W. Robert Moore
National Geographic Magazine, USA
DỌC THEO CON ĐƯỜNG CÁI QUAN
CỦA ĐÔNG DƯƠNG
Năm 1931,
với 33 h́nh đen trắng và
28 ảnh chụp màu tự nhiên
Ngô Bắc dịch
Với Các Sự Minh Họa Bằng Ảnh Chụp Của Tác Giả
Lời Người Dịch:
Đây là bài viết đầu tiên về Việt Nam và Đông Dương trên tạp chí lừng danh thế giới, National Geographic Magazine, Tháng Tám năm 1931, chứa đựng các ảnh chụp rất hiếm quư, đặc biệt là các ảnh màu tự nhiên đầu tiên về Việt Nam xuất hiện trên một tạp chí bằng Anh ngữ tại Tây Phương.
Các bản đồ thường cung cấp các ư kiến thú vị.
Lấy giấy cắt h́nh, theo đường của các ranh giới Đông Dương thuộc Pháp, dán nó lên trên một nền màu trung tính [neutral color, có nghĩa không màu, như các màu đen, trắng, xám, nâu nhạt …, chú của người dịch], và bạn có một h́nh biếm họa khái quát trắc diện (mặt nh́n ngang) của một phụ nữ bộ tộc già cả tại các vùng đồi núi của Đông Dương cúi đầu lên phía đông nước Xiêm (xem trang 159 [trong nguyên bản]).
BẢN ĐỒ ĐÔNG DƯƠNG TRÔNG GIỐNG NHƯ MỘT BÀ GIÀ DÂN BỘ LẠC
(XEM VĂN BẢN, TRANG 157)
Sau khi tiến vào Căm Bốt bằng ngả Vọng Các, tác giả đă đi theo xa lộ xe hơi chính yếu tại thuộc địa của Pháp, Đường Thuộc Địa Số 1, với các chuyến du hành rẽ ngang đến các bộ lạc miền núi và đến biển.
Xứ Lào, nơi một số lượng lớn lao các dân tộc miền núi sơ khai sinh sống, tạo thành khuôn mặt của bà ta, với phần cổ nhăn nhúm, và bộ ngực lép; tuy nhiên, cái mũi của bà ta, bởi phép giải phẫu co dăn của hiệp ước ranh giơi, là một đặc điểm phi-Mông Cổ của bà và thọc sâu vào nước Xiêm La. Xứ Bắc Kỳ tạo thành một chiếc mũ cao, chóp nhọn, được trang trí với các chùm lông thú, chuỗi hạt, và các đồ trang sức khác theo đúng kiểu cách mũ đội đầu của các phụ nữ bộ lạc Kaw [? thổ dân da đỏ tại tiểu bang Oklahoma, Hoa Kỳ, chú của ngựi dịch]. Duyển hải An Nam (Trung Kỳ) cấu thành phía sau của cổ và uốn vào trong, trong khi xứ Căm Bốt và Nam Kỳ tạo thành các bộ phận của thân thể co ḿnh lại khi bà ta ngồi với hai đầu gối chỉa thẳng lên trời, giống như các người dân bản xứ tại Viễn Đông rất ưa ngồi như thế.
Nhưng con đường xe ô tô dài mà các người vẽ bản đồ đă phác họa xuyên qua thân xác của người phụ nữ bản đồ của chúng ta và đă nối dài cột xương sống của bà ta đến chóp chiếc mũ cao của bà cùng gợi ư về một hành tŕnh bằng xe gắn động cơ khả dĩ – một thách thức mà bởi sự lưu tâm khác nhau không thể bị gạt bỏ một cách dễ dàng.
Bởi vào hoảng 1,600 dặm Anh Đường Thuộc Địa Số 1 luồn lách qua các khu rừng rậm rập, vô số các đồng bằng trồng lúa rộng mở, lên xuống các đồi núi dọc theo bờ biển đẹp như tranh vẽ, từ vùng biên cương với Xiêm La cho tới Cửa Ải Trung Hoa.
Mặc dù con đường này mới được xây dựng tương đối gần đây theo chương tŕnh thuộc địa Pháp, phần lớn chỉ là mở rộng và tu bổ Con Đường Cái Quan cũ. Từng bước trên con đường này là quyền lực và văn hóa của các hoàng đế Trung Hoa, trở nên tập trung hóa tại Triều Đ́nh Đế Quốc An Nam ở Huế. Dọc con đường này cũng có các ngọn tháp hoang phế của người Chàm cổ xưa, và trên một khúc rẽ ngắn từ đoạn cuối phía dưới của nó mọc lên các đền đài bằng đá chạm khắc nguy nga của khu Angkor, được xây dựng bởi người Khmers giữa các thế kỷ thứ 9 và 13.*
Các nền văn minh Chàm và Khmer đă bị sụp đổ từ lâu, và trong nửa sau của thế kỷ vừa qua [thứ 19, chú của người dịch], người Măn Châu đă buộc phải từ bỏ bất kỳ sự tuyên xác nào rằng họ có thể có quyền chủ tể trên ngôi vua An Nam khi người Pháp thiết lập các chế độ bảo hộ tại vài xứ.
Nhưng những điều của đời sống hàng ngày, dọc theo con đường xa lộ này, vương văi khắp nơi với các kư ức lịch sử là ǵ?
Tôi đă đi đến nơi để nh́n ngắm.
Y PHỤC VÀ KIỂU TÓC
CỦA ĐÀN ÔNG VÀ ĐÀN BÀ GIỐNG NHAU
Trên hành tŕnh ngoạn cảnh của chúng tôi, chúng tôi đă lên một chuyến tàu hỏa sáng sớm rời Bangkok, và vào khoảng giữa trưa, đến Aranya Prades, đầu mút đường rày tại vùng biên cương miền đông nước Xiêm La, từ đó khởi đầu chuyến du hành bằng xe gắn động cơ của chúng tôi theo suốt chiều dài Con Đường Cái Quan lên tới Cửa Ải Trung Hoa.
Băng qua biên giới, và với các thủ tục thông hành hoàn tất tại một tiền đồn nhỏ của Pháp tại Poipet, chúng tôi phóng tới làng Sisophone.
Gần Sisophone, chúng tôi gặp một nhóm người Căm Bốt vô cùng vui sướng, mặc các chiếc áo choàng màu sáng rực, các chiếc khăn quàng dài, sặc sỡ, và các sampots, loại váy buộc túm bên dưới được tạo thành từ một tấm vải dài quấn quanh thân ḿnh, với các mép vải khép lại ở giữa đôi chân và được thắt chặt ở phía sau. Các người đàn ông và đàn bà của đoàn khó có thể phân biệt được người này với người kia, bởi y phục của họ và kiểu tóc bới ngược, bồng lên trên trán, cắt sát chân tóc một cách đồng nhất, được bôi dầu dừa bóng mượt, trông quá giống nhau.
Họ vừa đang trở về từ một buổi lễ hội ở chùa, phần lớn trong họ đi bộ, nhưng một số trong họ chen chúc giữa các nhạc khí trong các chiếc kiệu không mui đặt trên ba con voi đang lê bước.
BÓNG DÁNG CỦA
SỰ VINH QUANG ĐĂ MẤT BÁM LÁY
CÁC NGỌN THÁP ĐIÊU KHẮC
CỦA ANGKOR WAT
Di tích ngôi đền Khmer vĩ đại trong một t́nh trạng bảo quản xuất sắc, bất kể sự kiện nó bị nhận ch́m bởi rừng rậm trong nhiều thế kỷ. Một mô h́nh thu nhỏ gây nhiều ấn tựợng phần kiến trúc chính yếu của khu đền Angkor Wat đă được tạo dựng cho Cuộc Triển Lăm Thuộc Địa Quốc Tế tại Paris.
Ở những nơi khác tại Căm Bốt, chúng tôi sẽ nh́n thấy người dân mang các tượng Phật mới đúc đến các ngôi chùa trong các buổi diễn hành mừng Năm Mới rực rỡ (xem Bảng Chụp Màu II); và khi một thanh niên tập tu thành tu sĩ hay một dân làng sắp được thiêu xác, việc này tạo ra một màn tŕnh diễn nhiều màu sắc của các chiếc lọng và quần áo.
Người Căm Bốt ngày nay, giống như các thân nhân cổ thời của họ, các người Khmer, các kẻ mà người ta nh́n thấy được khắc họa trong các tượng phù điêu của các phế tích Angkor, ưa thích các lễ hội và các đám rước lộng lẫy của họ và mê gơ nhịp suốt đêm trên các chiếc cồng (chiêng) và các cái trống phát ra âm thanh từ cuống họng.
Tại Sisophone, chúng tôi rẽ khỏi Con Đường Thuộc Địa Số 1 bằng phẳng và đi vào con lộ trực tiếp dẫn đến Angkor. Độ dốc cho một con lộ rải đá được nâng cao lên xuyên khắp các đồng bằng, nhưng các chiếc xe hơi vẫn c̣n phải đánh liều đi theo con đường khúc khuỷu băng ngang các cánh đồng lúa, tung xóc bên trên các mô đất và bị sa lầy vào các hố bùn.
Với một sự loạng choạng tối thiểu ở một vũng lầy, chúng tôi đă tới Angkor muộn màng buổi tối hôm đó. Từ thủ đô xứ Xiêm La hiện đại đến kinh đô của người Khmer cổ xưa mất một ngày – các điều kỳ diệu của sự vận chuyển bằng đường sắt và xe hơi hiện đại là như thế!
Đôi khi cũng có các máy bay chuyên chở hành khách trên các đường hàng không mở rộng giờ đây, đă cắt thời lượng này xuống c̣n ba giờ ngắn ngủi, trong khi vài năm trước đây, một hành tŕnh như thế đ̣i hỏi nhiều tuần lề gắng sức mệt mỏi nếu đi bộ hay cưỡi voi xuyên qua các khu rừng không người cư trú.
CÁI NH̀N THOÁNG QUA ĐẦU TIÊN
KHU ANGKOR
Chúng tôi lần đầu thoáng nh́n khu Đền Angkor trong vẻ quyến rũ hiếm hoi của buổi tối khi ánh sáng từ đêm trăng tṛn tràn ngập các tháp bằng đá vĩ đại vươn cao lên trên khu rừng bao quanh.
