phỏng vấn

nhà thơ, nhà tranh đấu nhân quyền

Thi Vũ

Vơ Văn Ái

lê thị huệ, chủ biên gio-o.com thực hiện 

(tiếp theo, phần 3)

 

(bấm vào đây đọc phần 1- câu hỏi  từ 1 - 9) 

(bấm vào đây đọc phần 2 – câu hỏi từ  10 – 20 )

(bấm vào đây đọc phần 3 – câu hỏi từ  21 – 29 )

(bấm vào đây đọc phần 4 – câu hỏi từ  30 – 42 )

(bấm vào đây đọc phần 5 – câu hỏi từ  43 – 56 hết )

 

21. Lê Thị Huệ: Suốt đời ông làm việc và đụng chạm với người Tây Phương, ông có thể cho biết đâu là cách ứng xử hay nhất của người Việt Nam đối với Tây Phương ?

Vơ Văn Ái : Cách ứng xử hay nhất là đối thoại, trao đổi và học tập. Khiêm cung học tập. Làm được ba việc này cần sự chân thành, cầu thị và phục thiện. Nhưng trước hết ḿnh phải là ḿnh th́ mới không rơi vào sự vay mượn, bắt chước, đóng tuồng. Ḿnh phải là ḿnh trong kiến thức Đông phương và hiểu biết Tây phương. Cơ bản của cách ứng xử là đồng ḥa. Không là đồng hóa hay bị đồng hóa.

 

22. Lê Thị Huệ: Tôi rất qúi trọng thái độ tự tin và dấn thân của con người trí thức Vơ Văn Ái trên các diễn đàn quốc tế. Nhân đây tôi muốn kính trao tặng ông một đóa hồng ngưỡng mộ. Nếu có thể nói với những trí thức trẻ Việt Nam về việc làm thế nào để có được một thái độ tự tin khi ra giữa đấu trường quốc tế, ông sẽ nói cho họ những điều ǵ

Vơ Văn Ái : Nguy cơ đất nước ta ngày nay là người Cộng sản tiêu diệt thế hệ chuyển tiếp. Chúng ta đang mất thế hệ chuyển tiếp. Thường khi tre già măng mọc như tục ngữ ví von. Thế hệ già qua đời, thế hệ trẻ tiếp nối. Tiếp nối bằng cái học và kinh nghiệm của lớp trước. Nhưng chủ nghĩa và chế độ Cộng sản làm băng hoại văn hóa và xă hội Việt Nam. Nhiều năm qua có số người ảo tượng rằng “lớp già ngu muội cộng sản chết đi, lớp trẻ sẽ khá hơn”.

Thế nhưng vấn đề là chủ nghĩa cộng sản tha hóa con người đang ngự trị. Bao lâu chủ nghĩa ấy c̣n, con người mới không thể xuất hiện. Một nhà báo Mỹ của tờ Time sau khi viếng Việt Nam nhận ra nền Văn hóa Vị kỷ manh nha trong nước, mà ông gọi là Me Culture. Cái nhà của tôi… việc làm của tôi… xe con của tôi… Tôi, tôi, tôi… cái ǵ cũng tôi đến đánh mất xóm giềng, đất nước, tiền đồ dân tộc. Một xă hội sống trong sợ hăi chỉ đẻ ra chủ nghĩa Kim tiền, chụp giật và chạy gạo. C̣n thần trí đâu lo chuyện quê hương, xứ sở ?

Thế hệ trẻ ngày nay sống trong sợ hăi và làm tiền. Ai đây lo kế tục chuyện nước ? Tôi nói ta mất một thế hệ chuyển tiếp là như vậy. Nguy lắm. Hiển nhiên mấy ông già chết đi, người trẻ sẽ tiếp thay. Nhưng chúng sẽ tiếp tục duy tŕ các cơ chế tham nhũng, đặc quyền đặc lợi, nhưng không phục vụ dân đen.

Chị bảo tôi “nói với những trí thức trẻ Việt Nam” là kẹt đấy. Kẹt v́ Cộng sản bắt người ta học tập hoài. Ḿnh có nói ǵ chẳng ai nghe, chẳng ai tin đâu, dù nói nhỏ nhẹ, nói theo ư hướng nào. Gần đây tôi có đọc một tài liệu mật của đảng Cộng sản chỉ thị các phương thức đàn áp giới trẻ và sinh viên. Chúng ta cần suy nghĩ mấy câu bất hủ sau đây :

“Phải làm cho dân chúng vừa yêu vừa sợ. Nếu không thể làm cho người dân yêu mến th́ cũng phải tuyệt đối duy tŕ nỗi sợ hăi để họ không bao giờ có đủ ư chí mà nổi loạn.

Phải giữ cho cái gọi là: “phong trào dân chủ đối lập” không thể trở thành phong trào đúng nghĩa, không thể bén rễ và lan rộng. Phải làm sao để nó chỉ là hoạt động manh mún, rời rạc, tự phát của các cá nhân đơn lẻ; làm cho có nhiều “lănh tụ” mà ít hoặc không có quần chúng; có nhiều “nhân sĩ trí thức” mà ít hoặc không có một tổ chức nào có thực lực; có nhiêù những hoạt động lăng mạn hời hợi có tính phô trương – mà người dân có biết đến cũng chỉ mỉm cười ư nhị - chứ ít hoặc khộng có những hoạt động thiết thực có tầm mức ảnh hưởng sâu rộng đến xă hội; [làm cho] có thật nhiều những hoạt động “chống cộng cực đoan” có tính chất phá hoại từ bên trong, gây phản cảm đối với người dân lao động, thậm chí làm cho những gia đ́nh cách mạng và đội ngũ cựu chiến binh phẫn nộ…

“Phải chủ động trong việc nâng cao dân trí để làm bàn đạp mà phát triển kinh tế, nhưng lại phải lèo lái “dân trí cao” không đồng nghĩa với “ư thức dân chủ cao”.

“Phải làm sao cho giáo dục bậc đại học được cải thiện nhưng (…) khao khát tiền bạc và công danh, mạo hiểm và sáng tạo trong kinh doanh, cầu tiến trong sự nghiệp riêng, tôn thờ Bill Gates và chủ nghĩa tiêu thụ - nhưng đồng thời cũng tuyệt đối thờ ơ với những lư tưởng và hoài băo cải biến xă hội, xa lạ với những tư tưởng trừu tượng viễn vông, t́m kiếm những giải pháp cá nhân thay cho ư thức công dân, và đặc biệt là tránh xa âm mưu thay đổi chế độ. (…) Làm sao để trong mỗi tổ chức dân sự đều có chân rết của ta. Các tổ chưc trung gian như Mặt trận Tổ quốc, Công đoàn, Hội phụ nữ, các Hội cựu chiến binh, các Câu lạc bộ hưu trí … phải phát huy vai tṛ tối đa trong việc trung hoà những nhân tố nguy hiểm, điều hoà những xung đột nếu có giữa nhà nước và xă hội, giảm thiểu sự bất măn của dân chúng… Làm sao để xă hội dân sự vẫn được mở rộng nhưng theo hướng có kiểm soát của chúng ta, chứ không trở thành mối đe doạ.

