải qua nhiều kiếp sống như niềm tin người Phật giáo. Phương chi tôi quan niệm tái sinh là tái sinh trong từng khoảnh khắc ngay trong cuộc đời ḿnh. Nên tôi chặt đứt ṿng tṛn cố định của luân hồi chuyển sang sức sống có tiến bộ có tầng cấp, có viễn tŕnh hướng thượng của luân sinh.

Thơ Bùi Giáng không theo ḍng, mà là từng cơn hải triều đột phá, luân sinh miên viễn. Triều thơ Việt Nam năm thế kỷ qua có ba thời bung phá về chữ nghĩa, mạch thơ và ư tưởng : triều thơ Nguyễn Trăi ở thế kỷ XV, triều thơ Nguyễn Du ở thế kỷ XVIII, và triều thơ Bùi Giáng ở thế kỷ XX.

Chị nhận xét đúng khi “thấy "văn chương" vẫn được người Việt Nam ghiền, là lối viết bay bướm ḷng ṿng chủ lời hơn ư, duy cảm hơn duy trí”. Ca cải lương điển h́nh đại quan cho nhận xét này, những lời chữ suông sẻ, hay ho, tṛn trịa hấp dẫn, lôi cuốn ta không v́ ư nghĩa mà nhờ điệu nhạc réo rắc dụ dỗ ta trầm đắm đến tha hóa lúc nào không hay. Chuộng cái hoa ḥe, nhẹ phần bản chất, v́ vậy tư tưởng Việt khó định h́nh ? Muốn biết một bài văn đứng vững hay không, hẵng dịch ra ngoại ngữ  Anh, Pháp... là biết ngay. Những bài văn “gọi là hay” nhờ bay bướm, lả lướt, đê mê của các tác giả Việt khi dịch sang tiếng Anh, tiếng Pháp, sẽ ḷi ngay cái hỏng và sự vô nghĩa của bài viết. Viết không thể là đánh phấn bôi son.

Tôi không “chủ tâm làm một cuộc cách mạng trong cách viết”. V́ viết là sống. Sống là thức tỉnh tâm linh, từ đó sáng tạo hiện ra, bắt nguồn cho các nền văn hóa đa dạng mà văn chương là sự chuyển ḿnh.

 

32. Lê Thị Huệ: Ông biết bao nhiêu tiếng ? Ông có cảm tưởng như thế nào khi tôi nói văn hóa của tiếng Việt ở vài phương diện nào đó đă gây nên những hạn chế trong việc sáng tạo nên một tác phẩm có tính quốc tế từ bấy lâu nay. Muốn nuôi dưỡng một tác phẩm có tầm vóc quốc tế, văn hóa tiếng Việt phải có những cú tống đạp trong ḷng ngôn ngữ nó. Tôi thấy ở những bài viết của Thi Vũ có những cú tống đạp này

Vơ Văn Ái : Tôi biết một số ngoại ngữ nhưng không giỏi : Pháp, Anh, Đức, Trung văn, Phạn ngữ.

Theo tôi, những hạn chế trong việc sáng tạo nên một tác phẩm có tính quốc tế là cái nh́n và viễn kiến. Người Việt có quá nhiều mặc cảm, một thứ mặc cảm vửa tự tôn vừa tự ti. Cái ǵ ḿnh cũng nhất, nhưng khi đối diện với người ngoại quốc th́ lại hết sức qụy lụy, nịnh hót, sợ hăi. Người Việt thiếu tự tin lại ít cầu học. Hẳn nhiên không phải là mọi người Việt, nhưng nói chung, đa số chỉ cầu học để thi đậu làm quan, chứ không để thâm nhập kiến thức hầu t́m ḍ phát kiến. Đây là hệ quả của cái học Tống Nho truyền thừa bao nhiêu thế hệ (“Anh chưa thi đổ th́ chưa động pḥng” !!). Đa số mê thành đạt nhưng không kiên tŕ. Thích bắt chước hơn sáng tạo. Không có tinh thần bảo bọc, quư trọng nhau giữa người cùng ṇi giống. Với những đức tính đại ngă, tự thị và quy chiếu về ḿnh (egocentrique) như thế làm sao ḥa đồng với nhân loại để đạt tính quốc tế trong sinh hoạt hay sáng tác ?!

Chị nói đúng, cần “những cú tống đạp trong ḷng ngôn ngữ”, mà ngôn ngữ là tư tưởng. Thoát vượt trí năng và giác quan, đưa trực giác cảm nhận tới trực giác ngôn  ngữ, trực giác h́nh tượng, mới mong đạt tới nền văn học thế giới.

 

33. Lê Thị Huệ:”Trưa ṭa soạn hư ảo. Mấy phiến lá đung đưa trăm chiếc phất trần. Nắng vẫn cứ gay. Mùi hoa Lụa nồng hơi phả vào khứu giác, gợn từng tiền kiếp bồi hồi. Hoa Lụa chắc cùng loài với hoa thiên lư, chỉ khác ở màu.  Từng chùm đơn trắng nơn, hé giữa vùng lá ngọc giây leo. Thoạt mới nhú là những thỏi màu hồng ngự, bỗng nở toe trắng sứ, nhẫn giữa ḷng một hạt bạch ngọc tỏa hương ngát dịu.  Bởi đó mới có tên hoa Lụa. Không nồng ngợp dạ lư hương, không ngát trầm hoa lài, hoa bưởi, không đậm rực hoa phấn tím. Hoa Lụa thoang thoảng nhẹ nhàng mà quyến rũ, dành để cho những người lưu xứ ? Chẳng sặc sỡ ngỡ ngàng. Không nồng nàn bải hoải. Màu hoa Lụa lẳng trốn vào không gian lục mát, lôi tầm mắt ta yên ả tan dần vào kỷ niệm xưa, hương hoa Lụa  không kêu mời vồn vă mà chỉ gợi lên nỗi nhớ”  Đây là một đọan văn mà tôi nghĩ chúng nguyên thủy (original) từ cách nhận xét về bối cảnh không gian, cho đến lối sáng tạo chữ nghĩa. Trong sáng tác, điều nào gây hào hứng và là điểm tựa cho công việc sáng tác của ông trước ? Một mạch văn hấp dẫn, hay một bối cảnh hoặc một ư tưởng cần có bản văn để phô bày ?

Vơ Văn Ái : Sáng tác là nh́nthấy. Thấy qua diễn đạt. Nhiều người nh́n trâng nhưng chẳng thấy. Con mắt đối diện với núi, sinh ra ư thức về núi, kéo theo hàng loạt nhận thức về núi có tính dẫn đạo về tướngtính của núi. Cũng thế đối với 4 giác quan khác, tai nghe âm thanh, lưỡi nếm mùi vị, mũi bắt mùi hương, tay chạm sờ h́nh thể. Lại c̣n cầu nối của ư thức thứ sáu nữa. Tâm lư học Phật giáo đẩy xa tới thức thứ tám gọi là A lại da thức.

Cho nên không có ǵ trước cũng chẳng có ǵ sau. Tất cả xẩy ra cùng lúc, trực giác cảm nhận đưa tới trực ngộ ngôn ngữ, trực ngộ h́nh tượng, biến thành ḍng biểu thị là thơ, văn, họa, nhạc, đạo. Con mắt đâu thấy mắt nó ? Nhưng va chạm với cảnh giới bên ngoài sinh ra cái biết, cái thấy, khơi sáng tâm hồn và bắt nguồn sáng tạo. Và sáng tạo là chặt đứt mọi ư tưởng hữu hạn, đau khổ và tự ngă độc tôn. Sáng tạo là chiều thứ năm của trực giác người quan sát thêm vào không gian bốn chiều của Einstein (ba chiều vật lư và một chiều thời gian).