Chính năm tháp đồ sộ này đă chạm vào cái nh́n trân trân đầy sững sờ của nhà thiên nhiên học người Pháp, ông Mouhot, khi ông ta t́nh cờ bước vào miền đó khoảng sáu mươi năm trước đây và đă thực hiện sự khám phá cứu vớt khu Angkor ra khỏi một lăng tẩm của cây cỏ rừng rậm.
Đă có nhiều điều được viết về tập thể khu Angkor kể từ thời điểm đó, nhưng nó chưa hề thực sự được tŕnh bày tương xứng; điều đó th́ bất khả thi. Người ta phải đến nh́n thấy và kinh ngạc. Bất luận là dưới ánh trăng, trong ánh nắng tra khảo của ban trưa, hay vào lúc chiều tối, khi các hàng dài đoàn dơi xỏa cánh bay ra như những làn khói từ các ngọn tháp tối đen của nó, Angkor hút hồn con người với bùa mê của nó về sự kỳ vĩ.
Nhưng sự hấp dẫn của nó không hoàn toàn nhờ ở sự đồ sộ. Tôi đă gặp một học giả nổi tiếng người Pháp là kẻ đă thực hiện một loạt các h́nh chụp để dùng làm khuôn mẫu trong công việc đan móc hàng ren và dệt thảm, các mạng gân trang trí phức tạp và các hoa văn tinh tế được chạm khắc bằng các dùi đục nơi bàn tay của các nghệ nhân Khmer thật tuyệt diệu biết bao trong từng chi tiết. Đền Angkor đă là kết quả của một sự bộc lộ vĩ đại của nhiệt t́nh nghệ thuật và tôn giáo, tương tự như nhiệt t́nh mà tại các vùng đất khác đă tạo ra các đại giáo đường đẹp đẽ nhất của thế giới.
CÁC D̉NG NƯỚC NGẬP LỤT VÀ
CÁC CÁNH ĐỒNG LÚA GẠO
Đă có nhiều sự phỏng doán về lư do tại sao dân Khmer rút lui ra khỏi kinh đô tráng lệ của họ. Không ai biết. Nhưng, một lịch sử nguyên thủy, với tất cả sự bảo đảm về sự kiện, nói rằng sự rời bỏ đă theo sau sự nghẽn bùn ở các cửa sông Mekong, khiến cho trong mùa lụt, các ḍng nước bị đẩy ngược lại, tràn ngập kinh đô, và biến cải các cánh đồng lúa gạo thành vùng đất đầm lầy vô dụng. Liệu điều này có phải là nguyên do của sự biến dạng của dân tộc Khmer hay không, người ta phải nh́n các ḍng nước của sông Mekong dâng cao hàng năm trong các tháng mưa mùa hè của vùng gió nồm tây nam.
Cách một quăng ngắn về phía tây và nối dài xuống phía nam từ khu Angkor là hồ trữ nước tự nhiên to lớn, Tonlé Sap, hay Biển Hồ, trải trên một diện tích khoảng 800 dặm vuông và vươn tới độ sâu 40 bộ Anh (feet) khi các ḍng nước ngập lụt của sông Mekong chạy ngược tới Bras du Lac (Nhánh của [Biển] Hồ), một luồng lớn chạy đên hồ từ Nam Vang.
Sau đó, khi nước sông Mekong rút xuống vào cuối năm, nhánh sông Bras du Lac đổi ngược ḍng chảy, và tuôn đổ một lần nữa vào con sông. Nếu không có sự điều tiết tự nhiên này của luồng nước đổ xuống con sông Mekong vĩ đại, các khu vực bao la của miền hạ Căm Bốt và Nam Kỳ (Cochin-China) sẽ phải gánh chịu nạn lụt giống như sự ngập lụt mà sử gia đă quy kết cho các vùng đất ruộng Khmer ban sơ.
CÁC ĐỒNG LÚA CỦA ĐÔNG DƯƠNG CHIẾM HƠN 13.5 TRIỆU MẪU
CÁ BỔ TÚC CHO GẠO NUÔI ĂN NGƯỜI DÂN ĐÔNG DƯƠNG
Vô
số các chiếc thuyền lên xuống các con sông, thả
lưới đi t́m thực phẩm. Các người
đàn ông bên tay phải đang trồng lúa.
Chiếc cầu
dài đàng sau là một trong nhiều cây cầu mà người
Pháp đă làm để thay cho các chiếc phà thô sơ trong
những năm gần đây.
NHÓM THUYỀN BÈ HỖN ĐỘN CẮM SÀO TẠI BỜ SÔNG PHNOM PENH
Các
thuyền tam bản Trung Hoa, các thuyền nhà và đánh cá, các
xuồng, và ngay cả các tàu hơi nước thả neo dọc
các bờ sông.
Ở hậu cảnh, một mũi đất
nhô ra đánh dấu giao điểm của nhánh Bras du Lac với
sông Mekong
XE CÚT-KÍT VẪN C̉N DI CHUYỂN TRÊN ĐƯƠNG CÁI QUAN CŨ
Chúng
không hề được bôi dầu trơn, kêu cọi kẹt
và rên la ầm ỹ
khi được đẩy đi.
Người đàn ông bên phải vác một lưỡi cày
thô sơ trên vai.
QUẢ CỦA CÂY CAU, ĐƯỢC GỌI THÔNG THƯỜNG LÀ HẠT CAU, ĐƯỢC BÀY BÁN
Cùng
với một số lá nào đó, thuốc lá, vôi, và các thành
phần khác, hạt cau được nhai một cách sâu rộng
tại Phương Đông.
Hạt cau sinh ra nhiều
lượng nước bọt có màu đỏ như máu,
và nếu dùng thường xuyên, nhuộm đen hàm răng.
MÚC NƯỚC UỐNG HÀNG NGÀY TỪ BỒN GIẶT
Bên
các bờ sông Seam Reap, ngăn đôi ngôi làng mang tên đó và
đổ vào Biển Hồ (Tonlé Sap).
Trong mùa nước
lên cao, ḍng sông có thể đưa các du khách đến
Angkor bằng thuyền.
GẶT LÚA LÀ MỘT DỰ ÁN CỘNG ĐỒNG
Hai
phương pháp tuốt lúa được áp dụng thông
thồng tại An Nam. Thóc hoặc được mang đến
một sân tập trung,
để được giă bằng
đá, hay các bó lúa được đập mạnh vào mặt
trong các thúng bằng tre to lớn. Mọi người đến
trợ lực.
KHI BÓNG ĐỔ DÀI VÀO CUỐI BUỔI CÀY TRONG NGÀY.
Sử
dụng chiếc bừa thô sơ này, kéo bởi các con trâu
nước, tượng trưng cho các phương pháp
canh
tác nguyên sơ được áp dụng tại Đông
Dương để sản xuất hàng năm khoảng
6,000,000 tấn gạo.
DẪN NƯỚC TỪ XA ĐỂ TƯỚI VƯỜN
Dưới sức đạp của vài người, bánh xe quay chậm chạp, múc nước lên cho các cánh đồng khô hạn (cũng xem các h́nh chụp ở trang 183).
Các hậu duệ Căm Bốt ngày nay đặt kinh đô của họ tại Nam Vang (Phnom Penh), nhưng không có sự lộng lẫy nào đă đặc trưng cho thủ phủ tráng lệ của tổ tiên họ. Nơi đây có sinh hoạt triều đ́nh, nhưng bàn tay của người Pháp đặt cạnh tay lái để hướng dẫn. Sự canh tác lúa gạo vẫn c̣n là mối quan tâm chính yếu của người dân, như nó đă từng như thế trong thời đại của người Khmer.
Có các cánh đồng trồng lúa gạo, rải rác với các mảnh rừng hoang, rải rác với các băi rác bỏ hoang, suốt dọc con đường từ Angkor đến Nam Vang – đồng bằng phẳng tắp dài gần 200 dặm, nằm phơi ḿnh khô cằn dưới các đợt hơi nóng điên người và các ảo giác thoáng qua ở thời điểm của cuộc thăm viếng trong Tháng Tư của chúng tôi. Và cũng có các cánh đồng lúa khác, với các mảnh đất trồng ngô và thuốc lá bất chợt, trong suốt phần c̣n lại của con đường tới Sàig̣n – 150 dặm nữa của mặt bằng phù sa nóng như thiêu đốt, khi chúng tôi đi theo Đường Thuộc Địa Số 1.
Trong những tháng theo sau sự mở màn của các trận mưa gió nồm, trong Tháng Năm hay Tháng Sáu, dải đất dồng bằng bao la này là một câu chuyện của sự ph́ nhiêu được viết bằng màu xanh ngọc bích.
Trong thực tế, toàn thể chiều dài của Con Đường Cái Quan là một câu chuyện về hạt gạo, và mọi giai đoạn của sự canh tác nó có thể được nh́n thấy cùng một lúc.
“Trung Kỳ (An Nam) là chiếc đ̣n gánh nối liền hai thúng gạo, Bắc Kỳ (Tonkin) và Nam Kỳ (Cochin-China)”, người Trung Hoa nói về Trung Kỳ hẹp bề ngang, nhiều núi đồi, trải dài hàng dặm đường dường như bất tận giữa các đồng bằng lúa gạo, bằng phẳng như một sàn nhà, của thung lũng sông Hồng ở Bắc Kỳ với những cánh đồng của vùng châu thổ sông Mekong.
Nhưng Trung Kỳ cũng có nhiều vùng trồng lúa gạo ph́ nhiêu trên nền thung lũng hẹp, bị kẹp giữa các ngọn núi và biển và bởi vị trí độc đáo của nó nằm trên bờ biển uốn cong, các khu vực phía bắc và trung phần có đủ mưa của cả hai mùa gió nồm để trồng được hai vụ mỗi năm. Tuy nhiên, ngay các vụ mùa này chưa đủ để nuôi cho năm triệu miệng đói ăn của nó.
THỰC DÂN PHÁP THOẢI MÁI
NHƯ Ở QUÊ NHÀ TẠI SÀIG̉N TIẾN BỘ
Riêng Xứ Nam Kỳ trồng được hơn 2,000,000 tấn gạo mỗi năm, và Chợ Lớn, phố người Tàu ngay ngoại vi Sàig̣n, phần lớn dành cho việc xay lúa.