“Quan trọng hơn cả là chúng ta phải tiếp tục nuôi dưỡng nỗi sợ hăi – dù chỉ là nỗi sợ mơ hồ trong tiềm thức – nhưng đồng thời cũng không để cho nhân dân cảm thấy tuyệt vọng. (…) Chúng ta phải biết dùng mồi để nhử, đánh vào thói tham lam ích kỷ lẫn thói háo danh của người đời, vừa phải làm sao để tinh thần thực dụng và chủ nghĩa mánh mung chụp giật trở thành bản tính của dân tộc - vốn đă ră rời về ư chí, tan vỡ về niềm tin, chán ngán các loại ư thức hệ; nhưng đồng thời cũng phải chuẩn bị sẵn những cái van để dân chúng có chỗ giải toả ẩn ức”.

Đáng chú ư là câu này :

“Một kết quả bất ngờ mà cũng là một kinh nghiệm quí trên mặt trận tuyên truyền nhồi sọ: việc chúng ta bắt ép sinh viên phải học tập chủ nghĩa Marx-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh đă đem lại những kết quả ngoài mong ước. Thành công của chúng ta không phải đă đạt được mục đích ban đầu là làm cho thế hệ trẻ tôn thờ thứ chủ nghĩa mà ngay cả chúng ta cũng không tin. Ngược lại, thành công của chúng ta là đă làm cho thế hệ trẻ chán ngán đến tận cổ khi phải học măi một thứ ư thức hệ lỗi thời, bị nhồi nhét đến phản cảm những tư tưởng cũ kỹ. Nhờ vậy chúng ta đă đào tạo ra một thế hệ trẻ thờ ơ vô cảm với tất cả các loại tư tưởng và ư thức hệ, chai sạn với lư tưởng và hoài băo mà thanh niên thường có, trở nên thực dụng và ích kỷ hơn bao giờ hết”.

Nếu đâu đó c̣n những người trẻ ư thức muốn nghe, tôi khuyên họ tái tạo quả trứng Mẹ Âu Cơ và hăy đứng về phía Quả trứng.

Mệnh đề một là họp nhau lại “Một Trăm Người Việt” ban đầu để làm mới Nước Việt.

Mệnh đề thứ hai, tôi lập lại khẩu hiệu của nhà văn Haruki Murakami người Nhật. Murakami quan niệm con người mỏng manh như quả trứng cần được bảo vệ. Chế độ, chủ thuyết, cường quyền như bức tường ngăn chắn kiêu hănh. Lắm khi những bất công trong đời khiến ta phẫn nộ muốn vất trứng vào tường phản đối. Trứng vất vào tường th́ ăn thua ǵ ? Tường măi măi ĺ lợm, kiên cố. Nhưng nhân loại phải đứng về phe quả trứng ! Chớ dựa lưng vào tường.

 

23. Lê Thị Huệ: Có cảm tưởng một Thi Vũ nhà thơ là chính ông hơn là một nhà tranh đấu Vơ Văn Ái. Bài thơ nào là bài ưng ư nhất của Thi Vũ ?

Vơ Văn Ái : Tranh đấu là đụng chạm. Đụng chạm tự ái, đụng chạm ư tưởng người khác. Tất có phản ứng, chửi bới, bôi nhọ, vu hăm. Đâu đó Nerhu viết rằng đi vào chính trường là đi vào giống tố, nhưng Nerhu bỏ đạo trường đi vào chính trường chấp nhận băo giông.

Làm thơ ít đụng chạm. Người ta có chê cũng không hằn học đến phải kê dao vào cổ. Viết không đúng hay đụng chạm đến hoa, mây, trăng, chim, rừng… ḿnh khó biết phản ứng các vị này như thế nào, mà họ có phản ứng cuồng nộ chắc cũng không đến nỗi giết ḿnh như loài người.

Tôi cảm tưởng do phản ứng của người khác dội lên khiến cho Thi Vũ và Vơ Văn Ái trở thành khác nhau. Tự thân tôi, Thi vũ hay Vơ Văn Ái vẫn là một, không sai khác từ ăn, ngủ, tọa thiền, đọc sách, ngắm trăng, ngó triêu dương, nh́n hoa, tranh, hay khi giao tiếp. Ngày tôi làm tạp chí Quê Mẹ ở Paris, nhiều cô nhiều cậu viết thư chỉ muốn gặp Thi Vũ, nhưng không muốn gặp Vơ Văn Ái. Trong hoạt động, th́ nhiều người chỉ muốn gặp Vơ Văn Ái. Nhưng sau khi gặp để dụ tôi vào đảng, mặt trận hay phong trào họ không thành, đa số trong họ liền quay lưng và bắt đầu chống đối, tiếng bấc tiếng ch́. Người Việt thích kéo bè kết đảng hơn tập họp làm việc chung.

Không thể trả lời bài thơ nào ưng ư nhất. Tôi chắc chị sẽ khó trả lời được câu hỏi chị ưng ư cháu nào nhất trong nhà ? Mỗi đứa con một thai nghén, một sắc thái, một âu yếm. Thơ cũng thế.

Tuy nhiên có ba bài thơ tiêu biểu v́ nhận các phản ứng bất thường. Bài Kẻ lạ trong tập Hoa Nắng do An Tiêm xuất bản ở Saigon năm 1966 mà chị đă cho đăng trên Gió O. Một hôm tôi nhận được thư của Linh mục Nguyễn Ngọc Lan dạy ở Viện Thần học Pie X Giáo Hoàng Chủng Viện  trên Đà Lạt viết rằng : Hôm nay khai giảng khóa thần học tôi đọc bài thơ Kẻ Lạ của anh và giảng cho các chủng sinh nghe.

Một bài khác, cũng được phản ứng lạ lùng của một thanh niên ở Nhatrang mà tôi quên tên, viết thư sang Paris cho tôi nói rằng : buồn đi trên phố vào hiệu sách thấy Tuyển tập Thi Nhạc Họa Phật giáo do nhà Lá Bối xuất bản năm 1967, đọc bài thơ Thi Vũ nên bỏ ư định tự tử. Bài thơ ngắn ấy như sau :

Thanh

chân đôi gầy thế giới

đường trắng khóm mây hồng

trời cao xanh

và thanh

mùa xuân vui

và lành

trong ḷng thanh

con chim bé

hót mặt trời

lá nơn

hoa thơm

Bài thứ ba tuy chẳng ai phản ứng, nhưng nó nối kết tôi với quê hương Việt Nam dù tôi sống ở nước ngoài lâu hơn sống trong nước. Lẽ ra tôi phải thành một ông tây da vàng rồi. Nhưng sợi dây kia như cuốn rún chưa ĺa khiến tôi cứ phải long đong với quê cũ. Bài này là một trong 108 bài trong tập thơ Rằm sáng tác ở Herradura, Tây Ban Nha năm 1973 (chưa xuất bản). Thời gian ấy tôi chiêm nghiệm thơ Việt Nam cô đọng và ngắn nhất thế giới.