 

34. Lê Thị Huệ: C̣n dưới đây là một đoạn khác mà tôi nghĩ thế hệ những người như Thi Vũ, Vơ Đ́nh đă mở ra một cánh cổng Trí Thức cho giới sáng tác Việt Nam hải ngoại :  

“Tuổi trẻ vừa lớn lên, đă phải thoái vị, để ru ḿnh vào cơn mê ngủ, hoặc ngồi nói huyên thuyên. Ngủ hay nói huyên thuyên đều là trạng thái của sự vong thân. Con người thôi làm chủ những buổi trưa, thôi làm chủ cây đào, ḍng sông, thôi làm chủ một rặng hương, đôi mắt hay một bàn tay. Đời đong đưa vô định. Đời lập đi lập lại những trưa mất, chiều xế, đêm phai. Khiến ngày mở ra xấp lại hoài ḥai những cánh cửa b́nh minh bại trận.

“Nửa trưa hay nửa khuya th́ cũng thế. Nỗi mệt nhọc ngang nhau, cơn ngủ mời mọc. Cứ như tuyên lệnh: Người thức hay không thức ? Sau đó, người đi vào nỗi cô đơn của cơn thức, hay lặng câm nhọc nhằn theo thỏi chết trơ đầy mộng.

“Riêng đêm giao thừa con người không ngủ. Điều lạ của năm. Phải chăng đó là giây phút vượt biên từ năm này sang năm khác ? Từ vừng sống này sang đỉnh sống khác ? Thời điểm chẳng ai muốn bị vứt lại nơi chốn cũ càng, qúa khứ, phai úa. Mọi  người vượt lên trong đêm nắm lấy đêm lay hỏi về vận mệnh một Ngày.” Thỏi chết trơ đầy mộng” ! Không thể không bị lôi cuốn bởi hấp lực của nhóm chữ này. Thưa ông, đây có phải là v́ ưu tư từ trong qúa tŕnh suy tưởng để sáng tạo nên liên tưởng này?  Hay trong một phút giây tuyệt đường tiếng Việt đă khiến ông nẩy bật ra khúc liên tưởng “Thỏi chết trơ đầy mộng”này ? Tại sao lại gọi là “Thỏi chết trơ đầy mộng” ?

Vơ Văn Ái : Chị rất tinh tế khi nhận thức “trong một phút giây tuyệt đường tiếng Việt mới bật ra khúc liên tưởng”. Phải tuyệt đường tiếng Việt, ngôn ngữ Việt mới ló ra tiếp viện, sinh sôi nẩy nở. Viết là tuyệt lộ trong suy tư, bơ vơ trong ngôn ngữ. Người viết luôn ở trạng thái bị trấn áp, bao vây, bị đẩy tới chân tường. Cực kỳ tuyệt vọng. Bỗng sinh lộ hoát nhiên mở ra. Như hai viên đá câm nín, ù ĺ, tŕ trệ, chợt đánh vào nhau mà tóe lửa. Ánh sáng của sáng tạo nếu không nói là sáng thế. Từ một thế giới sản sinh ra muôn ngh́n thế giới. Từ một con người sản sinh ra muôn vạn giống dân.

Có câu chuyện Thiền ứng vào nhận xét của chị. Một thiền sinh cheo leo trên vực thẳm, miệng cắn vào một cành cây làm nơi cứu tử. Vị thiền sư đưa ra công án (xem chú thích số 2), bắt phải trả lời th́ mới đạt đạo. Làm sao đây ? Mở miệng đáp sẽ đạt đạo, nhưng mở miệng là rơi vào hố thẳm chết tươi. Không trả lời tất không thành đạo ! Giác ngộ trong đạo hay sáng tác trong văn học nghệ thuật là trả lời câu hỏi của vị thiền sư khi ở vị thế cheo leo, vô vọng kia. Hẳn nhiên lời đáp không có một, mà tùy thuộc tâm tưởng của mỗi người. Dĩ cùng tắc biến, biến tắc thông. Phải dám đi đến tận cùng địa ngục thiên đường mới mở ra.

Sống chết đan xen nhau. Sống là đi về cái chết. Chết là ngồm ngoàm cái sống. Biết vậy, nhưng con người vẫn cứ sống ngờ ngờ không ư thức, như một « thỏi chết trơ ». May thay c̣n tràn đầy mộng mị để sống qua ngày. « Thỏi chết trơ đầy mộng » là trạng thái giao thời chờ đợi tái sinh, tùy thuộc mộng mê hay mộng tỉnh, tức vai tṛ giác ngộ. Giác ngộ là ĺa xa vô minh. Ta không thể giúp con ngựa hết khát nước, nhưng ta có thể dẫn con ngựa tới suối nước. Đó là vai tṛ của giác ngộ.

 

35. Lê Thị Huệ: Phải là trí thức hải ngoại đọc những sáng tác như “Chiếc Ṿng” của Vơ Đ́nh mới thấy được cái trí thức Việt bùng vỡ và nghẹn họng ra bên ngoài Việt Nam như thế nào. Phải là trí thức hải ngoại đọc đọan văn trên của Thi Vũ, mới chiêm nghiệm được chỗ đứng của Lưu Vong và cái “giá trị riêng một người” phân định mong manh như thế nào. Nhân đây, tôi muốn hỏi ông một câu hỏi hơi đời thường. Là nếu chúng tôi thấy về cái sự “không” Đông Phương Nhà Phật của ông không thể giúp chúng tôi tiến thân trong một xă hội cần chúng tôi “huyên thuyên”  “selling yourself” như trong những  cuộc “interview for job” ở Mỹ chẳng hạn, th́ câu trả lời của ông sẽ như thế nào ?  Hơn 70 tuổi rồi mà ông vẫn c̣n là một trí thức dấn thân, tranh đấu cho nhân quyền thế giới. Tôi ngồi đây trong căn pḥng đầy đủ tiện nghi ở nước Mỹ, đọc những câu văn thơ mộng của ông trong bài tản mạn “Người Em” của ông, tôi thấy ông bàn về sự “Không” ấy như một người nào khác chứ không phải là Nhà Tranh Đấu Nhân Quyền Vơ Văn Ái đang ăn thua đủ trên các đấu trường quốc tế .  Ông đă khiêu vũ với đời sống như thế nào để có thể tránh những cú té “identity crisis”: “Đông là Đông. Tây là Tây. Đông Tây không bao giờ ḥa hợp” ?

Vơ Văn Ái : Đông là Đông, Tây là Tây, câu nói của Rudyard Kipling ở thế kỷ XIX. Như trên tôi nhận định, ở vào đầu thiên niên kỷ thứ ba, chúng ta đang sống trong một thời đại mà Đông phương không c̣n là Đông phương và Tây phương cũng không hẳn là Tây phương. Cho nên theo h́nh tượng chị nêu ra, cuộc khiêu vũ với đời sống của tôi đang là cuộc luân vũ vô cùng hào hứng mà ở đó mọi hệ lụy trở thành những thách đố kỳ thú. Khi con người thôi sợ hăi hắn làm chủ nhân ông cuộc sống nếu không là thượng đế của đời hắn.