Sàig̣n là một thành phố tiến bộ, với nhiều cửa hàng hiện đại, đẹp đẽ và các công thự kiêu kỳ. Ban ngày, các đường phố và bến tàu th́ nhộn nhịp với hoạt động của nhiều loại giao thông khác nhau – xe có gắn động cơ, xe vận tải, xe điện, xe kéo tay, xe đạp, xe ḅ kêu kẽo kẹt, và các phu cu-li (coolies) như các con vật khuân vác. Tuy nhiên, nhiều nơi buôn bán đóng cửa hiệu trong các giờ nóng bức của buổi trưa và mở cửa lại từ 4 giờ chiều đến 7 giờ tối sau khi sự mệt mỏi giành đoạt được sự chiến thắng nhỏ nhoi của nó.
Vào buổi tối, các bàn uống cà phê được đẩy ra trên lối đi bộ, và giữa 6 giờ chiều và giờ ăn tối, các thực dân Pháp tụ tập để nhấm nháp các ly rượu khai vị của họ và thực hiện các cuộc đối thoại linh hoạt, như thể họ đang ở tại quê hương của ḿnh.
Sau bữa tối, trong mùa diễn kịch, họ có thể tham dự các buổi tŕnh diễn tuyệt hảo tại nhà hát thành phố tráng lệ hay tại một trong nhiều xuất chiếu bóng.
Các văn pḥng của Thống Đốc Nam Kỳ tọa lạc trong thành phố, và Toàn Quyền Đông Dương trú ngụ tại Sàig̣n trong sáu tháng và phân nửa kia của năm tại Hà Nội (cũng xem trang 178 [số trang được đánh trong nguyên bản]).
Một buổi sáng, trong khi một số người dân Sàig̣n c̣n uống các ly cà phê nhỏ giọt và nhai các ổ bánh ḿ Pháp cứng ḍn, không trét bơ, và những kẻ khác đang chuẩn bị cho sự ra đi của Vua và Hoàng Hậu nước Xiêm La, những khách đang ở đó trong một cuộc thăm viếng, chúng tôi đă rời Sàig̣n, để đi Phan Thiết và trạm nghỉ mát đồi núi Đà Lạt.
Đi theo Con Đường Cái Quan trải đá mịn theo hướng đông và hướng bắc từ thành phố, chúng tôi sớm băng qua các đồn điền cao su rộng lớn và các khóm cây dừa và kapok (cây bông vải) rải rác.
Nhiều đồn điền đă từng sản xuất nhựa mủ trong vài năm qua; các đồn điền khác sẽ sớm đạt tới giai đoạn trích mủ. Vài đồn điền mới được khai khẩn gần đây, và tại nhiều nơi khác các khu vực mới đang được cắt ra khỏi rừng rậm và chuẩn bị cho việc trồng cây tương lai.
Cao su được chở tàu với khối lượng gần như đồng đều đến Singapore và Pháp, trong khi một lượng nhỏ được chuyển tới Nhật Bản.
Sau khi men theo b́a các đồn điền, các cánh đồng lúa khô hạn, các khu vực rừng rậm và đất chưa được khai phá, chúng tôi tiền dần đến xă Phan Thiết, được xây dựng trên các đống cát do gió quạt tới dọc theo bờ biển (xem trang 176 [trong nguyên bản]).
Phan Thiết quảng cáo về công nghiệp của nó và thực hiện nó một cách vững mạnh. Ngành kinh doanh của nó là đánh cá. Xă được nổi tiếng về sự chế biến nước mắm có mùi khắm được chuyên chở tới khắp nơi tại Đông Dương như một đồ gia vị để tạo hương vị cho chế độ dinh dưỡng phổ biến của gao-và-bột-curry của người dân. Nó là một sản phẩm nặng mùi, nhưng nếu người ta có thể chịu được mùi đủ lâu để thăm viếng các thuyền đánh cá dọc theo bến cảng, người ta nh́n thấy nó được đóng vào các hũ nhỏ và chất lên tàu chở đi. Các thuyền cùng thế, thật đáng chú ư bởi có các bàn thờ thần linh được sơn màu sặc sỡ tại các mũi tàu, trong đó đặt các đồ cúng gồm hương (nhang), hoa và nến (xem Bảng Chụp Màu VIII).
MỌI LÀ SẮC DÂN MAN RỢ CỦA ĐÔNG DƯƠNG
Từ Phan Thiết chúng tôi tách ra khỏi Đường Thuộc Địa lên các đồi núi để vươn tới Đà Lạt và thăm viếng dân bộ lạc người Mọi trên cao nguyên Lang Biang.
Con lộ, qua một loạt các đường ṿng khúc khuỷu và các đường ngoằn ngoèo quẹo gắt, ḅ lên cao gần một dặm so với đồng bằng, xuyên qua hàng thông thơm ngát thẳng đứng và băng ngang các thác nước đẹp đẽ.
Dọc theo suốt con đường, ngay khi bắt đầu leo núi, người ta nh́n thấy các người dân bộ tộc Mọi lê bước bên cạnh đường với các chiếc gùi nặng nề được đeo ở hai bên vai họ, hay có thể với các bó cỏ tranh hay gỗ to lớn trên lưng và đầu của họ.
Đàn ông không mặc ǵ từ trên thắt lưng trở lên ngoại trừ, có thể, các xâu chuỗi hạt ở cổ, và bên dưới mang rất ít y phục (xem Bảng Chup Màu VII). Phụ nữ chỉ mặc váy kẻ sọc ngang đầu gối, nhiều chuỗi hạt quanh cổ, các ṿng đeo tay và các cuộn dây bằng đồng giữa mắt cá chân và đầu gối. Bởi cao độ của cao nguyên, các người đàn ông trong các buổi sáng lạnh lẽo choàng các tấm chăn quanh vai và các phụ nữ thường mặc áo khoác ngoài.
Như một sự tổ điểm thêm cho sắc đẹp của họ, nhiều người đàn bà dân tộc đă xỏ lỗ tai và đeo vào đó các cuộn mây hay các đĩa bằng gỗ có kích thước lớn dần, cho đến khi các giái tai kéo căng tới đường kính từ ba đến năm phân Anh (inch); sau đó, khi tới tuổi trưởng thành, họ lấy các đĩa gỗ ra và treo các cuộn kim loại vào các giái tai lủng lẳng, có thể dài tới cả bộ Anh (foot).
Khoảng 200,000 dân Mọi sơ khai này sinh sống ở rững núi này và vào khoảng nửa triệu ở khắp Đông Dương. Những người đó không thường trực di chuyển từ nơi này sang nơi khác, sinh sống giữa nơi nhiều cây cối hay tại các nơi trú náu tạm thời trong rừng rậm, có các túp nhà tranh trên đỉnh các ngọn đồi (xem Bảng Chụp Màu XV).
Từ ngữ Mọi được dùng bởi người An Nam để chỉ tất cả dân chúng vùng đối núi tại Đông Dương, bất luận họ là dân phơi trần nửa người quanh Đà Lạt hay các dân tộc sơ khai đội mũ cao và quấn khăn của vùng thượng Lào, kẻ trông giống như phóng họa bản đồ của chúng ta.
Các dân miền núi này được phân chia thành vài nhóm và phân nhánh ngữ học chính, tổng cộng vào khoảng 30 ngôn ngữ hay thổ ngữ.
Nhà ở của dân Mọi quanh Đà Lạt là các ngôi nhà sàn bằng tre, dài, với một lỗ hở duy nhất, một cửa chính thấp nằm giữa một bên hông. Các căn buồng hẹp, đôi khi dài đến 200 bộ Anh, có ít đồ đạc, nhưng lồ lộ nhiều vại rượu cần to lớn kê thành hàng dọc theo các bức vách. Việc nấu ăn được thực hiện trên các ḷ bếp mở ngỏ, tại các căn pḥng phủ đầy bồ hóng, xám xịt, khói bếp tác động như một chất diệt trừ muỗi.
Các cột trừ tà cao vút, được trang trí bằng các dải cờ bằng tre và các chiếc sừng và móng của các con trâu nước, dựng thẳng bên ngoài các ngôi nhà.
CÁC THÁP BẰNG GẠCH CỦA XỨ CHÀM CỔ THÁCH ĐỐ CÁC SỰ TÀN PHÁ CỦA THỜI GIAN
Nền
văn minh Chàm Đa Đảo Mă Lai hay Champa, phát triển tại
miền nam An Nam giữa các thế kỷ thứ nh́ và thứ
bảy, để lại nhiều tượng đài tôn
giáo.
Đền thờ Siva tại Po Klaung-garai, Tháp Chàm
(Tourcham) đă được dựng lên hơn 600 năm
trước đây.
CÁC KỊCH SĨ BIỂU DIỄN TRÊN SÂN PHÍA TRƯỚC ĐỀN ANGKOR WAT
Các
điệu bộ của các vũ công Căm Bốt ngày nay
rất giống với các điệu bộ của các chị
em ban sơ của họ,
điệu múa asparas,
được chạm khắc trên các bức tường
của các ngôi đền ở Angkor tám thế kỷ
trước đây.
ĐÔNG DƯƠNG LÀ NƠI TỤ HỘI CỦA NHIỀU TÍN NGƯỠNG TÔN GIÁO
Ở các thời điểm khác nhau, trong số các nhóm chủng tộc của đất nước này, đạo Bà La Môn, Phật Giáo, Đạo Tự Nhiện (Naturism), Khổng học, Đạo Thần Linh, một số phân nhánh Đạo Hồi, và sau này, Thiên Chúa Giáo, đă t́m được các tín đồ. Ảnh bên trái, người dân Căm Bốt đang khiêng hai tượng Đức Phật trong một cuộc hành hương Mừng Năm Mới đến Đền Angkor Wat (xem Bảng Chụp Màu I). Bên phải, phẩm phục của nhà sư An Nam, ngồi trên ghế, cùng hai nhà sư khác tại Huế, cho thấy Phật Giáo đă đến qua ngả Trung Hoa.
