NGU YÊN
Kư Hiệu Giải Tích
tùy luận
kỳ 3
Lời Giới Thiệu: Bài Ư Thức Về Kư Hiệu Học gồm có 10 phần. Sẽ đăng liên tiếp để độc giả tiện theo dơi. Bài này trích từ sách: Xa Lộ 21: Tư Tưởng Văn Học Dẫn Vào Thế Kỷ do nhà thơ Ngu Yên giới thiệu, nhận định và áp dụng những lư thuyết mới về văn chương và ngôn ngữ từ giữa thế kỷ 20 sang thế kỷ 21.
Phần 3. Kư Hiệu Giải Tích
Khi chúng ta nói hoặc viết từ ngữ:"Cái nồi", lập tức người nghe, người đọc đều hiểu ngay cái nồi là cái ǵ. Ư nghĩa đối tượng xác định ngay lập tức kư hiệu "nồi". Nếu cái nồi nằm trong một văn bản, cái nồi không c̣n đơn thuần là cái nồi. Nó có thể là cái ǵ khác. Kư Hiệu Giải Tích chuyên về t́m hiểu những đơn vị kư hiệu trong toàn thể kư hiệu. Bây giờ, cái nồi bước vào trong câu: Cái nồi ngồi trên cái cốc. Lạ lẫm, cái nồi trở thành cái phin pha cà phê. "Cái nồi ngồi trên cái cốc" là một biểu tượng. H́nh ảnh và ư nghĩa của cái nồi và cái cốc được gắn chồng lên nhau. Phương pháp diễn đạt rất tượng h́nh. Nh́n về mặt văn chương, có sáng tạo và nhạy cảm sinh thú vị. Nhưng 'cái ám chỉ' lại cho thấy sự thiếu văn minh. Điều này không phải lạ lùng trong văn học. Có rất nhiều tác phẩm, nhất là thơ, rất sáng tạo nhưng thiếu cập nhật. Ví dụ này cho thấy sự lợi hại của ngôn ngữ qua trăm lối thông đạt.
Trong lư thuyết của Fedinant de Saussure, người sinh thành Kư Hiệu Giải Tích, Semiology, có mục tiêu nghiên cứu mọi hệ thống của kư hiệu về thực chất và giới hạn bao gồm h́nh ảnh, cử chỉ, âm nhạc, vật thể, và những giao tiếp phức tạp trong h́nh thức nghi lễ, cộng đồng, giải trí quần chúng. Không nhất thiết phải có ngôn ngữ đính kèm như ca khúc hoặc phim ảnh, miễn là có tín hiệu diễn đạt. Nhưng căn bản và khởi đầu Kư Hiệu Giải Tích nghiên cứu sâu đậm về sự tạo thành, sáng tạo và tái tạo ư nghĩa của diễn tŕnh kư hiệu trong thông tri hoặc thông tin liên lạc, trao đổi giữa xă hội loài người. Trong tác phẩm "Semiotics for Beginners", Daniel Chandler giới thiệu Kư Hiệu Giải Tích:
" Có thể thai nghén một khoa học nghiên cứu về kư hiệu như một thành phần của đời sống xă hội. Nó sẽ trở thành một phần trong khoa Tâm Lư Xă Hội Học, do đó thuộc về tâm lư đại chúng. Chúng ta nên gọi Semiology (Kư Hiệu Giải Tích), từ ngữ đến từ gốc Hy Lạp, Semeion. Mục tiêu truy lùng, t́m hiểu bản chất của kư hiệu và những qui luật điều khiển chúng. V́ Semiology chưa được thành lập, không thể nói chắc chắn sẽ được thành lập. Nhưng nó có quyền hiện diện trong một tương lai nào đó. Ngôn ngữ học chỉ là một ngành của khoa học tổng quát. Những qui luật do Kư Hiệu Giải Tích khám phá sẽ được áp dụng vào ngôn ngữ học. Nhờ vậy, ngôn ngữ học sẽ đạt tới một vị trí xác định rơ rệt hơn trong kho kiến thức của nhân loại."
( Semiotics for Beginners. Daniel Chandler.)