Thơ ngắn nhất trong thế giới khởi đầu là thất ngôn tứ tuyệt của Tàu, 28 chữ. Ngắn hơn nữa là ngũ ngôn tứ tuyệt, 20 chữ. Ngắn nhất và được thế giới công nhận cho tới nay là thể Haiku của Nhật, 17 chữ.

Thế nhưng thể lục bát Việt Nam chỉ 14 chữ. Ta đọc thấy trong kho tàng ca dao, trong Kiều những hai câu lục bát hay nhất. Người b́nh dân thơ mộng, chân chất hay thi hào khi bắt chớp tứ thơ, ghi chụp h́nh ảnh, tung mở suy tư… họ thể hiện ngắn gọn, sinh động, sung măn trong 14 chữ mà thôi. Con người bước vào cuộc nhân sinh bằng một hơi thở chứa ngầm thi tính. Mỗi ngày chúng ta thở 21.000 lần. Nhưng lần thứ nhất, lần đầu, hơi thở đầu dẫn dắc sự sống ra đi. Mỗi hơi thở là một câu lục bát 14 chữ. Những câu Kiều hay ca dao đẹp nhất, nhớ nhất, lưu luyến nhất trong trí ta bao giờ cũng chỉ hai câu.

Chỉ khi nào cần kể chuyện, tŕnh bày một t́nh tự, một ước mơ, xét đoán, người làm thơ mới vượt ra ngoài sự sống  - là hơi thở -  kéo dài thành nhiều hơi thở kể chuyện đời, chuyện nước non, t́nh tự như một trường ca. Sự thế hiện đổi ra cuộc tŕnh bày. Thơ 14 chữ bộc lộ sức sống trọn vẹn, cách sống, thế sống như một hơi thở. Ở đó biên cương sinh tử được khép kín.

Ở các thời đại an b́nh, tâm tư tự tại, tinh thần minh mẫn, thơ ngắn và cô đúc. T́nh nồng nhưng đă nén, khí mạnh đă được dằn. Mỗi chữ nổ tung giữa ḷng người đọc, lời viết bớt ồn ào. Đó là chất vàng ṛng trong thơ. Hai chiều sâu rộng đứng xuống thơ như đôi chân chim mảnh mai viết trên cát trắng những tín hiệu giải tích hư vô.

Vào thời loạn ly, thơ thường nhiều và dài. Con người cần bộc lộ những cay đắng, uất hờn. Người làm thơ đi xa con tim ưu ái xuống hạ lưu biến động của mười ngón tay. Viên than hồng vô ngôn đă tro bạt thành đống chữ lạnh lùng.

Bài thơ nói trên tôi viết như sau :

Nước

Con chim

hót

một tràng sông

Nụ cười bản trạch

thơm nồng

cơi xa

Tôi cũng tâm đắc với việc Gió O chọn bài “Xa nhà được tin Mẹ mất” của tôi đưa vào mục Một Bài Thơ Hay . Mất Mẹ là biến động khủng khiếp kinh hồn trong đời tôi năm 1983. Bài thơ ấy nói đủ sức chấn động, đồng thời ghi trọn hành tŕnh đời tôi qua câu “Đem thân chống băo vớt người trầm luân”. Chống băo là cuộc đấu tranh cho nhân quyền Việt Nam trên trường quốc tế, và vớt người trần luân là việc xướng xuất con “Tàu Đảo Ánh sáng” ra vớt Người Vượt Biển trên Biển Đông từ năm 1978.

Sự xót xa không được sống như nguyện trong đời sống sáng tác thơ văn nghệ thuật đă được nguôi ngoai phần nào với sự cứu vớt những người lâm lụỵ trên biển cả, và công cuộc vận động trả tự do cho người tù Cải tạo đạt hiệu quả lớn từ giữa thập niên 80.

Cuộc họp báo đầu tiên tại Paris vào ngày 29.5.1978 nói lên thảm trạng tù ngục Việt Nam, mà chúng tôi gọi là “Bắc hoá chế độ tù ngục ở Miền Nam” (La Nordmalisation des Prisons au Sud Vietnam) đă được 60 kư giả truyền thông, truyền h́nh, báo chí quốc tế tham dự. Báo chí, truyền thông ủng hộ bao nhiêu cho Hà Nội trước 1975, th́ cuộc họp báo này là cuộc phản công chuyển hoá lương tri nhân loại trở về bảo vệ nhân dân thầm lặng không cộng sản trong nước. Cuộc họp báo tháng 5.1978 rồi chiến dịch “Một Chiếc Tàu Cho Việt Nam” đi vớt Người Vượt Biển vào tháng 11 cùng năm là sự chiến thắng lần đầu trên trường quốc tế của phe dân tộc sau 33 năm bị Cộng sản Hà Nội khuynh loát.

Một việc gây vang động không kém, là sự kiện Uỷ ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam[7] kiện Hà Nội vi phạm nhân quyền trầm trọng trước LHQ ở New York ngày 29.4.1985 với một hồ sơ 500 trang chưa hề được kết tập từ sau năm 1975. Vụ kiện xẩy ra ngay vào lúc Hà Nội tổ chức rầm rộ ăn mừng 10 năm chiến thắng, lần đầu mời 200 nhà báo quốc tế về tham dự. Báo chí trong thế giới đă rầm rộ nói lên sự kiện vi phạm nhân quyền như một lời đáp đanh thép trước những yến tiệc linh đ́nh của Hà Nội mặc nhân dân khốn khó, bị áp bức, mặc hàng triệu người thất thơ thất thểu trên các vùng Kinh tế mới, mặc sáu mươi lăm ngh́n người bị thảm sát và tám trăm ngh́n tù nhân chết ṃn trong các trại Cải tạo .

 

Hồ sơ 500 trang đệ nạp tại LHQ ở Nữu Ước ngày 29.4.1985 kiện Nhà cầm quyền Hà Nội vi phạm Nhân quyền trầm trọng tại Việt Nam trong suốt 10 năm 1975 – 1985 trên các lĩnh vực chính trị, tôn giáo, xă hội, kinh tế. Báo chí, truyền thông quốc tế đă loan tải rộng răi, đưa tới việc Quốc hội Châu Âu ra Quyết nghị đầu tiên tố cáo Hà Nội năm 1986.