MỘT TƯỢNG ĐÀI BẰNG ĐỒNG, ĐÁ, VÀ NGÓI TAI PHNOM PENH KỶ NIỆM SỰ THU HỒI CÁC TỈNH ĐĂ MẤT CỦA CĂM BỐT
Ba
tượng bên phải tượng trưng cho các tỉnh
Siem Reap (Angkor), Sisophon và Battambang đang tuyên thệ trung
thành với vị vua mới của chúng,
Sisowath của
Căm Bốt, sau khi Xiêm La từ bỏ cương vị
chúa tể của nó qua một hiệp ước với
nước Pháp năm 1907.
CÁC NGÔI SAO SÂN KHẤU CỦA TRIỀU Đ̀NH CĂM BỐT
Các
vai ấn tượng thường được thủ
diễn bởi các phụ nữ. Giống như tại
Xiêm La và vùng Đông Ấn Độ, các chủ đề
phần lớn được tuyển chọn từ
truyện
dân gian hay từ tập thơ hào hùng thiêng liêng của Ấn
Độ, Ramayana. Sự diễn xuất bao gồm phần
lớn một loạt các điệu bộ.
CÁC VIÊN CHỨC NHÀ NƯỚC TẠI PHNOM PENH VỚI Y PHỤC SÁNG CHÓI
Các
thành viên này của triều đ́nh đến Hoàng Cung để
bày tỏ sự kính trọng và ḷng trung thành của họ
với
Quốc Vương Monivong của Căm Bốt nhân dịp
Năm Mới, vào đầu Tháng Tư.
CÁC BINH SĨ CĂM BỐT PHẢN ẢNH ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC HUẤN LUYỆN VIÊN NGƯỜI PHÁP
Quân
pḥng vệ triều đ́nh của Vua Monivong đang chờ
sự đến nơi của Trú Sứ Pháp trọng dịp
tiếp tân Mừng Năm Mới.
Ngoài các chức năng
chính thức, các buổi diễn kịch, thi đấu
đấm bốc, và các hoạt động công cộng
khác đánh dấu mùa lễ hội.
CHÚNG ĐƯỢC DÙNG ĐỂ PHỤC VỤ TRONG THẾ GIỚI THẦN LINH
Theo
một phong tục Trung Hoa, người dân Bắc Kỳ và
Trung Kỳ làm các đồ hàng mă bằng giấy h́nh các con
ngựa, nhà ở
và các đồ vật khác để
đốt trong các lễ mai táng, dành cho sự sử dụng
của các linh hồn vừa từ trần.
ĐÀI TƯỞNG NIỆM CÁC BINH SĨ THẾ CHIẾN [I] CỦA AN NAM ĐĂ RỜI XỨ SỞ NHƯNG KHÔNG BAO GIỜ TRỞ VỀ
Tên
họ của các binh sĩ An Nam và Pháp đă mất mạng
trong cuộc chiến tranh được khắc tại
đài tưởng niệm này với thiết kế
đông phương tuyệt diệu được dựng
bên bờ sông Hương tại Huế.
ĐỜI SỐNG NGOÀI TRỜI TẠI MỘT KHÍ HẬU ÔN ĐỚI PHÁT TRIỂN THÂN H̀NH KHỎE MẠNH CỦA NGƯỜI MỌI
Khoảng
200,000 dân bộ lạc này cư trú tại các đồi núi
của miền nam Trung Kỳ (cũng xem Bảng Chụp
Màu XV).
Họ là một chủng tộc rắn chắc của
các nhà săn bắn tuyệt hảo. Người đàn
ông bên trái trang bị các chiếc gùi vận tải mọi
thứ vốn thông dụng trong nước.
CÁC B̀NH PHONG BÊN TRONG CỔNG CHÙA NGĂN CHẶN CÁC LỰC LƯỢNG ĐEN TỐI
Một
ít đồng tiền cắc khuyến dụ các trẻ em
này của Hội An khắc phục được sự
lo sợ của chúng
về máy chụp h́nh và chịu đứng
chụp trước b́nh phong nào tại lối vào ngôi chùa.
CÁC NGƯ PHỦ PHẢI DỖ DÀNH CÁC MA QUỶ R̀NH M̉
Với
các phẩm vật dâng cúng gồm hoa, nến, và hương
tại đầu mũi tàu được sơn vẽ
hào nhoáng,
các ngư phủ ra biển tin rằng họ sẽ
trở về với mẻ lưới nhiều cá.
CÁC NGƯỜI ĐÀN BÀ
THỐNG TRỊ PHẢ HỆ GIA TỘC
Chế độ mẫu hệ, rất giống với chế độ của dân tộc Menangkabau ở đảo Sumatra, ** thịnh hành trong sắc dân Radé, Khasi, và một số nhóm dân Mọi khác.
Các phụ nữ của các dân bộ tộc này là các kẻ đứng đầu gia đ́nh; tài sản thuộc quyền quyết đoán của họ, họ chăm lo cho gia đ́nh, đi chợ mua đồ, và một cách nào khác, giữ dây buộc túi tiền. Đàn ông tỏ ra kính trọng họ, và nếu họ muốn uống rượu cần hay muốn mua sắm, họ phải có sự cho phép từ các người vợ của họ. May mắn, các người vợ th́ quảng đại. Nếu họ trở nên quá chuyên chế, người chồng có thể tự khẳng định.
Tại các buổi tiệc tế lễ, các phụ nữ uống rượu trước tiên, và theo sau lần lượt bởi các con gái và cháu gái, và sau cùng, các người đàn ông và các con cháu trai mới được phép uống.
Mọi năm đều là năm nhuận [theo truyền thống Ái Nhĩ Lan (Ireland), một người đàn ông nhận được lời cầu hôn vào ngày nhuận phải chấp nhận lời yêu cầu này, chú của người dịch] trong các dân tộc Mọi theo mẫu hệ. Nếu một người con gái 17 hay 18 tuổi thấy được một người đàn ông mà cô ưa thích, cô xin phép gia đ́nh cô đi kiếm anh ta để thành hôn. Nếu được gia đ́nh đồng ư, cô ta, được tháp tùng bởi một chứng nhân, trao cho anh con trai quà tặng gồm một viên thuốc lá trầu không và hai chiếc bánh. Nếu anh con trai tiếp nhận lời cầu hôn của cô gái một cách tán đồng, anh ta nếm thử món quà, và cuộc hứa hôn khi đó được kết thúc.
Khi một vụ thành hôn xảy ra tại bộ lạc Radé, chàng trai đến sống với gia đ́nh vợ và cha mẹ anh ta nhận được một số tiền để bồi thường cho việc mất đi một thành viên quan trọng trong gia đ́nh họ. Trong trường hợp bộ lạc Khasi, chàng trai sống tại nhà người mẹ anh và thực hiện các cuộc thăm viếng hàng ngày gia đ́nh vợ anh ta sau khi công việc đồng áng trong ngày xong xuôi.
Trong các bộ lạc duy tŕ chế độ phụ hệ, người đàn ông làm việc tán tỉnh, cung cấp đồ sính lễ, và nộp một số tiền cưới cho cha mẹ người vợ.
Người Mọi nói chung theo tục đơn hôn, nhưng nhiều vợ và nhiều chồng không phải là không được biết tới.
Một số người Mọi né tránh hôn nhân liên chủng bởi họ quy kết các chứng bệnh truyền nhiễm, thiếu mưa, mùa màng thất bát, và các điều bất lợi khác cho sự giận dữ của các thần linh, phải gánh chịu do việc giao kết quá chặt chẽ.
Có có nữ giáo sĩ bộ lạc cử hành các buỗi lễ tế thổ thần mỗi 7 năm một lần, tiếp nhận đồ cúng, và đưa ra các lời cầu nguyện để chuộc tội và các đồ hiến tặng v́ các lỗi lầm của làng.
Các buổi lễ cúng được cử hành đên nhiều thần thánh khác nhau, các bàn thờ tí hon được đặt bên cạnh các lối đi dẫn đến các ngôi làng của họ, và tại các đường đi khác mà người ta nh́n thấy các vị thần khống chế đời sống người dân Mọi.
Khắp cao nguyên Lang Biang, các con hổ, báo, nai, trâu rừng, và các loại thú hoang khác lang thang với số lượng lớn. Nhiều nhà săn bắn lợi dụng việc săn bắn tuyệt vời tại khu vực săn bắn phong phú này. Trong thực tế, khắp Đông Dương sinh hoạt hoang dă tràn đầy.
Dân bản xứ, qua kinh nghiệm buồn thảm, hiểu biết được sự đe dọa của hổ. Họ nói về nó với các tước hiệu th́ thầm và kính trọng và ở không ít nơi các miếu thờ đă được dựng lên để tôn sùng Thần Hổ.
Bởi khí hậu ôn ḥa ở cao độ cả dặm Anh, Đà Lạt thu hút nhiều người t́m kiếm sự ngăn chăn hơi nóng của các đồng bằng. Người Pháp đă biến cải nó thành một khu nghỉ dưỡng lành mạnh thú vị, với các ngôi nhà quyến rũ và các khách sạn tốt và các khu vườn nơi các loại hoa tăng trưởng thật nhiều. Một sự tương phản như thế tại đây so với các ngôi làng kề cận của người Mọi!
Nhiều sườn đồi quanh Đà Lạt đă được khai quang và làm thành bậc thang cho các vườn trồng rau và các đồn điền cà phê. Gần như tất cả cà phê phục vụ tại các bữa ăn của con người ở Đông Dương được trồng tại địa phương, ở các vùng đồi núi.
DI TÍCH NỀN VĂN MINH CHÀM
CHỈ CÓN LẠI CÁC NGỌN THÁP ĐỔ NÁT
Từ cao nguyên mát lạnh chúng tôi lượn đường trôn ốc đổ xuống con đường dốc, ngoằn ngoèo đến Tháp Chàm (Tourcham), trên các đồng bằng phồng cháy bởi mặt trời, để tiếp tục hành tŕnh của chúng tôi đến Đà Nẵng (Tourane), Huế và xa hơn nữa.
Trên một ngọn đồi khô cằn, nứt nẻ, được bao phủ bởi cây mâm xôi (bramble), không xa Tháp Chàm, một tháp được bảo tồn rất tốt của người Chàm in h́nh tháp bằng gạch dỏ của nó lên nền trời và mang lại cho ngôi làng tên gọi của nó (xem Bảng Chụp Màu I).
