Quế Anh
acrylic on canvas 60x80cm
The Field (Toán gia?) 2012
Ngô Văn Tao
Immanuel Kant: Phê phán lư tính thuần túy,
(Bùi Văn Nam Sơn dịch, nghiên cứu và chú giải)
giới thiệu
Mỗi thời đại đều có những nghi vấn phải giải đáp, những thử thách phải vượt qua. Mỗi xă hội đều có “những ước mơ giáo điều” (Thái Thị Kim Lan), những nghịch lư mù quáng, ư đồ sai lệch, tư tưởng của những kẻ mạn nhận là tiếng nói của lương tri. Câu hỏi luôn luôn cập thời: Đâu là lương tri của thời đại? Thế nào là lư tính của con người hiện đại, của công dân.
“Giải cấu
và phản tỉnh” - như Jacques Derrida (1930-2004), triết
gia cuối thế kỷ thứ 20 đă nhấn mạnh-
là những điều triết gia, thi nhân, nghệ sĩ phải
làm để thấy ra hư vô nằm giữa hai hàng chữ
viết, thực thể đằng sau những mặt nạ
và như thế mới thật là đảm nhận trách
nhiệm của ḿnh đối với xă hội, đối
với cuộc đời. Tôi nghĩ chính trong dư duy
đó học giả Bùi Văn Nam Sơn (BVNS) đă tận
tụy dịch ra tiếng Việt tác phẩm của I. Kant
“Phê phán lư tính thuần tuư” (Kritik der reinen Vernunft), và cốt
yếu là nghiên cứu, chú giải dẫn nhập vào vấn
đề “phê phán lư tính” của Kant hơn hai thế kỷ
trước, như là sứ mệnh phải làm. Thật vậy,
đọc BVNS, hay đúng hơn đọc Kant trong ngôn ngữ
Việt, dưới cái nh́n cặn kẽ tổng quát của
BVNS, chúng ta cũng sẽ biết tự đặt những
câu hỏi “Tôi có thể biết ǵ? Tôi có thể làm gi? Tôi
có thể hy vọng ǵ?” (I.Kant)
ba câu hỏi, bao nhiêu là cấp bách trong giai đoạn lịch
sử giao thời này.
Đă từ lâu, chúng ta chỉ muốn vọng về thuở
sống động, dồn dập trào lưu văn học:
Thơ Mới, Tự Lực Văn Đoàn, Nguyễn Tuân,
Nam Cao… Đă từ lâu chúng ta như bị đẩy
ch́m vào một thế giới mà ở đó không có lời
văn và ngôn ngữ. Những nhà thơ, những nhà văn
phải cảm thấy cô đơn, tuyệt vọng rằng
ngôn ngữ của chính ḿnh và của những người
xung quanh như đă khô cạn, không có âm hưởng, không
có ngơ triển khai. Ngôn ngữ là “Sống”, cảm
năng và giác tính tương quan trong vũ trụ xoay vần
đối tượng và chủ thể. Trong một xă hội
giả tạo, tư tưởng lần theo một
đường rày, ngôn ngữ như mất hết sinh lực,
thoi thóp chỉ nói lên được nỗi buồn luẩn
quẩn của nội tâm, đời sống tỉnh lẻ
xă hội rập khuân.
Công tŕnh của
BVNS, nghiên cứu và dịch thuật, thật là tiếng
chuông đánh thức chúng ta ra khỏi tiêu cực bi quan. Cái
phần tối ưu của dịch thuật là ngôn ngữ,
th́ tác phẩm của BVNS trước hết là những lời,
những chữ thận trọng cân nhắc phản ảnh
sự chân thành nghiêm túc đối với những nguồn
tư tưởng đa dạng của con người. Chữ
nghĩa của I. Kant nguyên tác cổ điển, lời
văn của BVNS lưu loát hiện đại, dù dịch
thuật phải đối chiếu phong cách văn học
giáo trường, ngôn ngữ đột phá hiện sinh
nhưng vẫn tàng lưu dư âm của quá khứ, quá khứ
như thượng nguồn của ḍng suối ngôn ngữ
luôn luôn chảy dài.