 

Nhân vụ kiện nhà cầm quyền Hà Nội vi phạm nhân quyền trầm trọng tại LHQ ở New York ngày 29.4.1985, nhiều báo chí Hoa Kỳ, như Wall Srteet Journal, Newsweek, v.v… đă phỏng vấn tôi. Trên đây là bải phỏng vấn đăng trên tuần báo Neewsweek

 

Cuối năm 1988, nhà cầm quyền Hà Nội đă xử án tử h́nh ông Trần Văn Lương và hai Thượng toạ Phật giáo Thích Tuệ Sỹ, Thích Trí Siêu (tức Lê Mạnh Thát), Uỷ ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam thuộc Cơ sở Quê Mẹ liền mở cuộc vận động quốc tế cấp tốc trong ṿng 13 ngày phá án tử h́nh, và đă được thế giới đáp ứng qua sự hỗ trợ của các vị Tổng thống, Thủ tướng, Công đoàn Hoa Kỳ AFL-CIO và các Công đoàn ở Âu châu, v.v… Tôi đă lên Bắc Âu gặp Thủ tướng Thuỵ Điển nhờ can thiệp, v́ Thuỵ Điển là nước bằng hữu thiết cốt của Hà Nội. Thủ tướng phái ngay Ngoại trưởng Thuỵ Điển về Hà Nội giải cứu. Trên đây là bức thư hồi đáp của Thủ tướng Ingvar Carlsson cho biết hai Thượng toạ Phật giáo đă được phá án tử h́nh.

 

Tuần báo Express tại Paris công bố danh sách đầu tiên in trên tạp chí Quê Mẹ tên 130 Văn Nghệ sĩ Miến Nam bị Cộng sản cầm tù vào tháng 6 năm 1978

 

Trước đó vào cuối năm 1978, tôi nhớ măi như in trong những ngày vận động cho chiến dịch “Một Chiếc Tàu Cho Việt Nam” đi vớt Người Vượt Biển, đài Truyền h́nh Hoà Lan sang Paris phỏng vấn tôi. Kư giả là người phe tả thuộc đảng viên đảng Xă hội. Phe tả trong thế giới, nhất là tại Châu Âu, thời bấy giờ không mặn mà lắm với Người Vượt Biển. Họ cho Người Vượt Biển là “tay sai của đế quốc Mỹ”, là “những tội phạm chiến tranh”. V́ vậy anh kư giả hỏi tôi : “V́ sao lại cứu vớt những kẻ làm tay sai cho Mỹ” ? Đại loại như thế. Tôi hỏi ngược anh ta : “Đang đi bên bờ các con lạch (Gracht) ở Amsterdam, anh thấy một người chết đuối, anh nhảy xuống cứu ngay, hay hỏi xem kẻ ấy thuộc phe tả, phe hữu rồi anh mới ra tay ?”. Rồi tôi giải thích trong cuộc phỏng vấn người ra đi không chỉ riêng thành phần quan lại, những người cộng tác với Hoa Kỳ, mà c̣n đông đảo thành phần nông dân, thợ thuyền, những kẻ bần hàn không chịu nổi chế độ độc tài bất nhân nên họ ra đi t́m tự do. Có nhiều trường hợp cha mẹ nghèo khó không đủ tiền nên đành gửi con cái ra đi mong cầu cho tương lai chúng sáng sủa.

Cuối năm ấy (1978) chương tŕnh phỏng vấn được tŕnh chiếu bên Hoà Lan. Câu trả lời với h́nh tượng người chết đuối trên con lạch thành phố Amsterdam gây xúc động dân chúng Hoà Lan, nên được dân chúng yêu cầu chiếu lại 3 lần trước lễ Giáng sinh. Trong ṿng một tuần lễ, mươi ngày, dân chúng Hoà Lan gửi tiền ủng hộ Con Tàu tám (8) triệu Phật lăng. Họ gọi điện mời tôi sang Amsterdam nhận tiền, tôi đă cùng đi với Nhà văn nữ Claudie Broyelle, nhà báo Olivier Todd, bác sĩ Bernard Kouchner trong Uỷ ban Một Chiếc Tàu Cho Việt Nam.

Chiến dịch Cứu Sống Người Vượt Biển được thành công và quốc tế hoá kể từ sự kiện Hoà Lan này. Tại Pháp, đảng Cộng sản Pháp chới với trước chiến dịch của chúng tôi, liển tung màn quyền tiền ủng hộ Hà Nội “băng bó vết thương chiến tranh”. Họ in bích chương lớn 2 thước trên 3 thước dán khắp nước Pháp. Sau một tháng họ thu được năm trăm ngh́n Phật lăng. Trong cùng tháng ấy, Uỷ ban của chúng tôi thu được ba triệu Phật lăng.

 

Cơ sở Quê Mẹ và Uỷ ban Bảo vệ Quyền Làm Người Việt Nam mở cuộc vận động Chống Hải tặc Thái trên Biển Đông hăm hiếp phụ nữ tị nạn đầu thập niên 1980. Trên đây là điện tín của Ông Lane Kirkland, Chủ tịch Công đoàn Hoa Kỳ AFL-CIO gửi cho tôi viết rằng : “Chia sẽ mối quan tâm của bạn về những phụ nữ c̣n sống sót không thể nào tiếp tục bị truy bức sau thảm trạng trên đảo Kokra và vụ xét xử bọn hải tặc Thái cần tiến hành stop Bộ Ngoại giao vừa cho chúng tôi biết Hoa Kỳ đă tài trợ một tàu tuần tiễu do Cao uỷ Tị nạn điều hành để ngăn chận bọn hải tặc stop Dù sự đó chưa đủ vẫn là bước tiến quan trọng stop Chúng tôi tiếp tục theo sát và chờ đợi tin tức mà bạn đă nhắc trong khẩn điện vừa qua stop Thân ái, Lane Kirkland Chủ tịch AFL-CIO.

 

Thoạt đầu khi xướng xuất con tàu đi vớt người, bản thân tôi chỉ nghĩ đến công tác gây động quốc tế lưu tâm tới thảm cảnh Người Vượt Biển. Chẳng hy vọng ǵ có một con tàu thực hữu đi vớt người. Nào ngờ Pháp, Hoà Lan các nước Châu Âu rồi khắp thế giới chấn động ra tay hỗ trợ. Khi có tiền trong tay, th́ việc thuê tàu trở nên kẹt lối. Ông George Meany, Chủ tịch Công đoàn AFL-CIO, hứa với tôi sẽ giúp tàu đi vớt người. Tiếc thay phe tả của Pháp trong Uỷ ban của chúng tôi không khứng. Các người này bảo không nên để Mỹ nhúng tay vào ?! V́ vậy chúng tội phải đi khảo giá thuê tàu tại Pháp. Năm hăng vui vẻ nhận lời cho thuê. Đến khi có tiền, th́ cả năm hăng đều khăng khăng khước từ, viện dẫn đủ lư do, nào tàu phải sơn phết lại, nào tàu c̣n sửa chữa, v.v… Điều tra mới biết công đoàn hàng hải Pháp nằm trong tay đảng Cộng sản nên bị áp lực không cho chúng tôi thuê.