Dọc suốt bờ biển cho đến Đà Nẵng có nhiều tháp bằng gạch, giờ đây trong t́nh trạng hoang phế đổ nát, là những tháp đă được dựng lên khi nền văn minh Chàm ở vào đỉnh cao uy thế của nó.
Người Chàm, có sự pha trộn nhiều huyết thống Mă Lai và thụ đắc văn hóa Ấn Độ, đă phát triển từ các thế kỷ đầu tiên của Kỷ Nguyên Thiên Chúa cho đến khi bị khuất phục hoàn toàn, vào khoảng thế kỷ thứ 17, bởi áp lực nam tiến luôn tăng cao của người An Nam. Cũng có thời người Chàm là các đối thủ đáng sợ của người Khmer.
Ngày nay chỉ c̣n ít nhóm biệt lập người Chàm sinh sống tại miền nam An Nam (Trung Kỳ) và miền hạ Căm Bốt, và họ hiếm có thể phân biệt được với các cư dân khác.
Tháp Chàm là nhà ga đầu mối nơi đường sắt từ Đà Lạt nối kết với đường rày chính của miền nam Đông Dương, chạy từ Nha Trang đến Sàig̣n và Mỹ Tho. Một phần đáng kể của chặng đường leo dốc hướng đến Đà Lạt được hoàn thành bởi một đường răng cưa, các dặm cuối cùng của nó đang được xây dựng.
CÁC HŨ (TĨN) DÙNG ĐỂ ĐỰNG NƯỚC MẮM
Ngư
nghiệp sâu rộng hoạt động từ Phan Thiết
cung cấp nguyên liệu cho một nước chấm nặng mùi
mà người dân bản địa Đông Dương xem
là một mỹ vị đậm đà khi ăn cơm.
Trong một thời khoảng ngắn, người Pháp dự định có chặng nối dài 330 dặm Anh đường rày được hoàn tất giữa Nha Trang và Đà Nẵng. Khi đó các hệ thống bắc và nam sẽ được nối liền, sao cho sẽ có một dịch vụ thống nhất từ Mỹ Tho và Sàig̣n chạy suốt tới bờ biển, xuyên qua Hà Nội, đến Na Cham, tại biên giới Trung Hoa, và đến Vân Nam Phủ, thuộc Trung Hoa. Hiện tại, một xe buưt bưu điện chính phủ hoạt động bắc ngang khoảng trống này trên đường rày.
Chúng tôi tăng tốc độ trên con đường ven biển, ngang qua các cánh đồng ruộng, các cụm dừa, và các tháp Chàm.
Ngay bên ngoài Nha Trang một chiếc cầu dài vắt ngang qua cửa vịnh dưới chân một ngọn đồi có dựng trên đỉnh một tháp Chàm khác. Từ cao điểm thuận lợi này người ta có được một cái nh́n toàn cảnh khoảng khoát Vịnh Nha Trang và nhiều thuyền đánh cá nhấp nhô trên mặt nước xao động của nó. Xa hơn đó một chút, các ngọn núi của rặng An Nam [Trường Sơn] nối dài ra biển và tạo thành Mũi Varella (Mũi Diều) xinh đẹp.
Khi chiếc xe của chúng tôi leo lên đoạn đường ngoằn ngoèo cao hơn bờ biển, chúng tôi đă có được các quang cảnh hùng vĩ của các khúc lơm vĩ đại của biển, nơi các ngọn đồi phủ màu xanh đột nhiên mọc lên từ mặt nước xanh thẫm.
Tại một trong các đỉnh cao nhất của mũi hiện ra một tảng đá khổng lồ, trông giống như một tháp Chàm vĩ đại, có thể được nh́n thấy cách xa hàng dặm từ mọi hướng. Bởi vị trí độc đáo của nó, nhiều truyền thuyết đă phát sinh về nó. Nh́n từ một góc cạnh nào đó, nó có một phóng h́nh làm liên tưởng đến một người mẹ đang bồng một đứa con trong cánh tay. Người Mọi sẽ nói cho bạn hay rằng đây là người vợ của một vị thần linh vĩ đại đă biến người nội trợ của ông thành ḥn đá bởi bà ta đă lừa dối ông. Do đó bà ta đứng thẳng trên núi cao trong mọi lúc, như một sự cảnh cáo cho các phụ nữ khác. Truyền thuyết đă được bảo tồn bởi các nhà vẽ bản đồ người Pháp, các kẻ đă đặt tên khúc này của rặng núi là “Núi Mẹ và Con”.
Trên đường tới Đà Nẵng, chúng tôi đă dừng chân nghỉ đêm tại Tuy Ḥa, và rồi tại Quảng Ngăi, trong các nhà nghỉ một tầng đẹp đẽ mà chính phủ Pháp bảo quản một cách thật hoàn hảo ở đây và tại nhiều thị trấn nhỏ khác ở Đông Dương.
Vừa vượt quá thị trấn đánh cá đầy các cụm dừa rải rác, bờ biển bằng phẳng được đắp đê thành các băi muối rộng lớn để nước biển bốc hơi. Gần Qui Nhơn nhiều tượng đài Chàm tại các ngọn đồi bao quanh mọc lên như các vọng gác trên các đồng bằng được canh tác một cách hoàn hảo, được chấm họa bằng các ngôi làng An Nam đông dân được xây dựng bằng các khung tre, tường trát bùn, và mái cỏ tranh.
SỰ CẠNH TRANH CỦA XE HƠI MAU CHÓNG THAY THẾ CHO SỰ LƯU THÔNG BẰNG VOI
Một
nhóm dân Căm Bốt đang quay về nhà từ một lễ
hội bằng mộ phương thức lâu đời.
Tuy nhiên, với sự gia tăng đáng ngạc nhiên các
đường lộ tốt tại Đông Dương
thuộc Pháp, nhiều người giờ đây du hành bằng
xe buưt.
CÁC CHIẾC XE HƠI CẮT ĐỨT
CÁC MA QUỶ THEO ĐUÔI
CÁC KHÁCH BỘ HÀNH
“Đường lộ th́ tuyệt hảo, nhưng bị vướng mắc bởi súc vật và con người”, một tờ truyền đơn nhận xét một cách thích hợp về vùng này của An Nam bởi mọi người An Nam và vợ của anh ta, nhiều con chó và các con trâu nước không ngừng di chuyển. Mọi người, quăng gánh các thúng sản vật được móc vào một chiếc đ̣n gánh vắt ngang vai, đang đi dến hay từ ngôi chợ hay các cánh đồng.
DINH TOÀN QUYỀN TẠI SÀIG̉N
Mặc
dù trung tâm hành chính của Đông Dương thuộc Pháp
đă được đổi từ Sàig̣n ra Hà Nội vào
năm 1902,
viên Toàn Quyền vẫn trú ngụ vài tháng mỗi
năm ở đây (xem bài viết, trang 105).
CÁC NHÀ VUA AN NAM TỮ TRẦN AN NGHỈ TẠI CÁC LĂNG TẨM CẦU KỲ Ở HUẾ
Hoàng
Đế Khải Định, băng hà năm 1925, đă
dùng vài năm để giám sát sự xây dựng lăng tẩm
huy hoàng này. Một lối đi dài qua các bực thang
đến tầng có
các hàng tượng quan lại và ngựa
bằng đá đứng chầu. Ngôi đ́nh trung tâm chứa
đựng một bia thuật lại
các hành vi của ông,
trong khi ở phía sau, mọc lên một khối lăng tẩm
to lớn đáng nể (xem bài viết, trang 180)
Không có cảnh xin đi nhờ xe (quá giang) tại An Nam, bởi v́ mọi người dạt về phía lề đường, bên ngoài mặt đường, khi có một chiếc xe đang tiến tới -- đúng thế, tất cả mọi người. Đôi khi một người già An Nam mê tín, tin rằng một hồn ma ác độc đang bám sát ḿnh, lư luận rằng nếu ông ta chạy ngang qua lối đi của chiếc xe hơi vào giây phút chót, con ma sẽ bị đụng và ông ta khi đó sẽ được giải thoát khỏi kẻ ám hại. Thật dễ dàng để phán đoán sai lạc tốc độ của một bộ máy xe đáng phóng tới; do đó có sự nguy hiểm rằng chiếc xe không chỉ đụng vào con ma, mà c̣n đụng cả vào đuôi áo đang tung bay.
Trong một nhóm người An Nam tại chợ, không có màu sắc người ta nh́n thấy tại Căm Bốt. Gần như mọi người đều mặc các áo khoác màu đen có vạt áo dài, và các chiếc quần màu trắng hay
CÁC V̉M HANG ĐỘNG TẠO THÀNH CÁC NGÔI CHÙA THIÊN NHIÊN
Các
hang động tại Ngũ Hành Sơn, gần Đă Nẵng,
giờ đây là nơi tôn nghiêm cho các cuộc hành
hương
Phật Giáo, đă từng được dùng
làm các đền thờ Ấn Độ Giáo trong thời
đại người Chàm.
Cấu trúc giống như ngôi
chùa bên tay trái cao khoảng 10 bộ Anh.
đen, đội trên đầu các chiếc nón rộng vành, có h́nh nấm, làm bằng lá dừa, phục vụ rất tốt vừa như một cái dù [che mưa] hay nón che nắng, khi thời tiết đ̣i hỏi. Tại các ngôi chợ, chúng mang lại cảm tưởng về một mái che bằng tranh chắc chắn trên những kẻ đang tụ họp để đổi chác.
Đà Nẵng là hải cảng chính yếu của trung phần Trung Kỳ. Chính tại địa điểm trọng yếu này người Pháp vào năm 1858 đă chĩa súng khi sự ngược đăi các tín đồ Thiên Chúa Giáo đang xảy ra tại An Nam. Đà Nẵng là một thành phố tự quản, bởi nó là một trong các nhượng địa trực tiếp cho người Pháp được đưa ra bởi Vua Gia Long [sic].