Roy Harris (1931-2015), giáo sư ngữ học dạy tại đại học Oxford và các đại học ở Hồng Kông, Ba Lê, Nam Phi, Úc Châu và Ấn Độ; cùng một lúc là nhà tư tưởng lư thuyết về ngôn ngữ và thông đạt, lư thuyết riêng của ông được gọi là Tích Hợp Học (Integrationism); nhận định về Semiology của Ferdinand de Saussure:
"Ngôn ngữ không c̣n xem như nằm ngoài tầm tay với của thế giới mà chúng ta đang sống, ngược lại, nó đang ngự trị nơi trung tâm. Lời nói không c̣n là những kư hiệu âm thanh đơn thuần hoặc những từ ngữ bổ túc phụ thuộc chồng chất theo một trật tự đă định sẵn do sự vật đưa ra. Ngôn ngữ là sản phẩm của xă hội tương tác, là dụng cụ cần thiết do con người tạo nên để phát âm về đời sống của họ. Tiêu biểu, trong thế kỷ 20, ngôn ngữ đă ảnh hưởng sâu đậm sự phát triển suốt toàn bộ các khoa học nhân văn. Đặc biệt, biểu hiện trong Ngôn Ngữ Học, Triết Học, Tâm Lư Học, Xă Hội Học và Nhân Chủng Học.." (6)
Những ư tưởng chính trong Semiology của Saussure:
· Ngôn Ngữ và Lời Nói.
Một quan niệm đáng quan tâm trong lư thuyết của Saussure là sự phân biệt giữa ngôn ngữ và lời nói. Theo ông, lời nói chỉ bao hàm một phần riêng rẻ của ngôn ngữ như sự phát âm, sự áp dụng những qui tắc và những tổ hợp liên tục của kư hiệu; trong khi, ngôn ngữ là một hệ thống kư hiệu truyền thông cần thiết. Những yếu tố trong đó như ngữ vựng, ngữ pháp... có khả năng liên kết, thành lập ra những mối liên hệ khác, có nhiệm vụ thông đạt qua cú pháp và xây dựng ngữ văn. Đây là một hệ thống hoàn chỉnh, độc lập, có thể nghiên cứu riêng biệt ở bất cứ thời điểm nào dọc theo lịch sử nhân loại.
Ngôn ngữ sau khi thành h́nh đă thuộc về xă hội và đời sống. Một cá nhân không thể tự ḿnh sáng chế hoặc sửa đổi ngôn ngữ. Mỗi cá nhân bị bắt buộc hoặc tự nguyện chấp nhận ngôn ngữ để truyền đạt và được truyền đạt trong xă hội.
Lời nói khác biệt ngôn ngữ từ định chế cho tới hệ thống. Nói, thực chất, là một hành động thuộc về chọn lựa và thi hành để diễn tả ư nghĩ cá nhân.
Tuy nhiên cả hai liên hệ với nhau chặt chẽ: Không có ngôn ngữ nào mà không có lời nói; không có lời nói nào ra ngoài ngôn ngữ. Trong liên hệ thành lập cũng có điều cần lưu ư: Ngôn ngữ được tạo sinh từ lời nói. Nhưng đối với người, họ không thể nói nếu không học tập ngôn ngữ. Sự khác biệt giữa ngôn ngữ và lời nói là sự khác biệt giữa "hệ thống" và " thói quen sử dụng"; "cấu trúc" và "khả năng xảy ra"; "mă hiệu" và "thông báo".
Sau cùng, đối với một người, ngôn ngữ là vốn liếng từ vựng của một người có và sự hiểu biết giới hạn của một người về cách sử dụng từ vựng. Hai điều kiện này liên quan đến trí nhớ và kinh nghiệm cá nhân cũng như khả năng và ḷng yêu thích sự hiểu biết. Đó cũng là một trong vài lư do, tại sao cùng một ngôn ngữ, cùng chữ viết mà có khi đọc hiểu, có khi đọc không hiểu.
· 'Biểu Hiện' và 'Được Biểu Hiện'.
Saussure cho rằng một kư hiệu được thành lập bởi hai thành phần:
'Cái biểu hiện'(signifier) có thể là văn bản, chữ nghĩa, h́nh ảnh, âm thanh. 'Cái được biểu hiện' (signified) là ư nghĩa của cái biểu hiện. Khi hai thành phần tương quan với nhau, đưa đến sự diễn đạt. Ví dụ, từ ngữ "Đi" là 'kư hiệu biểu hiện', có ư nghĩa hai chân bước, là 'cái được biểu hiện'. Sự liên quan giữa 'biểu hiện' và 'được biểu hiện' tùy thuộc cách sử dụng ngôn ngữ khác nhau, cho dù cùng chung một đối tượng.