Trong cơn tuyệt vọng, th́ một đêm vào lúc 3 giờ sáng, một bà độc giả tạp chí Quê Mẹ ở Nouméa bên đảo Nouvelle Calédonie (thuộc Pháp) gọi sang nói : Đọc Quê Mẹ thấy các ông gặp khó khăn thuê tàu. Tàu Đảo Ánh Sáng của chồng tôi vừa hết hạn cho thuê, nếu ông muốn có thể dùng tàu này đi vớt người. Chúng tôi mừng hú vía. Sáng hôm sau chúng tôi cử người bay sang Nouméa kư hợp đồng thuê tàu. Mọi sự giải quyết êm thắm.

 

Con tàu Đảo Ánh Sáng (Ile de Lumière) của Uỷ ban Một Chiếc Tàu Cho Việt Nam thả neo ra Biển Đông vớt Người Vượt Biển từ năm 1979

 

Do sự kiện Con Tàu này, đài BBC Anh ngữ đă sang Paris phỏng vấn tôi lư do vớt Người Vượt Biển rồi cộng tác với Cơ sở Quê Mẹ làm bộ phim “Spirit of Asia” dưới sự đạo diễn của David Attenborough bao gồm 7 quốc gia Châu Á, mà Việt Nam là một. Bộ phim nhấn mạnh đến văn hoá Việt Nam trước sức tấn công tàn diệt của chủ nghĩa Cộng sản, và đă được 27 nước trong thế giới thuê chiếu. Lại một dịp quốc tế hoá văn hoá Việt Nam.

 

24. Lê Thị Huệ: Vào những năm 1980 tôi đă từng mua báo Quê Mẹ v́ hai điều, rất thích graphic design của tờ báo, và để đọc những bài viết của Thi Vũ, để thưởng thức cách dụng ngôn của một nhà thơ trí thức sống lâu năm ở nước ngoài. Ông có nhận xét ǵ về Tiếng Việt trong kinh nghiệm sáng tác thơ và kinh nghiệm viết của ḿnh ?

Vơ Văn Ái : Từ nhỏ tôi có ước vọng làm đẹp và sang tiếng Việt qua một phong triều văn học mới để nối tiếp nền văn học tiền nhân và tiền chiến. Bây giờ tôi không c̣n ước vọng ấy. V́ bất khả. Người văn nghệ sĩ có cá tính riêng, ít ai muốn đi vào luồng. Những phong triều văn học mở ra không do ư chí của ai, mà do nhu cầu phát biểu của thời thế và sự đưa đẩy của nhân sinh. Thường khi tư tưởng đi trước, thúc đẩy văn học hoặc ngược lại văn học phát sinh tư tưởng.

Tuy nhiên ư thức làm mới chữ nghĩa Việt Nam tôi vẫn đeo đuổi và thể hiện qua các bài viết. Thực ra không phải làm mới, mà nhu cầu viết thúc đẩy chữ phải bắt cho được cái thần ngôn ngữ, chữ là động tác lột thần, hiện h́nh đúng lúc, hoá thân theo từng tâm cảnh để diễn tả sống động sự kiện, tránh các kiểu cách khuôn phép, sáo ṃn, vang rỗng.

Tiếng Việt ngày nay không c̣n là tiếng Việt nguy nga, thuần túy, khi ta đọc sách báo trong và ngoài nước. Tiếng Việt bây giờ rất Tây. Đọc mà cứ tưởng đó là một bài dịch ngoại ngữ vụng về. Nhan nhản trên truyền thanh, truyền h́nh, báo chí, những từ ngữ dùng sai, những câu văn bất thành cú, những lỗi ngớ ngẩn, thô bạo. Tôi chỉ lấy một thí dụ là chữ bởi rất Tây đang lan tràn trong cách viết của người Việt. Ảnh hưởng hoặc dịch từ chữ par trong tiếng Pháp hay by trong tiếng Anh, người ta viết tiếng Việt như ông Tây. Hăy vào Internet bất cứ ngày nào lấy ra vài ví dụ như sau :

Một Trang nhà trong nước và một Trang nhà ngoài nước viết : Đăng bởi vantuyen.net on tháng sáu 21,2009 ; Thu thập bởi Trần Hữu Dũng. Tại sao không viết vantuyen.net on đăng tháng sáu 21,2009 hoặc Trần Hữu Dũng thu tập ?

Đêm 20.8.1968 xe tăng Liên xô vẫn tiến vào Praha theo sau bởi hơn 165 ngh́n quân của khối Warsava. Tại sao không viết : Đêm 20.8.1968 xe tăng Liên xô tiến vào Praha với hơn 165 ngh́n quân thuộc khối Warsava ?

Tài liệu đă được giải mật bởi cơ quan CIA. Tại sao không viết : Tài liệu đă được CIA giải mật.

Những người đă bị bắt bởi Đại tá Thi. Tại sao không viết : Những người đă bị Đại tá Thi bắt ?

Hiệp ước được kư ở Moscow bởi Ngoại trưởng Đức Joachim von Ribbentrop và người tương nhiệm phía Nga, Vyacheslav Molotov. Tại sao không viết : Ngoại trưởng Đức Joachim von Ribbentrop kư Hiệp ước ở Moscow với người tương nhiệm phía Nga, Vyacheslav Molotov ?

Bản quyền bởi 1961 Pantheon Books; Trích dẫn bởi James Hillman. Tại sao không viết : Bản quyền Pantheon Books, 1961 ; Trích theo James Hillman ?

Vân vân và vân vân…

Đầu thế kỷ XX va chạm nền văn hóa Tây phương, đặc biệt là Pháp, các nhà văn nhà thơ đột phá và sáng tạo chữ Việt rỡ ràng. Những Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Bích Khê… những Khái Hưng, Nhất Linh, Nguyễn Tuân… làm nên ḍng văn học vàng ṛng chữ nghĩa. Tiếp theo một khoảng thời gian ngắn của cuộc kháng chiến giành độc lập từ 1945 đến 1949, chữ nghĩa lại chuyển ḿnh, đưa ra những bài thơ mới, đẹp, rung động tâm hồn kiểu Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm, Tây Tiến của Quang Dũng, Đèo Cả, Màu tím hoa sim của Hữu Loan, Đất nước của Nguyễn Đ́nh Thi, v.v... Rồi tắt ngúm theo nền văn học chủ nghĩa xă hội nghèo nàn đầu thập niên 50, khi Đảng Lao Động lấy lại tên Cộng sản, và sau khóa học rèn cán chỉnh quân cùng phong trào tự phê. Nền văn học này chỉ đẻ tuyền một thứ văn chương công nông binh, văn chương trại lính. Văn học Việt suy tàn.

Sự nghèo nàn chữ nghĩa làm tăm tối suy tư và tư tưởng người Việt. Từ đó ảnh hưởng đến lối sống, nếp sống của người Việt. Nói tóm là văn hóa, văn hiến. Chúng ta đang ở giữa cuộc khủng hoảng văn hóa lớn. Trọng trách của người cầm bút càng lớn hơn.