Chị đang ngồi uống trà trước mặt tôi. Chị thấy ǵ thần trí tôi ? Chị thấy ǵ cái đầu suy tưởng của tôi, khi tôi cử điệu như mọi người : rót nước sôi vào b́nh, chuyên trà sang chén, đưa nhẹ bàn tay mời uống… Thế nhưng cử điệu, cung cách pha trà, châm trà, rót nước, mời thỉnh... là sự hoá hiện và thu tóm những ngh́n năm văn hoá trà  - Trà đạo. Đâu là thơ mộng trà, đâu là từng lăn ngụm hớp qua thớ cổ trên thân xác ê dề ? Hai là hai ? Hay hai là một ? Tương liên như lóng nắng thổi xanh vào lá, hồng đậm một cành hoa ? Hoá ra cái nh́n ta, suy tưởng ta phân hai những thể thống nhất trong đời. Cành hoa đẹp là thể thống nhất của đất trơ, mầm mộc nhuốm các mùa màng qua lại.

Chữ không Đông phương nhà Phật mà chị đề cập không phải là sự chối từ hay quay lưng của một từ phủ định đối chọi với sự khẳng định : không/có, có/không. Không của nhà Phật (tiếng Phạn là Śūnya), là không có tự tính, mang nghĩa mọi vật tồn tại không có tự thể, thực thể, thực ngă, tức tính không của các pháp (svabhāvaśūnya). Mọi sự mọi vật đều do duyên sinh kết hợp mà thành.

Khi nói nước là không, điều này mang nghĩa nước không có tự thể. V́ nước là hợp chất của một phần dưỡng khí và hai phần hydrô (H2O). Thử lấy thêm cái bàn làm ví dụ. Thực thể cái bàn ở đâu ? cái ǵ gọi là cái bàn ?, nếu không là sự kết hợp của gỗ, của cưa, đục và người thợ mộc khéo tay. Hiểu được như thế, yếu tính của chữ không đâu phủ nhận cái bàn, không cho cái bàn hiện hữu, mà là tự tính và tự thể cái bàn không có thật. Bàn là toàn thể một tương quan. Cho nên, bàn vẫn hiện hữu do sự kết hợp, tương duyên của nhiều thành tố. Từ ví dụ cái bàn, mà suy ra con người, xă hội, trái đất, vũ trụ. Nắm bắt được chân lư duyên sinh, tương duyên tương sinh, th́ con người và xă hội ḥa hài nhau lắm chứ, liên hệ, kết dính, tương quan nhau lắm chứ.

“Chúng tôi cần “huyên thuyên”, “selling yourself” như trong những cuộc “interview for job” ở Mỹ” như chị nói, th́ sinh thức Không/ Śūnya của nhà Phật giúp chị thêm tỉnh táo, tự tin, tương dự để hoàn thành bất cứ “interview for job” khó khăn, bức thiết đến thế nào. Ông chủ for job kia sẽ mất chân đứng thị uy mà hoát nhiên hoá thành con chuột dưới móng mèo của chị. Tôi đă áp dụng ư thức Không/ Śūnya này trong cuộc đời hành hoạt quốc tế cho Việt Nam của tôi gần năm mươi năm qua. Nhờ vậy tôi bước tới, chẳng thối lui. Tôi chuyển hoá.

 

 

 

 

Trên đây là một vài bài báo tiêu biểu trong hàng trăm bài viết về hoạt động truyền thông quốc tế của Uỷ ban Bảo vệ Quyền Làm Người Việt Nam thuộc Cơ sở Quê Mẹ : nhật báo The Advertiser, Úc châu, 2.10.1986, viết về chuyến đi vận động cho Nhân quyền Việt Nam, chúng tôi là phái đoàn người Việt đầu tiên vào điều trần Quốc hội Úc; nhật báo La Croix, Paris, 12.11.1993, viết về Tôn giáo là lực luợng đối lập khả tín nhất tại Việt Nam; nhật báo Le Monde, Paris, 27.5.2000 viết về Bạch Thư của chúng tôi chống việc Chính phủ Pháp tiếp đón Lê Khả Phiêu; nhật báo Le Devoir, Canada, 29.4.1995, tố cáo Nhà cầm quyền Hà Nội và Đảng Cộng sản gây chiến với nhân dân Việt.

 

Từ nhận thức tự tính mọi sự là Không/ Śūnya, không cố định, bất biến, nên ta có thể chuyển hóa mọi sự, biến khổ đau thành hạnh phúc, nô lệ thành tự do, độc tài thành dân chủ. Tôi từng giải thích Ư thức Không/ Śūnya này ở một chương sách trong “Nguyễn Trăi, Sinh thức và Hành động”.

 

36. Lê Thị Huệ: Trong vài bài “tạp ghi” của ông, tôi để ư ông thường đặt những dấu hỏi ở cuối câu . Một lối viết mà giới trí thức dễ lấy làm tâm đắc. Với tôi, trí thức thường o ép tôi vào cái hóc xó của trạng thái lửng lơ, không lối thoát. Nhưng khi quan sát ông, tôi thấy ông đă chọn làm một Phật Tử Đấu Tranh. Ông có thấy chút nào tranh chấp giữa “Con Người Trí Thức Vốn Hay Lơ Ngơ” / với một “Con Người Đời Thường Vốn Cần Cụ Thể” như thế nào ?  Cái cơi “trí ảo” chuộng suy tưởng và cái “đời thực” sống là chiến đấu ở trong con người ông có bao giờ xung động không ? Ông có những nguyên tắc chọn lựa cụ thể nào ? Tôn giáo ư ?  Hay thường là do “hư vô xô đẩy” vào những ngả rẽ ? Tôi hỏi câu này với ư thức rơ rệt rằng ông là một Trí Thức Phật Tử nhưng vẫn muốn nghe một câu trả lời nào đó từ ông .

Vơ Văn Ái : Có những dấu hỏi đi t́m câu trả lời. Nhưng cũng có những dấu hỏi tự nó đă là lời đáp. Hỏi mà chơi. Cái thắc mắc của chị đối với tôi qua một số câu hỏi do chị đứng từ vị trí nhị nguyên, phân đôi cuộc thế, phân đôi đời người, một bên “trí ảo”, một bên “đời thật”. Trong khi ấy, cuộc đời giản dị hơn nhiều, hai mặt một đồng tiền vẫn là một giá trị của đồng tiền. Bên trên hay bên dưới ḍng nước chảy vẫn là con sông chuyển vận mây trời, trăng gió về biển khơi. Thời ông Vương Dương Minh bên Tàu đă biết chuyện tri hành hợp nhất rồi, phải không ? Với tôi, từ suy tưởng đến hành động, tôi phát khởi với tinh thần bất nhị. Bất nhị là cốt lơi của Phật giáo. Bất nhị là hóa giải mọi đối lập. Phật tử là người chiến đấu hằng ngày để gạt trừ vô minh cho chính ḿnh và cho người khác. Hiện sinh đau khổ của loài người đến từ hai thứ vô minh : không biết ḿnh tha hóa tách rời với Phật tính (tính giác ngộ), và không biết Phật tính hiện hữu trong hết thảy chúng sinh/loài người. Đạo Phật giải quyết vô minh bằng đại trí (trí tuệ Bát Nhă) và đại bi (ḷng từ). Đại trí cắt đứt tự ngă độc tôn bên trong, và Đại bi chiếu rọi bên ngoài thành lợi ích chúng sinh. Cả hai hợp đồng thành giác ngộ. Không có chuyện lo riêng cho bản thân ḿnh mà chẳng nghĩ tới người khác.

Muốn thay đổi thế giới mà không khởi sự thay đổi từ ḿnh là điều vô khả, nếu không nói là không tưởng.

Hiểu nghĩa con người Phật tử như thế, “tranh chấp giữa “Con Người Trí Thức Vốn Hay Lơ Ngơ” / với một “Con Người Đời Thường Vốn Cần Cụ Thể” như chị thắc mắc sẽ tan biến. “Cái cơi “trí ảo” chuộng suy tưởng và cái “đời thực” sống là chiến đấu ở trong con người” cũng mất dạng, không có xung đột.