Mô h́nh kư hiệu của Sauusure:
Kư hiệu = Biểu-hiện + Được-biểu-hiện.
'Biểu-hiện' (signifier), nh́n thấy cụ thể. Mang theo ư nghĩa.
'Được-biểu-hiện'
(signfied)i, ư nghĩa vô h́nh, được chấp nhận
bởi cùng giống dân, sử dụng chung ngôn ngữ.
Hai mũi tên hai bên tiêu biểu cho sự liên quan hổ tương giữa signifier và signified. Ví dụ về mô h́nh kư hiệu:
Nước mắt chảy là 'cái biểu hiện'
'Cái được biểu hiện' là nỗi sầu khổ hoặc sự đau đớn.
Louis Hjelmslev (1899-1965) dùng hai từ ngữ khác: 'Diễn cảm' (expression) và 'nội dung' (content) thay thế cho 'cái biểu hiện' và 'cái được biểu hiện'. Không nên lầm lẫn sự tương đồng giữa h́nh thức và nội dung kư hiệu như thuyết Nhị Nguyên (Dualism).
Cũng nên xác định về kư hiệu âm thanh. Saussure cho rằng, một kư hiệu ngôn ngữ không phải do sự liên kết giữa một cái ǵ với tên đặt cho nó. Kư hiệu ngôn ngữ là do tương quan giữa nhận thức và mô h́nh âm thanh. Mô h́nh âm thanh không phải là âm thanh cụ thể, âm thanh thật sự. Mô h́nh âm thanh là ấn tượng tâm lư của người nghe từ một âm thanh; nói một cách khác, lời nói "cái bàn" vang lên, không có ư nghĩa ǵ, cho đến khi âm thanh ấy tạo nên h́nh ảnh cảm nhận riêng biệt trong tâm trí một người. Sự cảm nhận âm thanh này tương quan với ư nghĩa (một mặt phẳng có bốn chân dùng để đồ vật lên trên), tạo ra kư hiệu cái bàn.
Saussure giám định chữ viết như một hệ thống kư hiệu thứ hai liên quan với hệ thống kư hiệu ngôn ngữ như 'cái biểu hiện' liên quan đến 'cái được biểu hiện'. Ví dụ, khi viết xuống chữ "Nữ", 'cái biểu hiện', âm thanh và h́nh ảnh chữ nữ từ hệ thống kư hiệu ngôn ngữ là 'cái được biểu hiện'. Jaques Derrida đă từng nói rằng, đối với Saussure, chữ viết là kư hiệu của kư hiệu.
· Saussure khẳng định, kư hiệu không có giá trị nếu nó không liên kết với các kư hiệu khác. Khi những kư hiệu liên kết với nhau tạo thành một tập hợp hoặc thành một câu, Sauusure tŕnh bày trong mô h́nh kư hiệu hàng ngang:
Mặt phẳng A là kư hiệu đại diện, tức là 'cái biểu hiện'. mặt phẳng B là ư nghĩa của kư hiệu, tức là 'cái được biểu hiện'. Những đường thẳng cắt qua hai mặt phẳng là sự tương quan giữa A và B, tức là những kư hiệu đang nối kết với nhau.
Ví dụ một câu thơ gồm có 6 chữ. Sẽ có 6 đường thẳng kế tiếp nhau theo hàng ngang. Mỗi chữ sẽ là 'cái biểu hiện' (A) và 'cái được biểu hiện' (B), hợp lại theo đường thẳng, thành kư hiệu, tức là chữ. Và 6 chữ, 6 đường thẳng, tạo thành câu thơ.
" Yêu nhau cởi áo cho nhau ": Sáu kư hiệu chữ hàng ngang, xét theo hàng dọc, đều mang ư nghĩa rơ ràng đến người đọc. Riêng hai kư hiệu "cởi áo", ám chỉ chuyện trao thân. Do đó, khi sáu kư hiệu liên kết thành câu, có nghĩa: Yêu nhau trao thân cho nhau.