 

25. Lê Thị Huệ: Ông đă từng tuyển chọn và giới thiệu 40 Năm Thơ Miền Nam ? Ông nghĩ thế nào về thơ Việt Nam ? Đâu là nét nổi bật của thi ca Việt Nam ?

Vơ Văn Ái : Đúng là tôi khởi sự bộ “Bốn mươi năm Thơ Việt Nam 1945 – 1985” mà tôi gọi là Thi tưởng và Thi tuyển. Qua bộ này tôi muốn bắt cái thần của ngôn ngữ Việt giữa thời tao loạn, thời khủng hoảng văn hóa. Dự trù bốn tập, nhưng mới phát hành một tập.

 

H́nh b́a Bốn Mươi Năm Thơ Việt Nam 1945 - 1985

 

Nghĩ về Thơ Việt Nam, tôi nhận xét sơ bộ trong Lời Tựa :

“Thi ca là nền tảng của tư tưởng. Tư tưởng được hệ thống hóa thành triết học. Triết học Việt Nam là lĩnh vực chưa được khai phá quy mô, c̣n mơ hồ trong nhiều giả định.

“Phải từ nguồn thi ca bắt mạch tư tưởng Việt. Cho tới nay, việc này ít người ra công. Tất cả c̣n ở trong giai đoạn phát hiện. Nhiều thức giả đă dày công phát hiện kho tàng thi ca cổ mười thế kỷ trước, cùng với kho tàng thi ca b́nh dân. Riêng nền thi ca tiền chiến, coi như có nhiều công tŕnh đánh giá kỹ càng, đặc biệt với Hoài Thanh. Rồi im bặt tiến tŕnh thi ca Việt hơn bốn mươi năm qua, kể từ cuộc kháng chiến toàn quốc giành độc lập mùa thu năm 1945 (…) Trong bốn mươi năm ấy, tôi nhận ra bốn lần thi ca chuyển động theo thời cuộc và theo từng ḍng vận hành lịch sử. Giai đoạn 1945-1954, thi ca mang màu sắc kháng chiến giành độc lập dân tộc. Giai đoạn 1954-1963, có sự rộ nở và chuyển ḿnh trong tư thái cá thể tự do của số lớn thi sĩ ở phía Nam vĩ tuyến 17, đối lập với thi ca tập thể mang màu sắc chính luận và tuyên truyền ở miền Bắc. Giai đoạn 1963-1975 ảnh hưởng tư tưởng khai phóng của Thiền Phật giáo, thi ca bước vào thi thái mới với nét riêng độc đáo. Giai đoạn 1975-1985, cuộc đổi đời mà kỳ thật là khổ nạn vừa chưa từng, vừa kinh khiếp, làm thi ca thêm một lần quằn quại, sau nỗi quằn quại chiến tranh”.

 

26. Lê Thị Huệ: Cá nhân tôi vẫn nghĩ là về mặt thi ca, thơ Việt nam ngất ngưỡng cao ngạo và tuyệt tác không thua bất cứ nền thi ca nào trên thế giới, ông có chia sẻ với tôi chút nào về ư kiến đầy kiêu hănh này không ?

Vơ Văn Ái : Nhờ thi sĩ cư ngụ trái đất, mà tất cả mọi nền thi ca nhân loại ngất ngưỡng và tuyệt tác. Ai nắm được cái thần ngôn ngữ nước ḿnh, tất chân nhận ra thi ca mượt mà, diễm lệ chẳng thua ai.

Thử lấy vài ví dụ. Câu thơ Chiều mưa trên băi nước sông đầy của Huy Cận sẽ rạo rực tâm tư ta như t́m thấy bến đậu giữa hư không, nếu ta từng trải qua thời thơ ấu sống bên con hói ở làng quê, mỗi chiều thấy nước sông dâng khi mưa tới. Mưa và sông một buổi chiều quê hoá hiện thành h́nh ảnh thơ ngút ngàn, dù chữ khắp câu thơ chẳng có chi kiều diễm. Thế mà chữ đă hà hơi làm nên khí hậu. Khí hậu là không gian, con người là thời gian. Thời gian chảy trôi đâu khi không có không gian ? Đó gọi là khí hậu, sự thăng hoa của Không và Thời giữa niềm phiếu diễu thi ca.

Cũng thế, Hoa bưởi thơm rồi đêm đă khuya hoặc Ôi nắng vàng sao mà nhớ nhung / Có ai đàn lẻ để tơ chùng của Huy Cận; Hư vô bóng khói trên đầu hạnh / Cành biếc run run chân ư nhi của Xuân Diệu; Ô hay vàng rơi cây ngô đồng / Vàng rơi ! vàng rơi ! thu mênh mông… của Bích Khê; Người đi một nửa hồn tôi mất / Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ  hoặc Khách xa gặp lúc mùa xuân chín / Ḷng trí bâng khuâng sực nhớ làng của Hàn Mặc Tử; Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà của Nguyễn Xuân Sanh tả một dĩa trái cây, v.v… đều có cái đẹp như thế, miễn người đọc phải được sống trong đất nước ấy, giữa ḷng ngôn ngữ ấy, theo những bóng thơ chập chờn bao quyện ngày đêm.

C̣n như câu thơ Từng con mắt gỗ hoen màu lệ của Vũ Hoàng Chương th́ chỉ có người Việt may ra mới hiểu để thấy cái đẹp lạ thi sĩ vừa khám phá, thăng hoa. Mắt hoen lệ là chuyện thường t́nh. Nhưng sao lại là mắt gỗ ? Người đàn bà đẹp, người đàn ông đau khổ vẫn là đôi mắt ướt chờ lệ tuôn ? Nhưng mắt ở đây không là mắt người, mà là mắt của vật vô tri giác : Mắt của đôi chân đèn sáp bằng gỗ để trên bàn thờ. Người thợ mộc tiện chân đèn ấy bằng nhiều khoen, mỗi khoen là một mắt gỗ. Sáp chảy xuống chân đèn như những giọt lệ lăn. Từ thực tại âm thầm nơi bóng tối chập chùng bỗng óng ảnh lên thi ca, nơi người thi sĩ tạo dựng thành muôn ngh́n thế giới gọi mời theo những cuộc ú tim.

 Hẳn nhiên chị nhận xét đúng về nền thi ca Việt ngất ngưỡng trên bầu trời tuyệt tác. Thi ca như người đàn bà đẹp, như hoa đẹp. Mỗi cái đẹp có những lưu luyến riêng, không cái nào giống cái nào ngoại trừ sự rạo rực.

 

27. Lê Thị Huệ: Nói về tập Tùy bút “Gọi Thầm Giữa Paris”, ông thích tập tùy bút này nhiều không ? Với tôi, tôi phải dùng từ: Tuyệt ! Gió-O đă giới thiệu nhiều bài lên đây.