Tôn giáo trong ư nghĩa Đông phương, đặc biệt đối với Phật giáo, chẳng có chi siêu h́nh, trừu trượng, theo nghĩa thần học Tây phương. Tôn giáo là sống trọn vẹn cuộc đời ḿnh như một tồn tại toàn diện mới mẻ và giúp người khác phục hồi cái toàn diện của họ.

 

37. Ông có thể cho một vài nhận xét thú vị nào của riêng ông, về cấu trúc tiếng Pháp và tiếng Tàu và mối liên hệ của nó đến tiếng Việt ?

Vơ Văn Ái : Trả lời câu hỏi gồm 31 chữ này cần viết một cuốn sách dày mới có thể hồi đáp nghiêm chỉnh. Trong khuôn khổ một cuộc phỏng vấn, tôi tạm thời nêu ra vài ư nghĩ lan man :

- Ngữ pháp tiếng Việt (Grammaire/Grammar, Trương Vĩnh Kư gọi là “sách mẹo”, Tàu dịch là Văn pháp) cho tới nay vẫn chưa định h́nh, thống nhất, v́ có nhiều trường phái đối chọi nhau. Tất cả các sách ngữ pháp tiếng Việt khởi đầu đều dựa vào ngữ pháp tiếng Pháp làm chuẩn. Phải chăng do nhược thức thuộc Pháp ? hoặc cho Âu châu là trung tâm của nhân loại trên vấn đề học thuật, kể cả ngữ pháp ? Cho tiếng Âu châu là hoàn hảo nhất ? Tàu cũng dùng “văn phạm” Châu Âu làm chuẩn mực giải thích tiếng Hán với cuốn Mă Thị Văn thông. Tương tự như ở ta với cuốn Việt Nam Văn phạm của ông Trần Trọng Kim. Ở tiếng Tàu văn nói (bạch thoại) và văn viết (văn ngôn) khác nhau, có lẽ v́ vậy họ dịch Grammaire là Văn pháp. Trong tiếng Việt văn viết như văn nói, nên các nhà ngôn ngữ học mới thống nhất gọi là Ngữ văn.

- Ngôn ngữ không chỉ là âm thanh phát ra mà c̣n có nghĩa. 70% vốn tử vựng tiếng Việt là các từ Hán Việt. Cho nên việc bỏ tiếng Hán, tiếng Nôm để sử dụng tiếng quốc ngữ La tinh là một thiệt tḥi lớn trên phương diện ngữ nghĩa và tư tưởng dân tộc. Người ta bảo học chữ Hán khó hơn chữ quốc ngữ. Nhưng tại Mỹ, những học sinh không học được cách đánh vần (dyslexia), người ta đă dạy tiếng Anh bằng chữ Hán. Và các nhà ngữ học Mỹ cho tiếng Hán là một hệ thống ngôn ngữ ưu việt.

- Tiếng Việt không có đại danh từ (pronom/pronoun) như tiếng Pháp và tiếng Tàu mang tính b́nh đẳng khi xưng ḿnh với người. Đại danh từ trong tiếng Pháp hay Anh là : je, tu, il, nous, vous, ils. Tương đương với tiếng Tàu là : ngă, nễ, tha, ngă môn, nễ môn, tha môn. Chẳng hiểu thời các vua Hùng chúng ta gọi nhau như thế nào, chứ bên Tàu thời Nghiêu, Thuấn, vua tôi nói với nhau vẫn xưng vua bằng nhữ (mầy), tự xưng ḿnh là trẫm (ta), đến thời Tần Thủy Hoàng mới giành chữ trẫm (ta) cho riêng vua, nên người thường không c̣n dám dùng chữ trẫm để xưng ta nữa.

Chúng ta không có đại danh từ (cần hiểu chữ đại nghĩa là thay, chứ không phải lớn, bự) nên gọi nhau bằng đủ thứ chữ phức tạp gây khó khăn cho người ngoại quốc học tiếng Việt, như ông, bà, bác, chú, cháu, con, em, cô, d́, mợ, cụ, v.v… Minh bạch và dễ thương đấy. Nhưng có khi trở thành kiểu cách, quan cách, phân biệt, kỳ thị nhau ? Chữ cụ là tiếng tôn vinh giới quan lại hay già lăo, nhưng ở Huế gọi cụ kéo xe th́ lại hạ thấp xuống thứ bậc b́nh dân.

- Áp dụng article (mạo tự) trong tiếng Pháp, một số nhà làm « văn phạm »  dùng các chữ con, cái, để phân biệt giống đực, giống cái. Nhưng tiếng Việt không hẳn  thế : Con đặt trên danh tự để chỉ động vật (con chim, con voi, con gà). Cái đặt trên danh tự chỉ vật thể do người ta làm ra (cái cầu, cái nhà, cái bàn). Chữ con có tính động, chữ cái th́ không cử động. Ví dụ con chim, con tàu, con dao… ngay bộ phân sinh dục phái nam cũng gọi con c.. Trái lại th́ cái bàn, cái ghế, cái nhà… bộ phận sinh dục đàn bà cũng là cái l.. Ngoài ra có chữ nhà vốn là một chữ tĩnh, không cử động, nhưng khi ghép với một chữ khác lại thành sinh động, yêu thương, như nhà văn, nhà thơ, nhà tôi…

Đâu phải phân loại giống cái giống đực nên dùng chữ con, cái như tiếng Pháp le, la đâu. Khi nói chiếc lá, cuốn sách, sợi tóc, suối tóc, lóng tay, th́ hẳn các chữ chiếc, cuốn, sợi, suối, lóng… không thể trở thành mạo tự như trong tiếng Pháp ?

- Người ta bảo tiếng Việt đơn âm. Nhưng không hẳn thế, có khi vẫn hợp hai, ba, bốn chữ mới thành nghĩa, như luưnh quưnh loáng quáng, mồ hôi, máng xối…

- Tiếng Pháp cũng như tiếng Tàu lấy việc chính là chủ yếu, tiếng Việt th́ tŕnh bày theo tŕnh tự thời gian. Ví dụ ta hỏi con cái đi đâu về đó, nói theo tiếng Pháp các cháu sẽ trả lời : Je viens de l’école /Con từ trường trở về. Tức việc trở về là chính. Nhưng tiếng Việt sẽ nói Con đi học về, v́ việc học có trước rồi học xong mới về.

-Theo thuyết tương đối của Einstein, thời gian chỉ là chiều thứ tư của không gian. Nhưng trong các ngôn ngữ th́ thời gian quan trọng hơn không gian. Các động từ trong tiếng Pháp được chia ra các th́ (thời gian) rất chặt chẽ. Ngoài ba th́ quá khứ, hiện tại, vị lai c̣n các th́ phụ, tất cả là 18 th́. Các nhà làm « văn phạm » tiếng Việt muốn áp dụng như tiếng Pháp nên dùng ba chữ đă, đang, sẽ để chia th́ quá khứ, hiện tại, vị lai. Thực tế tiếng Việt chưa hẳn như vậy. Khi ta nói : Tôi đă vượt biển sang Mỹ năm 1975, là nói về một việc đă xong trong quá khứ. Nhưng khi nói : Báo Gió-O đă lên trang, th́ đă nói về chuyện hiện tại. Chữ đang diễn tả hiện tại nhưng cũng nói tới quá khứ và vị lai : Tôi đang đi thăm thành phố New York, là nói cái hiện tại. Tuần trước tôi đang làm vườn th́ chị Huệ đến thăm, vậy đang là quá khứ. Xin báo trước khi tôi đang làm vườn th́ chớ ghé thăm, đang ở đây chỉ th́ vị lai. Chữ sẽ cũng vậy : Tuần sau tôi sẽ sang Paris chơi, là chỉ định việc tương lai. Tôi sẽ đi Los ngay, sẽ chỉ th́ hiện tại. Nếu tôi trễ chuyến bay th́ sẽ không tới kịp cuộc hẹn, sẽ trở thành dự tính trong quá khứ.