Trong diễn tiến của kư hiệu ngôn ngữ, nhà học thuyết Fredric Jameson nhận định về hệ thống kư hiệu của Saussure:
" Không nhất thiết chữ này hoặc câu này 'đại diện' hoặc 'phản ảnh' một đối tượng trong thực tế, nhưng đúng hơn là do cả hệ thống kư hiệu, cả lănh vực ngôn ngữ, nằm song song với thực tại; nghĩa là toàn thể hệ thống ngôn ngữ...[...].."(Jameson 1972,32-3)
Ngoài ra, Saussure nhấn mạnh đến vai tṛ đối nghịch, tương phản của kư hiệu và cách sử dụng hổ tương làm cho ư nghĩa rơ ràng hơn. Ví dụ: ngày/đêm; yêu/ghét; đứng/nằm; no/đói....
Sở dĩ chúng ta biết được ngày là nhờ đêm hay ngược lại. Chúng ta biết được màu đen là nhờ so sánh với màu trắng và từ đó suy diễn ra mà xám lợt, xám đậm.
Sự khác biệt giữa các kư hiệu làm cho ư nghĩa được xác định, trong khi sự tương phản của kư hiệu làm cho ư nghĩa rơ ràng hơn.
Ví dụ:
"Nắng mưa là bệnh của trời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.."
( Tương Tư, Nguyễn Bính.)
" Dấu chàng theo lớp mây đưa,
Thiếp nh́n rặng núi ngẩn ngơ nỗi nhà.."
(Chinh Phụ Ngâm. Đặng Trần Côn-Đoàn Thị Điểm)
· Diễn Pháp và Hệ Thống.
Saussure đưa ra quan niệm hai trục tương quan của ngôn ngữ trong tâm trí con người. Trục ngang, dành cho những kư hiệu liên kết hàng ngang. Trục dọc, dành cho những nhóm mẫu mà kư hiệu ở trục ngang tùy thuộc vào.
Trục thứ nhất gọi là Diễn Pháp, Symtagm, bao gồm các kư hiệu trong một không gian nào đó. Những đơn vị kư hiệu hoặc từ ngữ liên kết, liên quan với nhau theo chuỗi hàng ngang hoặc theo tập hợp bởi những qui tắc, qui luật đă được thỏa thuận, để phơi bày toàn bộ ư nghĩa. Những diễn pháp là những phát biểu do những đơn vị kư hiệu được chọn lựa kết hợp tạo thành hệ thống.
'Diễn Pháp Tập Hợp' như bảng hiệu đi đường hoặc một bài thơ theo lối Cụ Thể:
![]() |
'Diễn Pháp Hàng Ngang' như những chữ kết hợp trong câu viết.
Trục thứ hai, Saussure gọi là trục "liên Hợp", Associations, mang tính hệ thống. Về sau các học giả khác cùng gọi là trục H́nh Mẫu, Pradigm. Bao gồm những nhóm cùng h́nh thể, cùng ư nghĩa, hoặc cùng âm đọc, được quần chúng công nhận. Ví dụ, cùng ư nghĩa như: Học vấn, học tập, dạy học...; cùng h́nh thể như: bảng tṛn, bảng vuông...
H́nh Mẫu là những nhóm mẫu của kư hiệu hoặc từ ngữ, tập hợp theo chiều dọc. Ví dụ:
Cá, tôm, mực ... thuộc về mẫu hải sản.
Hỉ, nộ, ái, ố, bi, ai...thuộc mẫu tâm t́nh.
Hoa kỳ, Nga, Nam Phi..thuộc mẫu quốc gia.
Trục Diễn Pháp (ngữ pháp) chủ yếu trong việc phân tích kư hiệu diễn đạt. Sắp xếp các kư hiệu hàng ngang vào các nhóm mẫu ở hàng dọc, để phân loại, khoanh vùng, t́m hiểu mối liên quan và ư nghĩa của từng kư hiệu. Vi dụ về thực phẩm:
§ Hệ thống: những nhóm đồ ăn khác nhau để chọn lựa. Mỗi đĩa đều mang ư nghĩa như món khai vị, món chính, món tráng miệng và giá trị ngon / dở khác nhau.
§ Syntagm: sự sắp đặt thứ tự, gọi là thực đơn.
Tŕnh bày theo thực đơn:
Món Khai Vị: Súp măng cua
Xà lách vịt
Món chính: Ḅ Bíp-têt
Cá sốt cà
Thỏ nấu rượu
Món tráng miệng: Bánh Ga tô
Kem ba màu
Dùng mô h́nh hai trục của Saussure:
Nói một cách khác, món súp, món sà lách từ trục hệ thống t́m lên trục h́nh mẫu, sẽ thấy thuộc về nhóm khai vị. Trong khi món ḅ, món cá, món thỏ thuộc về nhóm món chính và bánh, kem thuộc nhóm tráng miệng.