Vơ Văn Ái : Cám ơn chị có biệt nhăn với “Gọi thầm giữa Paris”. Đó là một đoạn đời rất vui, đầy thơ mộng và đầy tính chiến đấu ở Paris, khi tôi chủ trương tạp chí Quê Mẹ đồng thời với việc lăn xả vào môi trường thế giới để bảo vệ Quyền làm người Việt Nam và bảo vệ văn hóa Việt đang bị nền văn hóa Mác-Lê uy hiếp.

 

28. Lê Thị Huệ: Chúng ta đang thiết lập một nền sáng tác bên ngoài Việt Nam. Mà những tác phẩm như "Gọi Thầm Giữa Paris" là một đóng góp tuyệt vời. Chúng ta không chỉ viết về những kinh nghiệm và đời sống bên ngoài Việt Nam, chúng ta c̣n thiết lập một loại ngôn ngữ sinh ra và được nuôi dưỡng từ bên ngoài Việt Nam. Ông có dịp sinh họat với nhiều cộng đồng người Việt khắp nơi trên thế giới, ông có nhận xét ǵ về việc ngôn ngữ Việt được dưỡng nuôi bên ngoài Việt Nam này ?

 

H́nh b́a Gọi Thầm Giữa Paris

 

Vơ Văn Ái : Đúng là có một nền văn học hải ngoại, một loại ngôn ngữ ngoại biên và thoát vượt, quay mặt với nền văn học minh họa trong nước. Các nhà văn nhà thơ trong nước do bị Đảng cầm quyền chỉ huy nên mất tính sáng tạo hồn nhiên. Mỗi tờ giấy của họ là một định mệnh, mỗi ḍng viết là một a ṭng. Người viết như con đồng chờ nhập vai, người viết đă ĺa hồn trên quản bút, nhắm mắt cho độc ác giết ṃn ḷng nhân hậu, cúi đầu cho cực đoan đập nát cơi hồn nhiên.

Ở hải ngoại th́ không thế. Ngoại trừ nền văn chương chống Cộng, đáp trả, nên bị động và lâm lụy theo nền văn học đấu tố, chửi bới, hành h́nh  - một nền văn học sổ đen và chỉ điểm của cộng sản. Trái lại, người viết nói chung ở hải ngọai thoát vượt bối cảnh bế tắt, luân hiểm nơi cố thổ. Nhờ tiếp cận thênh thang với nền văn học thế giới nên khai mở những phương trời diệu vợi mà người trong nước không có.

Hiển nhiên địa lư không phân chia văn học Việt thành nội ngoại. Nhưng vấn đề nằm ở khí hậu. Khí hậu văn, khí hậu thơ ở hải ngoại đang mở ra ḍng văn học mới có tính nhắc nhở và hóa giải nội tâm con người Việt. Chủ lưu của nền văn học này khởi phát từ Nỗi Nhớ nguyên trinh về Bản lai diện mục con người và quê hương Việt.

Mới đây, viết tựa cho cuốn sách của một tác giả ở hải ngoại, nhà văn Vũ Hoàng Thư, tôi đưa ra ư nghĩ : ”Nền văn học hải ngoại sinh từ ”Đạo Nhớ”. Thiếu nỗi nhớ, kẻ chết không c̣n cơ sống lại trong ḷng người, quê hương tuyệt tích. Từ nhớ mà quê hương hiện hữu trong tim hay nơi ngoại cảnh khác, người chết được sống đời qua những thế hệ sau. Nỗi nhớ là sự tái sinh những con sông, rặng núi, mái tranh, làng mạc, t́nh người... Những ai mất quê hương mới thấy mối liên thủ kỳ diệu của nỗi nhớ. Người Âu Mỹ tự do đi đâu cũng được, nên chẳng quan tâm đến nỗi nhớ, biến nỗi nhớ thành đạo. Chỉ khi ai đó bị cấm về lại cố hương, lúc ấy sự thảng thốt h́nh thành, họ mới lấy nhớ làm đạo, như con đường về lại vùng cố thổ nơi họ cắt rốn chôn nhau”.

Nhờ nền văn học hải ngoại, biết đâu quê hương sẽ không thức tỉnh để học nhớ, khiến cho quê hương không mất quê hương trên quê hương ở thời đại vong tính  - Thời Đại Của Những Kẻ Giết Người.

 

29. Lê Thị Huệ: Với nhà thơ Nh. Tay Ngàn, trong lời giới thiệu về bài thơ Thành Phố Chim Hồng, ông viết: “Khí hậu siêu linh muôn trượng riêng biệt của Nhĩ . Chỉ nói khía cạnh ngôn ngữ mà thôi, Nh. Tay Ngàn đă tạo dựng cho ngôn ngữ của ḿnh một phong cách, và cho từ ngữ Việt những dụng cụ thăm ḍ cơi vô thức. Từ ngữ ở đây không là chữ nghĩa mà là một từ trường lời đang giải hoặc mê lộ của biện thuyết nói năng vô lối, hay vái chúc tung hô. Những con chữ đă được …”  Anh có thể nói thêm về lời giới thiệu Nh. Tay Ngàn này được không ? Lời giới thiệu như là một cánh cửa mở sinh lộ thơ của Nh. Tay Ngàn. Đọc một lời giới thiệu như thế này tôi thấy mê tiếng Việt và thi ca Việt Nam quá chừng chừng. Nh Tay Ngàn là một nhà thơ quan trọng của nền thi ca Việt Nam. Ông làm ơn nói thêm về Nh. Tay Ngàn và tầm mức của thơ Nh. Tay Ngàn đi.

 

H́nh b́a Ai Đă Chết Một Ḿnh Chim Xanh Khóc do NH. Tay Ngàn vẽ, và thủ bút trang đầu

 

Vơ Văn Ái : Nh. Tay Ngàn là một biểu tượng của nền văn chương Việt hải ngoại, làm cho văn học Việt Nam thêm giàu có, đại biểu cho tính chất ngoại biên và thoát vượt.

Việt Nam là tộc Việt ở phương Nam. Tự nghĩa của chữ Việt là vượt. Vượt trong nghĩa đen và nghĩa bóng. Vượt khỏi sự uy hiếp của chủ nghĩa bành trướng Đại Hán xuống phương Nam, rồi xuống tiếp phương Nam một lần nữa vào thế kỷ XVI khi cuộc khủng hoảng văn hóa và chính trị xẩy ra thời Trịnh Nguyễn phân tranh. Trong văn hóa và tư tưởng th́ biết bao lần chúng ta đă thoát vượt để thâu tóm và dung hóa các nền văn hóa nước ngoài. Phật, Khổng, Lăo rồi tới hai trào lưu Tây phương thực dân và cộng sản. Những nền văn hóa ấy tuyệt vời ở nước họ, trừ Cộng sản, song khi tới Việt Nam nó biến thành nền văn hóa nô dịch để đồng hóa con dân nước Việt.