Cách phía nam vài dặm là phố người Trung Hoa tại Faifoo (Hội An), nơi mà việc chuyên chở bằng tàu đáng kể được thực hiện. Đă có lúc một khu định cư người Nhật Bản hiện hữu nơi đây.
Các du khách cũng chú ư đến Ngũ Hành Sơn (Marble Mountains), cách Đà Nẵng ít dặm, nơi các nhà sư An Nam đă biến cải một số hang động thành một tu viện.
Từ Đà nẵng, trạm dừng chân kế tiếp là Huế, trung tâm sinh hoạt của An Nam. Giữa hai thành phố này các ngọn núi đâm ra biển tạo thành Đèo Hải Vân (Col des Nuages, Pass of the Clouds). Thành quả tuyệt đỉnh của thiên nhiên tạo ra dọc theo bờ biển Trung Kỳ. Tại đỉnh đèo có một đồn An Nam cũ, từ cổng này người ta có thể nh́n trở lại đường cong vĩ đại của Vịnh Đà Nẵng, trong khi nh́n về hướng kia bờ biển dài và núi đồi dốc đứng trải ra. Ở một cao độ thấp hơn nhiều con đường màu vàng ṿng quanh các ngọn đ̣i phủ lá màu xanh, người ta có thể nh́n thấy đường rày xâm nhập vào Đỉnh đèo xuyên qua vài đường hầm.
Khi chúng tôi hạ thấp xuống từ ngọn đèo, mặt trời trượt dưới các đỉnh núi và biến hóa biển và mây thành một bài thơ màu sắc. Thiên nhiên thật trác tuyệt trong việc vẽ lại bức tranh vốn đă sẵn đẹp đẽ.
HAI VƯƠNG QUỐC THỐNG NHẤT
DƯỚI NGỌC TRƯỢNG CỦA GIA LONG
Huế là kinh đô hoàng triều của An Nam xưa. Thời hiện đại của nó bắt đầu từ năm 1803 khi Nguyễn Ánh, một hoàng tử trẻ tuổi của An Nam sau này trở thành Hoàng Đế Gia Long, đă chiến đấu thắng lợi con đường tiến tới ngai vàng An Nam xuyên qua sự giúp đỡ của Giám Mục địa phận Adran và một nhóm nhỏ các tay phiêu lưu người Pháp mà ông đă gặp tại Bangkok.
Cũng xuyên qua các nỗ lực của Gia Long, các vương quốc Tonkin (Đàng Ngoài) và An Nam (Đàng Trong), trước đây đă bị phân chia bởi có sự tranh giành trong gia tộc cầm quyền, một lần nữa được thống nhất dưới ngọc trượng của ông; nhưng lịch sử kế tiếp bị nhuộm đỏ bằng máu của sự ngược đăi và chiến trận.
CÁC ĐỈNH BẰNG ĐỒNG VĨ ĐẠI TƯỞNG NHỚ CÁC VUA CHÚA CỦA HUÊ
Chung
quanh mặt ngoài của chín đỉnh tượng
trưng triều đại này, được đúc vào
năm 1838,
là các biểu tượng liên quan đến các
tập quán từ nhà Hạ, Trung Hoa, 4000 năm trước
đây.
Đứng ngoài cùng hàng đỉnh là đỉnh tượng
trưng Gia Long, là kẻ sáng lập ra Triều Đại
Nhà Nguyễn (xem bài viết, trang 179)
Kể từ 1885, nước Pháp đă nắm giữ chế độ Bảo hộ trên Trung Kỳ và Bắc Kỳ.
Thành phố Huế tọa lạc sâu vài dặm trong nội địa tính từ ngoài biển, trên các bờ của con sông Hương ngoằn ngoèo – tên gọi được đặt bởi các cây nở hoa có mùi thơm dịu ngọt dọc bờ sông.
Khu người An Nam của thành phố, với ṭa thành có tường bao quanh, nằm một bên của con sông và dinh Trú Sứ (Residency) và khu người Pháp ở phía bên đối diện.
Trong hàng rào bên trong tường thành trổ ra lỗ châu mai cổ xưa là các cung điện hoàng triều, các pḥng của nhà vua, và các miếu thờ tổ tiên chứa đựng các bàn thờ các vị vua đă mất. Tại một khu vườn có các đỉnh triều đại khổng lồ được đúc một cách khéo léo bằng đồng. Các cây hoa đại và các cây ba đậu hồng thắm ngổn ngang nổ rộ dọc theo các lối đi và tại các khu vườn rộng mở. Các cung điện có thiết kể kiến trúc kiểu Trung Hoa, được trang trí bằng nhiều sơn mài màu đỏ và vàng. Các cung điện cũng chứa đựng nhiều các sản phảm khảm xà cừ.
Lăng Khải Định ở Huế cung cấp cho du khách một trắc diện đẹp đẽ của những ǵ có tính chất An Nam.
Một khoảng cách ngắn bên ngoài thị trấn, trên các đồi nhỏ có trồng cây, là các ngôi mộ tráng lệ của các vị vua băng hà, một số trong các lăng rộng vài mẫu. Lăng của Khải Định, được xây dựng bằng xi măng và cẩm thạch, cho tới nay có vẻ kiêu kỳ nhất. Phần lớn đời sống của một số nhà vua được dùng để giám thị sự xây cất các nơi an nghỉ cầu kỳ của họ, vốn được thiết kế phù hợp với các tập quán và các nghi lễ cổ xưa (xem trang 178).
Trên đường quay trở về từ các lăng mộ một buổi trưa, chúng tôi gặp một nhóm đi cắm trại của các nữ sinh mang áo dài màu tím. Sau sự thuyết phục lâu dài, họ đồng ư cho chụp ảnh, như một sự chào mừng thân thiện với các nữ sinh Mỹ và các nước khác có thể nh́n thấy ảnh chụp màu của họ trên tạp chí NATIONAL GEOGRAPHIC MAGAZINE (xem Bảng Chụp Màu XIV).
An Nam chịu ảnh hưởng của Trung Hoa ngay từ thế kỷ thứ nh́ TCN và c̣n dưới Trung Hoa gần như liên tục cho đến năm 1428 [sic], khi nó thoát ra khỏi sự cai trị của nhà Minh, nhưng sau đó có gửi các quà tặng triều cống măi cho đến nhà vua Măn Thanh. Bởi nằm dưới quyền chủ tể lâu dài của Trung Hoa, các nhà lănh đạo của An Nam bị chi phối trong mọi hoạt động của họ bởi Kinh Lễ (Book of Rites) [sic], và bao quanh họ là các văn và vơ quan trong sự bắt chước theo triều đ́nh Trung Hoa.
Trên một khoảng đất trống bên ngoài Huế, như từng được thực hiện tại Bắc Kinh, các buổi lễ ba năm một lần tế Trời và Đất được cử hành bởi Hoàng Đế, được trợ giúp bởi các quan lại của ông.
Cuộc thăm viếng của chúng tôi đến Huế trùng hợp với cuộc thăm viếng của Quốc Vương và Hoàng Hậu nước Xiêm La. Trong suốt cuộc thăm viếng, họ đă được tiếp đón tại hoàng cung, và với sự vắng mặt của vị Hoàng Đế trẻ tuổi, Bảo Đại (Greatness Sustained), kẻ đang theo học tại Pháp, Hoàng Thái Hậu đă đón tiếp họ. Trong một kích thước thu nhỏ, đó là một cuộc đón tiếp với phép xă giao và nghi lễ như thế sẽ diễn ra tại hoàng triều Bắc Kinh trước khi nó sụp đổ trong năm 1911.
Với sự tử tế của Thượng Thư Bộ Lễ, tôi đă có thể thực hiện được các ảnh chụp màu một số vơ quan và văn quan mặc y phục được thêu lộng lẫy và các đôi hia cao cổ có đầu mũi giầy uốn cong lên trên của họ, làm nhớ đến các trang phục giới quan chức nhà Minh (xem Bảng Chup Màu XI).
CÁC TU SĨ PHẬT GIÁO CẦU NGUYỆN KHI HỌ TIẾN VÀO ĐIỆN THỜ CỒ ĐÀM
Có
vài ngôi chùa tại Huế, nơi các tín đồ của
Đức Phật có thể lui tới để suy niệm
sự vô biên,
trong sự dơi t́m Cơi Niết Bàn. Một nhà
sư và hai đệ tử (cũng xem, Bảng Chụp Màu
II)
MỘT VỊ CÔNG CHÚA ĐĂI TRÀ
Kỷ niệm thích thú nhất trong cuộc thăm viếng của tôi tại Huế là sự đón tiếp chúng tôi tại cung điện của một vị công chúa có người cha và người anh đều được đặt lên ngôi vua.
Một ngày, tôi đă chụp các ảnh màu của bà trong trang phục chính thức, và trong ngày sau đó, trở lại để tŕnh cho bà kết quả (xem Bảng Chụp Màu IX và X). Khi việc chụp ảnh đă xong xuôi tại sân trong, chúng tôi được mời uống trà An Nam, cùng với các đồ ngọt và bánh ngọt lạ lùng.
Theo đề nghị của chúng tôi, cô con gái của công chúa, một thiếu nữ xinh đẹp ở tuổi mười lăm, đă tử tế bằng ḷng tŕnh diễn cho chúng tôi một đàn dây An Nam. Cô bé sau đó được phụ họa bởi người thày dạy nhạc lớn tuổi bị mù, với nhiều đàn dây khác nhau, trong khi các người đồng diễn trẻ tuổi đă các các bài hát An Nam.
Trong suốt buổi tŕnh diễn ca nhạc không chính thức, vị công chúa quan sát sự chú ư của chúng tôi, từ chỗ ngồi được kê nệm trên một chiếc ghế khảm xà cừ to lớn. Đàng sau bà, các thiếu nữ liên tục phe phẩy chậm chạp một cách chừng mực các chiếc quạt lông dài.
Tôi cần phải nói đến một hoàng tử trẻ tuôi và người vợ của ông ta, là những kẻ xuyên qua họ tôi đă có thể nh́n thoáng qua sự quyến rũ và màu sắc của Huế xưa. Hoàng gia vẫn c̣n sống tại Huế, ngay dù giới thẩm quyền Pháp có thể đứng một cách nào đó không mấy che đậy ở hậu trường.