Ví dụ khác:
" Đại trượng phu không hay xé gan bẻ cật phù cương thường "
( Hồ Trường. Nguyễn Bá Trạc.)
Từ trục hàng ngang (ngữ pháp) t́m lên trục hàng dọc (mẫu chung):
Đại trượng phu: Mẫu người chí khí.
Không hay: Mẫu lời ta thán.
Xé gan bẻ cật: Mẫu hành động anh hùng.
Phù cương thường: Mẫu chí kẻ sĩ.
Nếu đă t́m ra mẫu, th́ không thể lầm lẫn từ "cật" là cật cây tre như nhiều người đă bàn luận. V́ cật tre không thuộc về nhóm hành động.
· Saussure định nghĩa Ngôn ngữ học có mục tiêu nghiên cứu, t́m hiểu ngôn ngữ hiện tại và ngôn ngữ trong lịch sử. Đi vào những lănh vực: Âm vị học, Ngữ âm học, H́nh thái học, Cú pháp học, Ngữ nghĩa học, Thực liệu học, và sự thu nhận ngôn ngữ.
Ngôn ngữ là hệ thống chính thức để trao đổi, giao tiếp, truyền đạt, thông tin. Cấu trúc của hệ thống này phức tạp và khác biệt do nó phản ảnh tư tưởng của mỗi người, mỗi dân tộc, mỗi thời đại. Không có đơn vị ngôn ngữ nào, âm thanh hoặc từ ngữ, tự nó có ư nghĩa. Mỗi đơn vị ngôn ngữ đưa ra ư nghĩa khi nó kết hợp với các đơn vị khác. Giá trị của một từ ngữ chỉ có thể thể hiện và gần như đặc thù khi nó tương quan với những từ ngữ khác trong những qui luật diễn đạt.
Chính v́ vai tṛ ngôn ngữ quá quan trọng với Kư Hiệu Giải Tích, nên bộ môn này không thể độc lập. Đó cũng là một yếu điểm sẽ bị chỉ trích trong tương lai.
Một trong những vấn đề sâu sắc mà các nhà ngữ học, kể cả Saussure phải đối phó là sự thay đổi ư nghĩa của nội dung từ ngữ qua thời gian, qua thời đại, tùy thuộc mỗi xă hội và dụng ư của mỗi cá nhân sử dụng.
Mỗi từ ngữ, nhất là từ ngữ trừu tượng, thường có một số nghĩa đính kèm: nghĩa đen, nghĩa bóng, nghĩa rộng, nghĩa ám chỉ... Trong quan điểm này, từ ngữ dùng trong triết học, nhất là trong thơ, thường có nghĩa bất thường, khác thường hơn nghĩa chính thức. Do đó, phân tích và dịch thơ thường vấp nhiều vấn nạn.
Ví dụ, một câu khó hiểu trong ca khúc Diễm Xưa của Trịnh Công Sơn:
" Dài tay em mấy thuở mắt xanh xao."
Để phân tích câu này, người đọc nên chia thành hai vế: Dài tay em mấy và thuở mắt xanh xao.
Thuở mắt xanh xao thuộc mẫu thời gian.
Tay em thuộc mẫu tứ chi.
Mấy thuộc mẫu lời hỏi
Dài thuộc mẫu kích thước
Câu này giải thành nghĩa: " Tay em dài bao nhiêu / thuở mắt xanh xao."
Đưa vào mô h́nh 'Biểu hiện' và 'Được biểu hiện', cả hai vế từ đều là biểu tượng.
Kư hiệu " Thuở mắt xanh xao" có đối tượng là trong một khoảng thời gian nào đó, ánh mắt mệt mỏi, nhợt nhạt. Ám chỉ, một thời buồn bă, thất vọng của người thiếu nữ.
Kư hiệu " Tay em dài bao nhiêu" có đối tượng ta thán về chiều dài của cánh tay. Ám chỉ cảm giác ngậm ngùi, em đă đối phó, đă hiểu đời được bao nhiêu, có biết t́nh là cái chi.