- Nhân nói chữ nếu trên đây dùng cho câu giả định, th́ ta thấy trên ba ngh́n câu Kiều cụ Nguyễn Du không hề dùng chữ nếu, mà chỉ dùng chữ dầu hay dẫu : Dầu khi lá thắm chỉ hồng / Dẫu ĺa ngó ư c̣n vương tơ ḷng / Dẫu bằng xương trắng quê người quản đâu. Vậy thời cụ Nguyễn Du không có chữ nếu, hay là… ?

- Tại sao nói ngồi trên ghế nhưng lại nói ngồi dưới đất thay v́ ngồi trên đất ? Dưới đất là dưới mặt đất, trong ḷng đất ? Từ đây nhận ra điều người Pháp và người Tàu hướng theo vùng địa lư, c̣n ta th́ quy định từ xuất phát điểm, từ ḿnh mà đi. Người Tàu, người Pháp nói vào sân khấu (entrer en scène / entrer sur la scène), ta th́ nói ra sân khấu. Người Pháp, người Tàu nói lên Paris, xuống Marseille, thưởng Bắc Kinh, hạ Giang Nam. Ta th́ nói Saigon, ra Huế, chứ không nói lên Huế, xuống Saigon.

- Người Pháp và người Việt nh́n thực thể trước, ngoại dáng sau : con ngựa trắng, le cheval blanc. Người Tàu trái lại nhận rơ ngoại dáng rồi mới đi vào thực thể : bạch mă.

Cà kê dê ngỗng c̣n dài.  Xin hẹn dịp khác nói thêm…

 

38. Lê Thị Huệ: Ông có thể nói một điều ǵ đó về nhóm sinh viên Miền Nam du học ở Pháp nhưng sau đó theo Cọng Sản thời 1960 như nhóm Nguyễn Ngọc  Giao … Vai tṛ của nhóm Tả này trong thứ “tâm lư chiến”, vận động quần chúng chống lại phe Quốc Gia trong chiến tranh Quốc Cọng Nam Bắc 1954-1975 như thế nào ?

Vơ Văn Ái : Hai lư do làm cho giới sinh viên du học miền Nam tại Pháp rơi vào tay Cộng sản Việt. Thứ nhất, đa số sinh viên thuộc thành phần giàu có, con ông cháu cha. Không có tiền bạc đút lót, không có thế lực quen biết hỗ trợ ắt khó xin thông hành du học. Chưa nói việc du học tốn kém từ di chuyển đến lưu trú. Gia đ́nh không khá giả không thể cho con đi du học. Thành phần giàu có, con ông cháu cha, sống ở thành thị, xa ĺa quần chúng nghèo khó, ít có ư thức quốc gia, dân tộc. Đến Pháp đi theo hai lối, hoặc ăn chơi, phè phỡn, hoặc bị kích động tinh thần yêu nước từ phe Việt Kiều Cộng sản vào thời gian đầu c̣n bơ vơ, nhớ nhà nhớ nước.

Hồi tôi đến Pháp, ngoài giờ theo đại học, thường vào thư viện để học bài, vừa được sưởi ấm, vừa yên tĩnh, vừa có sách mượn. Chỉ ba ngày sau, là có sinh viên đến hỏi han : Anh mới qua ? Học ngành ǵ ? Nhà ở đâu ? Có gặp khó khăn ǵ không ? Cần ǵ anh cho biết tôi giúp đỡ ? Lạ nước lạ cái mà gặp được người Việt hiếm hoi, ân cần nơi đất khách, thử hỏi ai không chạnh ḷng, không muốn kết thân ? Tử hỏi han, chỉ dẫn đường đi nước bước về các thủ tục nhập học, ăn uống, kiếm nhà trọ… người tiếp xúc mời tôi ra quán nước, về nhà trọ… vài ngày sau đưa tôi gặp gỡ một số bạn khác bàn chuyện nước non. Thế là người du học sinh chân ướt chân ráo đă lọt ngay vào các tổ sinh hoạt của Cộng sản. Tất cả những sinh viên du học mới đến Pháp, tối đa một tuần đến mười ngày liền nhận được báo tuyên truyền của Hội Liên Hiệp Việt Kiều (Cộng sản). Thử hỏi người sinh viên 17, 18 tuổi, ngơ ngác giữa đất khách bảo sao không lọt vào ṿng tay “thân ái” của người đồng hương  - mẹ ḿn ?

Lư do thứ hai, là nhân viên Sứ quán Việt Nam Cộng ḥa bao gồm những quan chức hành chánh khệ nệ, xa lạ chẳng có chút thân ái, cảm t́nh tiếp cận giới sinh viên. Quốc gia là một từ mang ư nghĩa “mạnh ai nấy sống”, ít thấy đơm thành ư thức, hay phát triển thành vũ khí vận động hay nuôi dưỡng tinh thần. Vô h́nh trung đẩy đa số khối sinh viên du học vào tay tuyên truyền cộng sản. Phải hiểu “Cộng sản” ở Pháp chủ yếu là tinh thần yêu nước được kích động thành phong trào hậu thuẫn cuộc “kháng chiến giành độc lập dân tộc”, chứ nội hàm chưa phải là người cán bộ tôn thờ chủ thuyết Mác-Lê. Qua sinh hoạt mới dần dần được xích hóa.

Đó là nội bộ đời sống của người sinh viên du học. Hoàn cảnh khách quan c̣n đổ dầu vào lửa. Đó là phe tả tại Pháp, đặc biệt Đảng Cộng sản Pháp, mở một lối tiếp cận thân t́nh và b́nh dân thông qua các lễ hội hằng năm, thân ái với dân các nước thuộc địa hơn là phe hữu quá xa cách, trưởng giả, nhiều khi trịch thượng, thực dân.

Thoạt đầu là sinh viên, sau tốt nghiệp thành giới thức giả tham dự vào đời sống xă hội, học thuật Pháp. Tư tưởng thiên Hà Nội của giới Việt Kiều trí thức hiển nhiên ảnh hưởng đến dư luận Pháp hay quốc tế. Vô h́nh trung giới này đại biểu cho Việt Nam. Đối diện là phe Quốc gia trở thành thiểu số mờ nhạt, bị động.

Phải chờ năm 1975, với phong trào Người Vượt Biển rầm rộ một vài năm sau đó, t́nh h́nh mới đảo ngược, đem lại sự thất thế hầu như tan ră của giới Việt Kiều thân Cộng trong tổ chức nội bộ cũng như trong công luận. Nhưng chủ yếu việc này đến từ sự thất thế và bất nhân của chế độ độc tài toàn trị trong nước, cộng thêm sức quật dậy của phong trào đấu tranh cho nhân quyền mới mẻ và xung kích chưa hề có trước đây.

 

 

Bài xă luận trên nhật báo Le Monde ở Paris viết về hiện t́nh giới ly khai Việt Nam do Cơ sở Quê Mẹ cung cấp tư liệu nhân Thượng đỉnh Pháp thoại lần thứ 7 tại Hà Nội, tháng 11.1997.

 

Trên đây là hai bản tin của Đức tấn xă (DPA) và Mỹ liên xă (AP) cùng với nhiều hăng thông tấn quốc tế khác, như AFP, Reuters… loan báo cuộc vận động của Uỷ ban Bảo vệ Quyền Làm Người Việt Nam yêu cầu Tổng thống Pháp Jacques Chirac bênh vực cho nhân quyền và tù nhân v́ lương thức khi đến chủ toạ Thượng đỉnh Pháp thoại (Francophonie) lần thứ 7 tại Hà Nội.