Một buổi sớm mai chúng tôi rời Huế đi Hà Nội, thủ đô của xứ Bắc Kỳ và trung tâm hành chính của toàn thể Dông Dương.
Chúng tôi đă đi dọc theo các cánh đồng lúa chín để gặt hái, các đồi núi không canh tác, các đụn cát dài với nh́n ra biển đôi khi, và các cấu h́nh đá kỳ lạ; có đi phà qua một số con sông, và rồi đến cảnh trí liên tục của lúa gạo tại đồng bằng sông Hồng.
Dọc đường, một luồng hơi nóng thiêu đốt quét ngang từ xứ Lào, và các người dân bản xứ trên đường khoác các chiếc áo choàng đi mưa bằng rạ (tranh) để bảo vệ họ chống lại cái nóng làm phỏng da. Đôi khi, trong Tháng Tư, các luồng gió này thổi liên tục suốt cả tuần; nhưng sự bộc phát của các cơn mưa mang lại sự giải cứu (xem trang 182).
Tại Quảng Trị, một con đường đâm vào xứ Lào đến Savannakhet và Thakhek, trên sông Mekong, và chui ra lại ở Vinh. Từ Vinh, một con đường khác xuyên qua cao nguyên người Mèo đến Luang Prabang, thủ phủ của miền bắc Lào.
Tại xă Đồng Hới, chúng tôi đà thăm viếng một xưởng khắc chạm gỗ bản xứ, nơi các sản phẩm bằng gỗ khắc chạm tỉ mỉ, đẹp đẽ được làm ra (xem Bảng Chụp Màu XIII và h́nh ảnh, trang 189).
NƠI CÁC CHIẾC ÁO TƠI LÀ THỜI TRANG
Các
trang phục này sẽ không chỉ để che mưa, mà
chúng c̣n được dùng để bảo vệ người
mang nó khỏi các cơn gió mùa hè nóng bức
đôi khi quét
ngang khắp các đồng bằng ở Bắc Kỳ và
Trung Kỳ (xem bài viết, trang 190). Một cảnh chợ
ở Hà Nội.
CÁC PHỤ NỮ MỌI LẤY GIỜ NGHỈ NGƠI KHI TỰA GÙI CỦI TRÊN GẬY CHỐNG.
Cả
đàn ông lẫn đàn bà của bộ lạc đều
quen với việc vận chuyển các trọng tải nặng
nề sau lưng họ. Họ đi nước kiệu một
quăng đường
ngắn với gánh nặng, t́m cách tựa
chúng trong chốc lát trên các chiếc gậy h́nh chữ T, và
sau đó lại rảo bước tiếp.
MỘT CÔNG NHÂN LÀM 24 GIỜ MỘT NGÀY VỚI TIẾNG KẼO KẸT VÀ GẦM GỪ KHI LÀM VIỆC.
Mười
một bánh xe vĩ đại tạo thành đơn vị
này được xây dựng hoàn toàn bằng tre buộc vào
với nhau. Nhiều bánh xe hợp lại như thế
được ráp vào con sông gần Quảng Ngăi để
tưới nước cho vùng đất cát, bị mặt
trời thiêu đốt.
NH̀N DỌC PHẦN NÓC CỦA MỘT HỆ THỐNG NƯỚC THÔ SƠ NHƯNG HỮU HIỆU
Một
cái nh́n cận cảnh các bánh xe chuyển nước trong
h́nh bên trên. Các ống tre đổ nước sông vào các
máng nối liền nhau,
từ đó nó được chuyển
đến một đường dẫn chính (bên trái phía
trước hết) để phân phối đến các
cánh đồng.
“Các lối đi hẹp” cho phép các công nhân
vươn đến được các bánh xe khi cần sửa
chữa.
THIÊN NHIÊN ĐĂ CHƠI TR̉ NGHỊCH NGỢM KỲ LẠ TẠI VỊNH HẠ LONG
Vô
số các ḥn đá mọc lên một cách kỳ quái và các
đảo tí hon chấm phá mặt nước của vịnh
và làm nó trở thành một
trong những điểm huyền
hoặc nhất của thế giới. Ḥn Gay, một phần
của nó có thể được nh́n thấy trong hậu
cảnh,
là một làng đánh cá phát đạt và một hải
cảng vận hàng quan trọng cho than đá Bắc Kỳ
(xem bài viết, trang 190).
HÀNG
TRĂM NGƯỜI DÂN AN NAM ĐỘI NÓN H̀NH NẤM TỤ
HỌP TỪ VÙNG QUÊ
ĐỂ MUA, TRAO ĐỔI, VÀ BÁN TẠI
MỘT CHỢ BUỔI SÁNG
CÁC NÔNG DÂN AN NAM SÁNG CHẾ RA MỘT CÁCH TƯỚI TIÊU TÂN KỲ
Vận
dụng các rổ tre đan với các sợi dây thừng được
buộc cả bên trên lẫn bên dưới, họ múc
nước
từ con sông và bằng động tác nhịp
nhàng, khéo léo, trút rổ mước vào các luồng tưới
tiêu.
Không có sự thẩn thơ, bởi để
phương pháp này thành công, các nông dân phải cử động
với sự nhất tề.
LÀNG CỦA HỌ TRÊN CÁC ĐỒI BẮC KỲ GẦN LẠNG SƠN
DÂN BỘ LẠC MỌI DỰNG NHÀ BẰNG TRANH VÀ TRE
Các
ngôi nhà dài, mái thấp th́ không có cửa sổ, và chỉ có một
cửa ra vào duy nhất, qua đó người ta phải cúi
đầu xuống để vào nhà.
Một cột trừ
tà cao, được trang trí bởi các tàn lá dừa, dựng
đứng ở phía bên phải (xem bài viết, trang 166).
BẢY TRĂM PHÂN (ANH) VUÔNG LÁ DỪA LÀM THÀNH CHIẾC NÓN AN NAM
HỌ PHỤC VỤ TẠI TRIỀU Đ̀NH CỦA BẢO ĐẠI, HOÀNG ĐẾ AN NAM
Phần
lớn công việc thường lệ của các văn
pḥng Chính Phủ được thực hiện bởi một
lực lượng thư kư
mà các thành viên của nhóm đều
mặc các áo dại màu đen, quần trắng, và đội
khăn.
Nhiều người trong họ có cấp bực
quan lại, một sự kiện được tuyên cáo bởi
thẻ ngà voi trang đeo ở phần ngực của họ.
CHIẾC NÓN BẮC KỲ CỦA BÀ TA LÀM THÀNH MỘT DÙ CHE TỐT
Nón
đội đầu tỏa rộng thường làm bằng
lá dừa và tre, và phải được buộc thắt một
cách chắc chắn, ở cả
hai bên phải và bên trái, để
giữ phần chóp nón thoải mái của nó tựa lên trên
đầu quấn khăn.
CÁC MỎ THAN CUNG CẤP VIỆC LÀM CHO 30,000 CÔNG NHÂN
Đông
Dương sản xuất hàng năm gần 2,000,000 tấn
thập phân than đá, phần lớn trong đó đến
từ việc khai thác lộ thiên rộng lớn tại
vùng lân cận Vịnh Hạ Long. Các bực thang than đá
lộ thiên tại Hatou [?], cách Ḥn Gay ít dặm Anh (xem bài viết,
trang 199).
CÁC THUYỀN ĐÁNH CÁ CÓ CÁNH BUỒM CHẮP NỐI CHẠY ĐUA TRƯỚC CƠN GIÓ MÙA HIU HIU
Hàng
trăm chiếc thuyền bản xứ ngoạn mục,
trang bị bằng cả dây và lưới câu, hàng ngày
lướt sóng
tại Vịnh Hạ
Long đi t́m cá chen chúc ở đó (xem các h́nh, trang 184)
CÁC NGƯỜI CHẠM KHẮC GỖ Ở ĐỒNG HỚI LÀ CÁC NGHỆ NHÂN LĂO LUYỆN
Mặc
dù xưởng làm việc của họ chỉ là một
chái không cửa và phần lớn dụng cụ do họ
làm lấy, các nghệ nhân này sản xuất
ra các sản phẩm
chạm trỗ tuyệt hảo, chứa đựng các kiểu
thiết kế tinh xảo và phức tạp (cũng xem Bảng
Chụp Màu XIII)
Quá Đồng Hới khoảng 45 dặm Anh, đường đi leo lên đến một cao điểm nh́n xuống biển, trên đó hiện ra Ải An Nam (Port d’Annam) cũ. Biên cương An Nam không c̣n ở cửa ải này nữa, nhưng vượt quá nơi này, có một sự thay đổi về y phục với quần màu đen của phụ nữ Trung Kỳ thành trang phục với váy màu nâu, không gọn ghẽ của dân Bắc Kỳ. Khuôn mặt quyến rũ và vóc dáng mảnh mai của dân Trung Kỳ nhường chỗ cho các đường nét nặng nề hơn, đen đúa hơn, không có nét đẹp, và cho thân xác béo lùn hơn. Các chiếc nón có h́nh mũ nấm rộng của Trung Kỳ cũng trải qua sự biến thể trở thành các chiếc nón bằng lá dừa phẳng rộng hơn nữa, trông giống như các khay uống trà h́nh tṛn úp ngược với vành nón rộng ba phân Anh (inch) (xem trang 188).
Người dân Bắc Kỳ th́ siêng năng hơn dân chúng của Trung Kỳ, và cũng vậy, hàng trăm người trong họ với các khối hàng hóa nặng nề đánh nhịp trên các chiếc đ̣n gánh ngang vai, luôn luôn rảo bước trên đường và khắp các cánh đồng.
Trên đường đi nơi đồng hồ chỉ tốc độ của chúng tôi đôi khi lên tới 60 dặm Anh một giờ, các người đàn ông vẫn c̣n đẩy các chiếc xe cút kít kêu ầm ĩ, như tổ tiên của họ đă làm trên lối đi bộ của Con Đường Cái Quan. Giờ đây không có các chiếc vơng hay kiệu, nhưng thay vào đó, các chiếc xe kéo tay được dùng cho các chuyến di hành dài xuyên suốt xứ sở.