Nghĩa sau cùng của câu hát này: " Em vẫn c̣n ngây thơ trong thời buồn bă ấy."
Sự tương quan, liên kết của từ ngữ với những từ ngữ khác trong một câu, một đoạn, rất quan trọng đối với ngôn ngữ thơ. V́ thơ không cần theo thứ tự hoặc qui luật văn phạm, pháp ngữ như văn xuôi. Ngôn ngữ thơ có sự liên quan ngầm, liên quan đứt đoạn, liên quan cách khoảng với các từ ngữ cùng nó tạo nên ư nghĩa nhưng không nhất thiết phải nằm cạnh nhau hoặc theo một hệ thống ngữ pháp đă hoàn chỉnh. Đó là một trong vài lư do khiến cho thơ khó hiểu, khó giải thích, khó phân tích và khó sáng tác. Ví dụ:
Tôi mở cửa bước vào
người con gái tóc đen biến
mất
vào lúc cuối các anh sẽ thấy
cô ta quay trở lại
chỉ để lăng mạ tôi
cô ta là bí mật tỉnh lẻ
c̣n tôi biết đọc tiếng
Latin.
...[...]...
( Người Con Gái Tóc Đen Và Tôi. Phan Nhiên hạo.)
Những câu thơ đứt đoạn, khiến cho bài thơ khó hiểu. Vai tṛ của người đọc là liên kết những ngữ cảnh đang có với những tứ cảnh không có trong bài thơ, để có thể hiểu ư tác giả và cảm nhận toàn bài. Người ta hay biện luận rằng, không cần phải hiểu, cảm nhận là đủ rồi. Xin hỏi, cảm nhận được bao nhiêu khi không hiểu? Có phải nếu hiểu rơ, sẽ cảm nhận sâu và rộng hơn không?
Kư Hiệu Học có thể từ những chữ, những câu thơ là kư hiệu, t́m đến ư nghĩa của các kư hiệu (từ ngữ, câu cú) rồi nắm bắt những ǵ nhà thơ ám chỉ. Hai câu thơ "cô ta là bí mật tỉnh lẻ / c̣n tôi biết đọc tiếng Latin " cho thấy cô gái này là loại người nào, giống dân ǵ,và tâm trạng lan man của chàng trai thích gái đẹp... Câu " vào lúc cuối các anh sẽ thấy cô ta quay trở lại / chỉ để lăng mạ tôi..", khiến cho người đọc đợi chờ, nôn nóng, xem thử cô ta chửi mắng ra sao. Rồi chỉ thấy tác giả lập lại, không giải thích ǵ. Người đọc lại tiếp tục suy nghĩ. Bài thơ hay ở chỗ đă mang cô gái bí mật tỉnh lẻ này theo trí nhớ người đọc. Để thỉnh thoảng phân vân... .
Một điểm nhấn khác về ngôn ngữ thơ, đó là sự xuất hiện 'bất ngờ', 'đắc địa' và 'sáng' trong diễn tŕnh làm thơ. Khi một từ ngữ, một cụm từ hoặc một câu thơ xuất hiện với ba yếu tố trên, sẽ trở thành độc đáo, đặc thù và huyền diệu.
Không phải chỉ riêng thơ, bản tính 'tùy tiện' và 'tự trị' của ngôn ngữ, cũng sẽ xuất hiện trong văn xuôi và trong lời nói hàng ngày. Những câu nói đó thường trở thành trích ngôn hoặc danh ngôn. Tuy nhiên, sự 'tùy tiện' và 'tự trị' của ngôn ngữ có giới hạn trong hai qui tắc: hợp lư và được công nhận. Ví dụ: Anh ấy mặc áo cụt tay. Nếu viết rằng: Anh ấy mặc áo, cụt tay, sẽ không hợp lư với ư muốn diễn tả lúc ban đầu.
Dù có sự khác biệt nhưng Kư Hiệu Học và Kư Hiệu Giải Tích chung đụng tương đắc. Những qui luật Kư Hiệu Giải Tích t́m ra, được ứng dụng và Kư Hiệu Học. Cả hai đều có nhiều quan điểm chung, nhất là về phần văn bản và kư hiệu.
(C̣n tiếp)
-------------------
GHI:
(6) Roy Harris 1988. language, Saussure and Wittgenstein. Routledge. Pix. (Trích Wikipedia / Ferdinand de Saussure.)