“Phê phán lư tính thuần tuư” là quyển sách phải có
trong mọi thư viện. Nó là dấu mốc của
văn học Việt Nam chứng tỏ sự tiến triển
không ngừng của ngôn ngữ Việt Nam, với tiềm năng tiếp xúc những vấn đề sâu xa triết
học Đông Tây. Đọc đi đọc lại BVNS
-những lúc chỉ một hai đoạn- chúng ta sẽ cảm
nhận được sự hành văn tư tưởng.
Cốt yếu nữa là chúng ta sẽ thể hiện
được rằng vẫn tiềm tàng trong chúng ta một
nguồn sinh lực -tiếp thu từ thuở nào, đến
tự tiền thân?- luôn luôn sẵn đấy để
chúng ta suy diễn nói lên được mọi khúc chiết
của cảm năng và giác tính. Một niềm tin tràn
đầy hy vọng rằng mạch sống tư tưởng,
ngôn ngữ của chúng ta măi măi chảy mạnh, vượt
qua những chướng ngại nghịch lư, những mâu
thuẫn lịch sử tức thời.
I. Kant là giáo sư triết học sống -trong cái nh́n thế tục- một đời thật buồn tẻ và tận cùng cô đơn; nhưng chính v́ cho riêng một ư chí nhất định đi t́m rơ ra lư tính của con người và suy tưởng với lư tính đến được tận đâu cho chân lư và đạo đức của nhân loại. Ông tận tụy nghiên cứu, nghiêm túc suy tư quá nửa đời mới nghĩ rằng ông có điều để nói: “Phê phán lư tính thuần tuư “ của ông chỉ xuất bản năm 1781, khi ông đă 57 tuổi. Nhưng triết luận của ông là một cuộc cách mạng tư duy triết lư, một cuộc cách mạng Copernic ngay sau thời Khai Sáng, mà các triết gia trên thế giới đến bây giờ vẫn thấy cần phải học hỏi, t́m hiểu và b́nh luận. Hơn nữa, theo tôi được biết, những tác phẩm của ông đều là những áng văn chương Đức ngữ bất hủ, mà những văn nhân đương thời như Goethe, Schiller…công khai t́m đọc.
Tương xứng với tầm thước vĩ đại cao siêu đó, công tŕnh của BVNS dịch thuật nghiên cứu và chú giải chỉ trên một tác phẩm triết học của I. Kant đă là một văn phẩm đồ sộ hơn 1.300 trang sách, mà hầu hết các câu đều hàm ư bắt người đọc phải suy tư. Đó là sự đúc kết của hàng chục năm đèn sách. Một gương sáng của sự tận ḷng học hỏi, hy sinh nghiêm túc “t́m đến gốc rễ của triết học”( T.T. Kim Lan). Tôi không ngần ngại khẳng định rằng việc làm của BVNS là một cống hiến lớn lao vô giá cho nền văn học và triết học Việt Nam.
BVNS có viết: “Đọc Kant là một sự vất vả cần thiết, hiểu biết ít nhiều về Kant là hành trang bắt buộc phải mang theo trên mọi nẻo đường suy tưởng”. Nhưng người Việt chúng ta được đọc Kant qua công tŕnh dịch thuật và chú giải của BVNS th́ thật là “một niềm hỷ lạc trí thức” (T.T. Kim Lan). Những ư thức căn bản của triết học qua đây trở nên sáng tỏ. Những thuật ngữ chủ chốt đều được phiên dịch chính xác ra thuật ngữ Hán Việt hàm xúc và có căn cơ. Hơn nữa những lời chú giải của BVNS mở rộng ra chân trời triết học xưa và nay. Chúng ta dễ dàng hiểu rơ Siêu H́nh Học của Kant, từ bỏ những nghịch lư của Siêu H́nh Học tu viện. Ư thức rằng mọi đối tượng (mọi hiện tượng) chỉ nhận thức được một khi đă quy nạp vào những phạm trù (những khái niệm) tiên nghiệm của lư tính, qua chú giải của BVNS chúng ta cũng biết đó là mầm mống của hiện tượng luận Husserl, của hữu thể luận “thử tại” Heidegger. Công tŕnh của BVNS thật là một cơ sở mà chúng ta vẫn hằng chờ đợi, một cơ sở vững chắc để mở đầu cho nền triết học Việt Nam chính đáng của ngày mai.