 

Lời kêu gọi của Cơ sở Quê Mẹ và Uỷ ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam yêu cầu Tổng thống Pháp Jacques Chirac can thiệp cho nhân quyền và tù nhân v́ lương thức khi đến chủ toạ Thượng đỉnh Pháp thoại (Francophonie) lần thứ 7 tại Hà Nội. Lời kêu gọi này được đang ¼ trang nhật báo Le Monde với chữ kư của hàng trăm trí thức, học giả, nhân sĩ, nhà văn, nhà báo, diễn viên điện ảnh… Pháp và Việt, gây động dư luận Pháp và quốc tế, biến cuộc tuyên truyền phô trương của Hà Nội khi tổ chức hội nghị quốc tế thành đích nhắm cho thế giới nh́n về thảm trạng nhân quyền Việt Nam

 

 

39. Lê Thị Huệ: Ông nghĩ tại sao họ lại từ phe Quốc Gia mà rồi theo pḥ phe Cọng Sản. Biết là mốt của trí thức thời đó là Tả, nhưng họ là người trong nước bước ra, đáng lẽ họ phải “nhạy cảm” với cuộc chiến Việt Nam hơn, đáng lẽ họ phải “khó xử” với chính họ hơn. Chọn lựa theo phe Tả lúc đó là một chọn lựa qúa ư dễ dàng. Tại sao những người trí thức như họ lại có những thái độ chính trị “trớt quớt” dễ và nhanh như thế? Để bây giờ nh́n lại mới thấy sự u tối của những người đă theo pḥ Cọng Sản trước đây

Vơ Văn Ái : Do quan sát lớp người ra đi năm 75 nên chị thắc mắc. Bởi lớp người này phân định hắc bạch giữa quốc gia và cộng sản. Song lớp người ra hải ngoại trước 75. Đặc biệt giới sinh viên du học th́ khác.

Trí thức là ai, là ǵ ? Đă có sự chênh lệch giữa kiến thức học đường với kiến thức nhân loại hay nhân văn. Trí thức được gọi tên ở nước ta gán cho giới có học, có bằng cấp. Nhưng người có học, có bằng cấp chưa hẳn là giới đại biểu cho lương tri hay lương tâm thời đại. Cuối thập niên 40 ra khỏi tù, tôi bị tống xuất khỏi thành phố Huế, rời trường trung học Khải Định lên học trường trung học Yersin ở Đà Lạt. Tôi ngạc nhiên thấy hai giới học sinh Khải Định và Yersin cách biệt trời vực trong suy nghĩ hay tâm tưởng về đất nước, dân tộc. Ngay tại Huế, giới học sinh trường Khải Định (sau này đổi thành Quốc học) đă khác rất xa với giới học sinh trường Ḍng Pellerin về ư thức dân tộc. Tuy hai trường cách nhau chừng một, hai cây số. Tôi chứng kiến việc này v́ sau khi bị bắt lần thứ nhất, gia đ́nh tôi không cho học trường Khải Định “lộn xộn” mà bắt lên học trường Ḍng Pellerin. Học sinh Yersin ở Đà Lạt, quy tụ giới con nhà giàu hay thế lực, chỉ biết học và ăn chơi, nhảy đầm, nghỉ hè. Chuyện đất nước truân chuyên, thuộc Pháp hay không chẳng ai ưu tư đặt thành vấn đề.

Trong tâm cảnh như thế, làm sao giới học sinh này nghĩ tới chuyện so sánh hay chọn lựa giữa quốc gia hay cộng sản ? Đa số lớp học sinh này kết thúc cuộc học hành ở Pháp. Sang đến Pháp, do phía cộng sản Việt có tổ chức, nên số lớn giới học sinh này mới tiếp cận chuyện nước non. Tuyên truyền cộng sản cũng chỉ đặt vấn đề độc lập dân tộc làm lá chắn tập họp quần chúng. Kêu gọi ḷng yêu nước, kháng chiến chống Pháp giành độc lập, thử hỏi ai không đáp ứng.

Hồi nhỏ ở miền Trung, tôi từng chứng kiến lính Tây say rượu hát ḥ đập phá hàng quán, nơi làng xóm chúng bật quẹt lửa vào mái tranh đốt nhà, bắt người c̣ng đi v́ nghi ngờ Việt Minh, hay hăm hiếp phụ nữ. Trước thảm cảnh ấy, tôi có thể theo Pháp không ? Người kháng chiến được huấn luyện để biết v́ sao ḿnh cầm súng chiến đấu, v́ sao ḿnh bảo vệ xóm làng, v́ sao ăn, v́ sao ngủ, quần chúng nhân dân là ai ? Trong khi ấy phe quốc gia lơ là với công tác ư thức hóa quần chúng. Giới lănh đạo quốc gia chỉ ỷ y vào tiền, vào đồng Phật lăng hay Đô la, vào lá bài ngoại bang, nhưng xa lạ với quần chúng. Ông Nguyễn Văn Thiệu, Tổng thống Đệ nhị Cộng ḥa, điều hành một Nhà nước chống Cộng, thế mà cuối thập niên 60 khi cuộc chiến lên cao đỉnh, th́ việc vận động quần chúng chỉ là ưu tư thứ tư của ông ấy. Vận động quần chúng đứng sau ba ưu tiên quân sự, b́nh định, kinh tế. Trong cuộc chiến tranh nhân dân, vận động quần chúng phải là ưu tiên một, tức vấn đề ư thức hóa và đoàn ngũ hóa quần chúng. Ông Thiệu, ông Kỳ chỉ trông chờ vào triệu, tỉ Đô la Mỹ. Họ không tin, không thương, không trông nhờ vào quần chúng nhân dân. Mỹ cúp viện trợ, họ ngưng chống Cộng và chạy ra nước ngoài trước mọi người. Họ không là Nguyễn Trăi, Lê Lợi, Nguyễn Huệ.

Vấn đề trầm trọng hiện nay, là người chống Cộng hay không-Cộng-sản đang làm ǵ cho một giải pháp thay thế, khi thấy rơ cái yếu, cái ngu, cái ác độc và thất bại trong việc thăng tiến nhân sinh của người Cộng sản ?

 

40. Lê Thị Huệ: Bây giờ nghiệm lại phong trào trí thức Tả của thập niên 1960, ông có một kết luận đặc biệt nào về trường hợp này ?

Vơ Văn Ái : Không phải là từ thập niên 60, mà là từ đầu thế kỷ XX, đa số trí thức Việt đă a ṭng theo hai lối suy tưởng và hành động thuần túy Tây phương : Tây phương đế quốc và Tây phương cộng sản. Ít ai có tinh thần dung hóa cái học của Tây phương để phát triển nền văn hiến Việt. Chúng ta sản sinh hàng loạt những ông vua Tự Đức từ triều Nguyễn tới triều Hồ. Chúng ta thiếu một đại sĩ phu như Minh Trị Thiên Hoàng.

Bạn bè tôi có nhiều người chạy theo phe Tả. Do biết rơ họ, nên tôi nghĩ chỉ là vấn đề phù thịnh, nếu không nói là t́m một chỗ đứng cho bản thân  - LÀM QUAN. Làm quan phe tả hay làm quan phe hữu đều quan liêu như nhau. Dù người làm quan là ông bác sĩ, ông kỹ sư, ông luật sư… họ là Ông Cơ hội  - những kẻ cầm cờ chạy hiệu. Tôi chỉ trách họ sao trước kia rốt ráo đến cực đoan trong đấu tranh khi hùa theo phe tả, nhưng ngày nay nhận chân những sai lầm chết người của phe tả, họ lại im lặng, tê liệt, mất mọi khả năng, khí thế quyết liệt để chống lại cái xấu, cái ác ? Hóa ra ước muốn “làm quan” trong con người trí thức Việt vẫn hấp dẫn hơn lư tưởng cứu nguy dân tộc hay cứu người.