(7) Người Con Gái Tóc Đen Và Tôi
Tôi mở cửa bước vào
người con gái tóc đen biến mất
vào lúc cuối các anh sẽ thấy cô ta quay trở lại
chỉ để lăng mạ tôi
cô ta là bí mật tỉnh lẻ
c̣n tôi biết đọc tiếng Latin.
Hai
tay khâu vào túi quần tôi không rút ra được để
vẫy
chào một thiên thần đi ngang
giống như một con bướm khổng lồ
với cơ phận sinh dục được phóng
đại
nàng bay thật dịu dàng
đuổi theo nàng là một chiếc phi cơ
giống như một con bướm khác bằng sắt
không có lông và rất ồn ào.
Tôi
nhận ra giữa Đông và Tây có một người đi
xe đạp
đó là người con gái tóc đen chạy đuổi
theo mặt trời
rồi các anh sẽ thấy cô ta quay trở lại
chỉ để lăng mạ tôi
cô ta là bí mật tỉnh lẻ
c̣n tôi biết đọc tiếng Latin
Nhưng tôi tin chắc đó phải là một ngày nhật thực.
Thơ: Phan Nhiên Hạo.
Tài Liệu Tham Khảo Chung:
Ahmadpour, Kamran. Developing a Framework for Understanding Information Literacy in the 21st Century: A Review of Literature. 2014. http://faculty.uoit.ca/kay/files/capstones/Ahmadpour_%202014_FrameworkInformationLiteracy_Final.pdf
Barthes, Roland. Elements of Semiology. Translated by Annette Lavers and Colin Smith. Hill and Wang, A division of Farrar, Straus and Giroux, New York, 1977.
Chandler, Daniel. The Basics Semiotics. Second Edition. Routledge, London and New York, 2002.
Chandler, Daniel. Semiotics for Beginners, http://visual-memory.co.uk/daniel/Documents/S4B/
Culler, Jonathan. Theory and Criticism after Structuralism. Cornell University Press, Ithaca, New York, 1982.
Eco, Umberto. Interpretation and Over-interpretation: World, History, Texts. Lecture at Clare Hall, Cambridge University, March 7-8, 1990.
Eco, Umberto. A Theory of Semiotics. Indiana University Press, Bloomington, 1976.
Eco, Umberto. Semiotics and the Philosophy of Language. Indiana University Press, Bloomington, 1986.
Eco, Umbert. The Scandal of Metaphor: Metaphorology and Semiotics. Source: Poetics Today, Vol. 4. No. 2, Metaphor, 1983, pp. 217-257. Duke University Press
Ellis, John M. Against Deconstruction. Princeton University Press, Princeton , New Jersey,1989.
Hermawan, Andri. A Semiotic Analysis on Kim Addonizio's Poems Based on C.S. Peirce's Theory. 2010.
Hoopes, James. Peirce on Signs. The University of North Carolina Press, 1991.
Juan, Jr. E. San. In Lieu of Saussure: A prologue to Charles Sanders Peirce's Theory of Signs. http://clogic.eserver.org/2012/SanJuan.pdf.
Langendoen, D. Terence. Review: Linguistics at the Begining of the 21st Century. Reviewed work(s): The Handbook of Linguistics by Mark Aronoff: Janie Rees- Miller. Source: Journal of Linguistics, Vol. 38. Nov. 3 (nov., 2002) pp. 627-643. Cambridge University Press.
Leitch, Vincent B. Literary Criticism in the 21st Century. Bloomsbury, NewYork, USA, 2014.
Marmaridou, Sophia and Kiki Nikiforidou and Eleni Antonopoulou. Trends in Linguidtics. Reviewing Linguistic Thought. Converging trends for the 21st Century. Mouton de Gruyter, Division of Walter de Gruyter GmbH & Co. KG, Berlin. 2005
Peirce, Charles Sanders. Writings on Semiotic, First Edidition. University of North Carolina Press, Chapel Hill and London. 1991.
Saussure, Ferdinant and Roy Harris. Course in General Linguistics. Open Court, Chicago and La Salle, Illinois, 1998.
Scholes, Robert. An Introduction Structuralism In Literature. New Haven and London, Yale University Press, 1974.
Stanford Encyclopedia of Philosophy. Peirce's Theory of Signs. Published 2006, revised 2010.
Ngu Yên
http://www.gio-o.com/NguYen.html
© gio-o.com 2015