Nh. Tay Ngàn là du học sinh đến Pháp giữa thập niên 60. Thế nhưng Nhĩ, tên thật của Nh. Tay Ngàn là Nguyễn Văn Nhĩ, đă thoát vượt Tự Lực Văn Đoàn và khí hậu chiến tranh trên quê hương tạo nên ḍng văn học mới. Ở đây các khái niệm Tây phương bị quét sạch, lộ hé một con người quằn quại đang lắng sâu xuống đáy tầng vô thức t́m lại chân diện mục của ḿnh. Tôi nói các khái niệm Tây phương, v́ cuộc chiến tranh Việt Nam là t́nh trạng lưỡng đầu xung khắc của Tây phương đế quốc và Tây phương cộng sản. Nh. Tay Ngàn thoát sinh từ ngọn lửa rực cháy của khổ nạn Việt Nam, biến quản bút thành dấu ấn ngẫu hứng tự nhiên của cảm xúc làm nên xung lực tham dự với đất trời.

Buồn thay cho thời đại chỉ biết trân trọng liệt sĩ và các đài chiến sĩ trận vong. Ít ai trân qúy người sống. Người sống bị băm thây thường trực bằng dao, súng, ḿn, chông, vu cáo và nhà tù. Bằng lời nói độc, xấu mồm, lắm khi hóa trang sau tấm màn ư thức hệ hay tôn giáo cao cả, nhưng nhầy nhụa sái thuốc phiện. Vào lúc ấy, th́ người viết ở hải ngoại bắt đầu tập thở để đương đầu với thế cuộc, tái tạo những rung động, khát khao, thương nhớ, ước mơ.

Bi kịch của Nh. Tay Ngàn là thảm kịch của tất cả nhà văn, nhà thơ, nhà nghệ thuật Việt Nam nửa cuối thế kỷ XX. Suốt đời Nhĩ ao ước được in một tập thơ, nhưng trong chuyến viếng thăm cố hương độc nhất đầu thập niên 70, cầm tập thơ về Saigon trao cho Mai Thảo ở tạp chí Văn, trao cho Phạm Công Thiện ở đại học Vạn Hạnh  - những người có phương tiện nhất để giới thiệu hay phát hành. Nhưng vô vọng. Trở lại Pháp, Nh. Tay Ngàn bị đưa vào nhà thương điên ở Villejuif. Xuất viện ít lâu, Nhĩ chết cô quạnh trên căn gát trọ số 16 đường Jean Ferrandi, Paris quận 6. Hai ba ngày sau bà chủ nhà mới phát hiện. Mấy câu tôi viết giới thiệu bài thơ “Thành phố Chim hồng” của Nh. Tay Ngàn đăng trên tạp chí Quê Mẹ ở Paris năm 1999, rồi được Gió O đăng lại sau này, đă nói đủ về Nh. Tay Ngàn mà cũng là về những nhà văn, nhà thơ bị quên lăng hay bị chà đạp ở hải ngoại :

“Nh. Tay Ngàn là một trường hợp lạ kỳ, đột xuất, trong nền văn học đương đại Việt Nam. Mai kia các tác phẩm thơ và truyện ngắn của Nhĩ được xuất bản đàng hoàng, Nhĩ sẽ có một chiếu riêng không ai tranh lấn. Bởi chưa ai sống qua và thở hít khí hậu siêu linh muôn trượng riêng biệt của Nhĩ. Chỉ nói khía cạnh ngôn ngữ mà thôi, Nh. Tay Ngàn đă tạo dựng cho cá nhân ḿnh một phong cách, và cho từ ngữ Việt những dụng cụ thăm ḍ cơi vô thức. Từ ngữ nói đây không là chữ nghĩa, mà là một từ trường lời đang giải hoặc mê lộ của biện thuyết nói năng vô lối, hay vái chúc tung hô. Những con chữ đă được chân không hóa thành hoa văn trên bia kư của nền trời. Ai là người dám thoát ly cảnh văn học chợ trời, đứng thẳng trên b́nh nguyên, nh́n xuyên đám mây trôi để giải mă cái khảm khắc chiếu rọi từ thân phận dùng thi văn ngoi vượt khỏi trầm luân”.

Văn thơ Nh. Tay Ngàn là sự chuyển hóa đương đại của ḍng tiều thuyết chí quái đời Tấn, truyền kỳ đời Đường, và cũng là ḍng hiện thực huyền ảo của Châu Mỹ La tinh ngày nay. Ấy là so sánh cho dễ h́nh dung. Chứ thực tế Nh. Tay Ngàn khai phá con đường siêu thực Việt Nam. Tôi c̣n giữ toàn bộ sáng tác thơ văn trên bốn ngh́n trang viết của Nh. Tay Ngàn, không biết ngày nào mới có phương tiện xuất bản !


 

[7] Ban cố vấn của Uỷ ban Bảo vệ Quyền Làm Người Việt Nam gồm có : Marc Blondel (Chủ tịch Công đoàn Lực lượng Thợ thuyền Pháp), Vladimir Boukovski (Nhà văn Nga), Bill Bradley (Thượng nghị sĩ Quốc hội Hoa Kỳ), Lary Diamond (Giáo sư Viện Nghiên cứu Hoover, Đại học Stanford), Milovan Djilas (Nhà văn Nam Tư), David Kilgour ( Thượng Nghị sĩ Quốc hội Canada), Paul Goma (Nhà văn Rumania), Charles D. Gray (Công đoàn Hoa Kỳ AFL-CIO), Orrin G. Hatch (Thượng nghị sĩ Quốc hội Hoa Kỳ), Eugène Ionesco (Kịch tác gia, Viện sĩ Hàn lâm viện  Pháp), Lane Kirkland (Chủ tịch Công đoàn Hoa Kỳ AFL-CIO), Stephen Nedzynski (Công đoàn Ba Lan), Douglas Pike (Giáo sư Đại học Berkeley), Leonid Pliouchtch (Nhà toán học, Ly khai Ukraine), Chris Smith (Dân biểu Quốc hội Hoa Kỳ) Jean-François Revel (Triết gia Pháp)

 

 

 

(c̣n tiếp 2 kỳ nữa)

(kỳ tới: Ủy Ban Bảo Vệ Quyền Làm Người,  Con Tàu Đảo Ánh Sáng,  tờ Quê Mẹ, nhà thơ Thi Vũ, kinh nghiệm viết tiếng Việt lúc xa xứ lâu ngày, các câu hỏi về những vấn đề và kinh nghiệm của trí thức lưu vong trí thức hải ngoại,  các câu hỏi về trí thức Tả Việt Kiều Yêu Nước thời 1960 như nhóm Nguyễn Ngọc Giao ở Pháp...)  

 

đọc thêm về Thi Vũ Vơ Văn Ái  tại 2 địa chỉ:

http://www.gio-o.com/ThiVu.html

http://www.queme.net

 

© gio-o.com 2009