Tôi nhớ cuộc điện đàm khá dài giữa tôi với giáo sư Hoàng Xuân Hăn sau ngày 30.4 năm 1975. Trước kia chúng tôi vẫn thường qua lại, gặp gỡ, trao đổi, khi chuyện học thuật, lúc chuyện nước non. Điện đàm với nhau chỉ là chuyện vội vă hay lấy hẹn. Hôm ấy trao đổi t́nh h́nh đất nước xong, ông Hăn khuyên tôi nên đến gặp ông Nguyễn Ngọc Giao mà tôi chưa hề quen biết. Tuy biết tên ông như lănh tụ Việt Kiều Cộng sản, thời ḥa hội Paris ông ta làm thông dịch viên cho Phái đoàn Hà Nội. Hôm ấy tôi trả lời ông Hăn rằng: "Ông Giao bây giờ là quan, dân đến gặp quan bất tiện lắm bác ạ".

Rất nên đọc lại tập sách mỏng « Một vài Kư văng về Hội nghị Đà Lạt » của ông Hoàng Xuân Hăn để suy gẫm về người trí thức Việt vào buổi giao thời. Đặc biệt phần ông Hăn kể lại cuộc tiếp xúc lần đầu với ông Hồ Chí Minh ở Hà Nội. Ông Hăn là bộ trưởng trong chính phủ Trần Trọng Kim của vua Bảo Đại, nhưng toàn bô nội các chẳng biết ǵ về Việt Minh (xem « Một Cơn Gió bụi » của Trần Trọng Kim). Những người trí thức có học vị, bằng cấp, nhưng lại ngơ ngác trước nhóm thiểu số Việt Minh chuyên nghiệp trên trường chính trị. Thời ấy ông Hăn đă thấy thảm nạn « đảng tranh » nguy biến cho dân và nước khi thổ lộ tâm can mong muốn ông Hồ giải quyết. Song cuộc xích hoá Việt Nam là ưu tiên một của ông Hồ cộng với sự thiếu lăo luyện chính trị của các đảng phái quốc gia thời 1945 đă đưa đất nước vào cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn khiến dân tộc điêu linh tới ngày nay.

Quan điểm thiên Hồ của thế hệ trí thức Hoàng Xuân Hản xuất phát từ hai thứ lư luận. Một thuộc luận điểm chính thống lịch sử, và một thuộc ưu tiên lịch sử. Lớp nhà nho Bắc hà thưở trước và giới trí thức ngày nay lớp ông Hăn xem rằng người thu phục giang san là kẻ chính thống. Trước kia là vua Gia Long, nay là vua Hồ. C̣n ưu tiên lịch sử là luận điểm của số đông trí thức Việt có tinh thần dân tộc vào thời điểm 1945. Họ không chấp nhận Cộng sản, nhưng họ nghĩ phải ưu tiên đánh đổ thực dân Pháp giành độc lập trước, khi có độc lập sẽ tính tới chuyện Cộng sản. Thế nhưng bài học lịch sử cho thấy chẳng bào giờ việc tính sau thành tựu. V́ tiên quyết phải qỉai quyết triệt để việc cơ bản từ đầu. Bao nhiêu trí thức ngậm đắng nuốt cay sau ngày Cộng sản thành công, nhưng lúc ấy đă trễ : những Nguyễn Mạnh Tường ngoài Bắc, những Nguyễn Văn Trấn trong Nam… với trùng trùng những trí thức khác kể không hết tên.

Một trường hợp khác tôi gặp tại Pháp là ông trí thức Nguyễn Mạnh Hà. Nói ông là Cộng sản th́ không đúng, v́ ông không có thẻ đảng, ông lại thuộc giới Công giáo cấp tiến. Tuy vợ ông là một phụ nữ Pháp con một lănh tụ Cộng sản Pháp nổi danh bạn với ông Hồ, bà nói tiếng Việt (giọng Bắc) tuyệt hảo. Nhưng nói ông không Cộng sản th́ cũng không đúng hẳn. Bởi hành động chính trị của ông làm lợi cho phe Cộng sản. Dấu ngoặc cần mở ở đây là kiểu chụp mũ Cộng sản ngày nay là điều vô lối. Thực tế cho thấy có rất nhiều người không – Cộng sản nhưng họ hành hoạt có lợi lớn  - hơn cả đảng viên Cộng sản -  cho phe Cộng sản.

Do được một bạn công giáo cho tá túc thời gian tôi gặp khó khi mới qua Pháp, và qua trung gian bạn này tôi có dịp gặp ông Nguyễn Mạnh Hà, một bộ trưởng trong chính phủ Hồ Chí Minh đầu tiên ở Hà Nội. Ông là người thực tâm yêu nước, chống thực dân, dù ông dân Pháp. Gặp ông tôi biết thêm về cá nhân ông Bảo Đại v́ hai người là đồng môn những năm 30. Tôi tỏ ḷng mến mộ, nhưng khi thấy giao thiệp chính trị của ông thiên Hà Nội, nên tôi tránh. Thế nhưng hai năm sau, một hôm ông leo tám tầng thang gác lên tận nóc pḥng trọ gặp tôi. Người ông cao to đẫy đà, nh́n ông mồ hôi nhễ nhăi, nhịp thở gấp mà thương hại. Lần ấy ông mời tôi làm chủ biên một tờ báo vận động chính trị trung lập hoá Việt Nam, nhằm tránh cuộc tranh chấp bạo động giữa hai miền Nam Bắc. Thoạt nghe hấp dẫn. Song trong buổi họp các người cộng tác bước đầu, tôi cảm thấy bất an với khuynh hướng Hà Nội chen vào nên tôi từ khước.

Tám năm sau, ông Hà vận động cho lá bài Trần Văn Hữu với ông Bảo Đại đỡ đầu mong thoả hiệp giai đoạn với Hà Nội. Ông Hà lại đến tiếp xúc mời tôi tham gia. Nhưng tôi tránh. Thời khoảng 65, 66 này, tôi cũng được ông Trần Văn Khê cùng người thân cận của ông nay đă mất là bà Mộng Trung đến tiếp xúc nhiều lần, lôi kéo tôi theo Mặt trận Giải phóng Miền Nam. Tôi từ chối.

Đấy, những mẫu người trí thức như các ông Hoàng Xuân Hăn, Nguyễn Mạnh Hà, Trần Văn Khê đưa lên bàn mổ tả - hữu e khó đưa tới một kết luận minh bạch. Dù rằng giới trí thức thuộc thế hệ ba ông này làm lợi cho Cộng sản hơn cả những đảng viên Cộng sản nhờ cái thế không cộng sản của họ trong thế giới Tây phương hay trong cộng đồng học thuật.

Thực tế mà nói, tả - hữu chỉ làm bốc cháy những con thiêu thân là quần chúng. C̣n những kẻ bên trên, kẻ lănh tụ, tả - hữu chỉ là một màn x́ phé.

 

41. Lê Thị Huệ: Theo ông với một trí thức, điều ǵ cần thiết hơn, sự độc lập hay đỉnh cao của khóai lạc hiểu biết ?

Vơ Văn Ái : Cần cả hai mới thành trí thức. Muốn độc lập cần có sự hiểu biết thực tại, tất kiến thức. Có kiến thức mà khư khư giữ cho ḿnh, không chia sẻ, khác chi trọc phú chôn vàng giữ của. Tư bản ngày nay cũng đă xa lánh tục cổ hủ chôn vàng. Có của phải biết đầu tư. Đầu tư cho ai, là chọn lựa mà người trí thức phải làm.