.Triết học Kant, chính nó như thường biết là một kho tàng triết luận để khai thác, với bao nhiêu ư niệm (lư tính thuần tuư, lư tính thực hành, phạm trù tiên nghiệm, vật tự thân…) cần phải trở lại, trong sự đổi thay tư duy trí thức của nhân loại, để b́nh luận, triển khai hay bài bác. Trong phương diện đó, việc làm của BVNS đủ có một giá trị vô song là mở cửa cho triết học Việt Nam đi vào lănh vực vô cùng sinh động và phong phú. Lănh vực triết học Kant, lănh vực của ba câu hỏi mà tôi đă nhắc tới: ta có thể biết ǵ? ta có thể làm ǵ? ta có thể hy vọng ǵ? Ba câu hỏi cũng là những câu ngàn đời của nhân loại: Sống là ǵ? Sống làm sao cho xứng danh làm người? Triết học Kant tự nó đưa đến ư niệm Tự Do và Đạo Đức, hai ư niệm mà bây giờ hơn bao giờ hết trong lịch sử chúng ta phải suy tưởng. Theo tôi được biết, I. Kant đă triết lư suy luận sâu xa trên hai ư niệm này trong: “Kritik der praktischen Vernunft” (Phê phán lư tính thực hành), tác phẩm xuất bản năm 1788. Chúng ta thật ước mong học giả BVNS sẽ tiếp tục nỗ lực hy sinh cống hiến cho văn học Việt Nam công tŕnh dịch, nghiên cứu và chú giải tác phẩm tiếp theo này của I. Kant. Chính BVNS như đă thầm hứa hẹn, trân trọng nhắc lại những câu sau đây của Kant, trích từ “Phê phán lư tinh thực hành” ( nay đă xuất bản - 2*)
“Hai điều tràn ngập tâm tư với sự ngưỡng mộ và kính sợ luôn luôn mới mẻ và gia tăng mỗi khi nghĩ tới:
Bầu trời đầy
sao trên đầu tôi
Và quy luật đạo đức ở trong tôi”
Những câu văn Đức
ngữ, mà BVNS đă dịch lại như ở trên, đă
được khắc trên bia mộ Immanuel Kant (1724-1804), những
câu mang mang một niềm tin bất tận ở tâm linh trí
tuệ của con người.
tháng 10 . 2004
Ngô Văn Tao
Immanuel Kant: “Phê phán lư tính thuần tuư”
Bùi Văn Nam Sơn dịch và chú giải. Nhà xuất bản Văn Học – Việt Nam 2004
hơn 1300 trang. Đặc biệt có bài dẫn luận dài 30 trang của Tiến sĩ Triết học Thái Thị Kim Lan, với mục lục vấn đề và nội dung thuật ngữ dài 40 trang.
Bài b́nh luận trên của tôi đă đưa lên mạng Talawas.org năm 2004, nhưng tôi suy diễn và tŕnh bầy lại, trước những thắc mắc và trăn trở của văn học Việt Nam hiện tại và cũng như là để mở đầu cho bài “ Tản mạn trên triết lư của I.Kant”, mà tôi xin đăng tải sau.
(2*) Immanuel Kant : “Phê phán lư tính thực hành”
Bùi văn Nam Sơn dịch và chú giải, Nhà xuất bản Trí Thức- Hà Nội 2007
http://www.gio-o.com/NgoVanTao.html
© gio-o.com 2012