 

42. Lê Thị Huệ: Tại sao trí thức lại thường bị lôi cuốn đi theo Tả ? 

Vơ Văn Ái : Ở Pháp ngày nay người ta gọi các ông lănh tụ hay trí thức phe tả “la gauche caviar”, tạm dịch là “phe Tả phú ông”. Không phải phe tả đấu tranh, bần hàn thuộc giới công nhân những năm 30, mà là phe tả thượng lưu, thành đạt, không phải “tối rượu sâm banh sáng sữa ḅ” của giới Tây thuộc địa ở nước ta, mà là giới tả ngày nay ăn nhậu tự nhiên, phè phỡn chẳng khác chi giới tư bản, uống sâm banh ăn trứng cá tầm (esturgeon/sturgeon) đắt tiền caviar.

Ngày nay ở Pháp và Châu Âu quan niệm tả - hữu đă mất lằn ranh, không c̣n trọng lượng như xưa, bị vắt sạch ư nghĩa rồi.

Ở đây chúng tôi tự hào mà nói chiến dịch “Một Chiếc Tàu Cho Việt Nam” (Tàu Đảo Ánh Sáng) mà chúng tôi xướng xuất cuối năm 1978 đă góp công vào việc thay đổi nhân sinh quan của phe tả nói riêng ở Pháp, Âu châu và Hoa Kỳ nói chung. Trước năm 1975 cho tới 1978, không thể tưởng tượng chuyện bất cứ trí thức phe tả nào có thể chống đối Hà Nội, hoặc ủng hộ những người không thuộc phe cánh họ. Phe tả cho là hữu, là phản động, những ai không thuộc cánh tả ḿnh. Thế mà gần 200 nhân vật thuộc phe tả Pháp, Âu châu, Hoa Kỳ, những người đại biểu uy danh như Jean Paul Sartre, Alain Geismar, André Glucksmann, Claudie Broyelle, Michel Rocard, Leonel Jospin, Olivier Todd, Bernard Kouchner, Cohn Bendit, Susan Sontag, Leonid Pliouchtch, Bukovski, Maximov, Souvarine, v.v… là những trí thức đại tả, đa số là các lănh tụ phong trào Sinh viên Sorbonne 68, rất nhiều thành phần cực tả Mao-ít, nay thành trụ cột cứu sống Người Vượt Biển, là những người của Miền Nam Chống Cộng !

Bích chương kêu gọi ủng hộ cho chiến dịch “Một Chiếc Tàu Cho Việt Nam” cuối năm 1978, trụ sở đặt tại toà soạn Quê Mẹ, thị xă Gennevilliers ở ngoại ô bắc Paris, được đăng tải một trang miễn phí trên tất cả các nhật báo và tuần báo Pháp có số lượng hằng triệu ấn bản, như Paris Match, Télé 7 Jours, Express, Le Point, Le Monde, Figaro, Le Matin, v.v…

 


(bấm vào để xem phóng ảnh lớn)

Hàng trăm nhân sĩ, trí thức quốc tế kư tên dưới Lời Kêu gọi “Một Chiếc Tàu cho Việt Nam” ra Biển Đông vớt Người Vượt Biển, được in bằng các thứ tiếng Anh, Pháp, Việt, Ư, Đức, Trung văn được đăng tải trên báo chí thế giới gây chấn động thành phong trào Cứu Người Vượt Biển, đồng thời thành lời tố cáo chế độ độc tài toàn trị cộng sản đàn áp dân lành tại Việt Nam. Con tàu Đảo Ánh Sáng tại Pháp đă đẻ ra những Con Tàu đi vớt Người Vượt Biển tại Na Uy, Đức, Ư…

 

Hănh diện hơn nữa từ cuộc khuynh đảo phe tả thông qua chiến dịch “Một Chiếc Tàu Cho Việt Nam” này, h́nh ảnh Người Vượt Biển được rửa sạch trước công luận thế giới. Trước kia và trước đó, h́nh ảnh Miền Nam bị đánh đồng với “đế quốc hiếu chiến Mỹ”, những người ra đi sau 75 bị quy kết như những kẻ “tôi phạm chiến tranh”, “tay sai đế quốc Mỹ”. Nay với cuộc vận động hoá giải của cơ sở Quê Mẹ trên trường quốc tế, Người Vượt Biển trở thành thông điệp của tự do, kẻ chống độc tài.

Trước năm 1975, số cử tri tại Pháp bầu cho Đảng Cộng sản Pháp trên 20%, tại các nước Âu châu khác cũng thế, đặc biệt Ư. Thế mà phong trào Người Vượt Biễn đă ảnh hưởng công luận Châu Âu làm cho mười năm sau, số cử tri tại Pháp bầu cho đảng Cộng sản sút xuống 10%, rồi 5%, v.v… Sự kiện này đồng loạt xẩy ra tại các nước Châu Âu.

Hai bộ óc nhưng đối nghịch của học giới Pháp là Raymond Aron và Jean Paul Sartre cùng kư tên ủng hộ chiến dịch “Một Chiếc Tàu Cho Việt Nam”, cùng vào điện Elysées kiến nghị Tổng thống Giscard d’Estaing, hăy hỗ trợ cho chiến dịch này, rồi trước báo chí, truyền thông, truyền h́nh bắt tay nhau thân ái, kết thúc 24 năm thù nghịch đối đầu của hai bộ năo nước Pháp. Cánh tả Pháp đă thán lên : nhờ các bạn Việt Nam, nhờ Con Tàu mà Aron-Sartre hoà giải. Một sự biến trong học thuật và chính trị tại Pháp và thế giới, v́ tác phẩm của hai người ảnh hưởng toàn cầu. Đấy, những con người nhỏ nhoi, bần hàn, bị áp bức nước Việt đă chuyển hoá Tây phương.

Ảnh hưởng lây và thấp xuống nhiều bực, cánh tả Việt Kiều tại Pháp tiêu điều, tan vỡ thảm thê.

Theo nguyên tắc, trí thức là người có nhiều hiểu biết lại nhạy cảm. Vào những năm 30, lư tưởng phe tả hấp dẫn ở tính nhân loại, ḥa đồng với người bị bức hiếp, nghèo hèn. Bộ máy tuyên truyền của Cộng sản Liên xô giỏi gia công làm nên cái mốt tả khuynh thời thượng. Trong khi ấy, phe hữu vừa bảo thủ, lạc hậu, vừa vị kỷ, xa lánh khối dân đen lam lũ ở nước ḿnh và tại các xứ thuộc địa. Người có ăn học hẳn nhiên thấm đẫm ḷng nhân đạo, nên dễ theo phe tả. Tuy nhiên từ những năm 30 ấy, đă có những trí thức tỉnh ngộ rất sớm. Hai ví dụ điển h́nh là André Souvarine, thư kư của Staline, ly khai vào những năm này. Nhà văn André Gide nổi danh của Pháp sau một thời ca tụng Liên xô đă viết cuốn “Retour de l‘URSS” phơi bày sự thất vọng.

 

(c̣n tiếp 1 kỳ )

(kỳ chót:  phát biểu về hai nhân vật đi chung những đoạn đường đời: sư ông Nhất Hạnh và cô Ỷ Lan )  

 

đọc thêm về Thi Vũ Vơ Văn Ái  tại 2 địa chỉ:

http://www.gio-o.com/ThiVu.html

http://www.queme.net

 

© gio-o.com 2009