Vinh và hải cảng gần kề của nó, Bến Thủy, thực hiện việc mậu dịch đáng kể. Lùi vào các đồi núi là các đồn điền trà và cà phê rộng lớn. Các nơi trồng cây dâu cũng nằm rải rác khắp Bắc Kỳ để nuôi các con tằm trong kỹ nghệ dệt lụa bản xứ khá lớn.
Phía bắc của Vinh là một vùng đất rộng với các khối đá lớn có h́nh thể kỳ lạ đâm gần như thẳng góc từ dải đồng lúa xanh tươi. Các cấu h́nh này trải dài xuyên qua miền bắc bắc Kỳ tới Trung Hoa, nhưng đẹp nhất là phía bắc của Hải Pḥng, nơi chúng tạo thành Vịnh Hạ Long kỳ dị.
Sau cùng chúng tôi đến Hà Nội, nằm trên các bờ sông Koi [Cải], hay sông Hồng, trung tâm của một đồng bằng lúa gạo phù sa bao la.
Dupuis, trong năm 1872, trương một lá cờ Trung Hoa, cho các thuyền của ông ta lên xuống con sông này, trong khi người dân An Nam ném các chiếc pháo lên các sàn tàu để đốt cháy chúng, và chính v́ thế, kiềm giữ ông ta mở đường buôn bán với Vân Nam. Nơi đây, Đại Úy Senez đă không thành công trước đó; nơi đây, cũng thế, Garnier đă đến để tận hưởng chiến thắng tạm thời trước khi anh ta bị hạ sát; cùng nơi đây, Rivière và binh sĩ của ông đă bị đánh bại bởi người An Nam và “quân Cờ Đen” của Trung Hoa, trước khi Bắc Kỳ bị thua trận trước mậu dịch của Pháp.
KHI TRỜI ĐỔ MƯA TẠI ĐÔNG DƯƠNG
Tại Đông Dương khi trời mưa, nó đổ mưa, các con sông dâng lên hết mức, và toàn thể đất đai bị ngập lut và biến mất. Các trận băo từ Biển Trung Hoa (China Sea) [sic] đến xé nát khắp bờ biển và nhiều ngôi làng dưới Con Đường Cái Quan bị thổi hay cuốn trôi đi mất, bản thân con đường thường bị hư hỏng.
Nhưng những trận lụt là mối kinh hăi chính yếu của Hà Nội. Sông Hồng luôn luôn là một sự đe dọa bởi các khối lượng nước vĩ đại đổ xuống nó trong suốt mùa mưa. Các bờ sông được đắp đê cao ngang tầng thứ nhất của các cửa hiệu, và trong suốt các trân lụt, lính tuần cảnh canh chừng các sự vỡ đê có thể xảy ra.
Một cầu dành cho đường xe hỏa và xe hơi dài nửa dặm Anh bắc ngang con sông dành cho sự lưu thông phía bắc thành phố.
Hà Nội, với dân số hơn 140,000, có nhiều ṭa nhà đẹp đẽ và quyến rũ hơn Sàig̣n. Giữa thành phố có một hồ nhỏ, với một ngôi đền nhỏ dựng lên giữa hồ. Các cô gái bán hoa xếp hàng dọc theo lối đi bộ gần cuối hồ, bán các hoa cẩm chướng, hoa hồng, và hoa huệ, cũng như nhiều
KIẾN TRÚC AN NAM ĐI THEO THIẾT KẾ TRUNG HOA TRUYỀN THỐNG
Bởi
An Nam đă tiếp xúc với ảnh hưởng Trung Hoa
cho một thời kỳ hơn 23 thế kỷ, nhiều
thời bị kiềm chế như một nước triều
cống, sinh hoạt
và nghi lề triều đ́nh của nó
bị khuôn đúc nặng nề bởi Trung Hoa, y như kiến
trúc của cổng ṿng trong dẫn đến các Hoàng Cung tại
Huế.
MỘT CÔNG CHÚA HOÀNG TỘC TẠI HUẾ
Từng
thước vải màu xanh khổ một phân Anh được
ṿng quanh đầu của bà để tạo thành chiếc
mũ rộng, phẳng, trong giống như khăn quấn.
Bà có quyền, nếu muốn, đội khăn màu vàng của
hoàng gia bởi cả cha và anh của bà đă lên ngôi vua An
Nam.
CON GÁI HOÀNG TỘC AN NAM
MỘT NỮ DIỄN VIÊN MANG TRANG PHỤC CỦA MỘT VAI NAM
CÁC VĂN QUAN VÀ VƠ QUAN PHỤC VỤ TRIỀU Đ̀NH
Các
trang phục bằng lụa thêu hoa văn được mặc
bởi các nhà quư tộc này làm gợi nhớ các thời trị
v́ của nhà Minh, khi ảnh hưởng của Trung Hoa
ở
mức độ lớn nhất tại An Nam. Nhân vật
đứng bên trái được xác định là một
văn quan bởi chiếc mũ học giả có cánh chuồn,
trong khi các người ở bên phải là các vơ quan. Một
bên th́ thông thạo kinh điển, bên kia về nghệ thuật
chiến tranh.
CÁC ĐỆ TỬ CỦA KHỔNG TỬ LÀ TẬP ĐOÀN ĐÔNG ĐẢO TẠI TRUNG KỲ
Gần
ngôi đ́nh này trong sân của Văn Miếu, ṭa nhà thờ
Khổng Tử, là các bia dành cho Nhà Hiền Triết
Trung Hoa và
12 đệ tử phụ tá của ông. Các lễ cúng
được cử hành tại đây hai lần mỗi
năm.
Gần đó, một ngôi chùa cáo vươn lên để
đạt được một tầm nh́n tuyệt hảo
ḍng sông Hương uốn khúc quanh co.
CÁC SẢN PHẨM CỦA MỘT XƯỞNG CHẠM KHẮC GỖ TRUNG KỲ
Các
b́nh phong, hộp, khay và các đồ vật tuyệt diệu
khác được sản xuất bởi công tŕnh kỹ
lưỡng của các nghệ nhân thủ công
tại một
cơ xưởng, được điều khiển bởi
người phụ nữ trẻ này và chồng bà ta, tại
Đồng Hới.
CÁC THẦN CANH GÁC VĂN MIẾU MẶC ÁO CHOÀNG RỰC RỠ
Một vị quan trẻ tuổi đứng bên cạnh một trong 12 tượng canh gác cho Văn Miếu tại vùng chung quanh Huế (xem Bảng Chụp Màu XII)
CÁC CHIẾC NÓN CHE NẮNG RỘNG VÀNH BẢO VỆ CÁC CÔNG NHÂN KHỎI TIA MẶT TRỜI NHIỆT ĐỚI
Lịch
làm việc của người dân Trung Kỳ và bắc Kỳ
bắt đầu từ buổi b́nh minh và kéo dài măi đến
tối.
Các nông dân cần cù này đă khai khẩn gần hết
đất đai khả canh tại xứ sở bị bao
quanh bởi núi và biển của họ.
CÁC NỮ SINH ƯA THÍCH DU HÀNH DĂ NGOẠI
Như
một cử chỉ của t́nh hữu nghị và lời
chào hỏi các nữ sinh độc giả tạp chí
National Geographic Magazine,
các nữ sinh này của một
trường sư phạm tại Huế đă đồng
ư cho phép chụp một bức ảnh.
CÁC TÚP LỀU VÁCH BÙN MÁI TRANH CỦA DÂN THỔ NHÔ CAO TRÊN CÁC SƯỜN ĐỖI RẬM RẠP
Trong
khi người dân Bắc Kỳ canh tác các cánh đồng Bắc
Kỳ, dân Thổ sơ khai khai phá các khu vực thuộc các
vùng đất đồi màu đỏ trên cao.
Người
Thổ là các thành viên của chủng tộc Tai (Thái), trong
đó gồm các sắc dân Lào, Xiêm la, và Shan)
SINH HOẠT GIA Đ̀NH TH̀ ĐƠN GIẢN TRONG GIỐNG DÂN MỌI
Chỉ
cần các tấm vải hạn chế và sinh sống trong
các ngôi nhà tre mái tranh, dân Mọi kiếm sống bằng việc
săn bắn và
phá rừng làm rẫy tại các ngọn
đồi của miền nam Trung Kỳ (cũng xem, Bảng
Chụp Màu VII)
loại hoa nhiệt đới khác nữa. Tại khu dân bản xứ của thành phố có các con đường hấp dẫn dành cho các nhà buôn lụa, đồ đồng thau, đồ gỗ chạm khắc, và các món đồ khảm xà cừ.
Sáu mươi dặm bằng đường xe hỏa hay xe hơi chạy ngang qua đồng bằng từ Hà Nội đến Hải Pḥng, cửa ngơ xuất hàng thương mại ra biển cho xứ Bắc Kỳ và cho Vân Nam Phủ, Trung Hoa. Thị trấn hải cảng phồn thịnh này gồm 76,000 cư dân tọa lạc trên con sông cách biển 13 dặm và được xây dựng trên các đầm lầy trồng lúa trước đây.
Từ Hải Pḥng, chúng tôi đi xe hơi theo bờ biển đến Ḥn Gay, nơi tàu vận tải cho các khu vực mỏ than rộng lớn. Một số mỏ có các vảy than dầy lộ thiên, và hàng trăm phu thợ được tuyển dụng trong các hoạt động khai khoáng tại các quảng trường lộ thiên bao la đầy than đen (xem trang 188)\.
MỘT CUỘC DU NGOẠN BẰNG TÀU TUYỆT DIỆU
Tại Ḥn Gay, chúng tôi đă thuê khoán một chiếc thuyền buồm nhỏ, chiếc Paulette, được trang bị với một đông cơ phụ lực, dùng nó để thăm viếng Vịnh Hạ Long có các động đá rải rác khắp nơi. Chúng tôi bỏ lại sau lưng các lo toan và du ngoạn vào một thế giới tuyệt diệu. Phóng nhanh dưới khí trời gió mùa thật mát mẻ, chúng tôi luồn lách ra vào giữa một đoàn hàng trăm chiếc thuyền đánh cá lái bằng các cánh buồm chắp vá bằng nhiều mảnh vải với nhau đang kéo lưới trong vịnh mở ngỏ.
Sau đó chúng tôi đi ngang qua các cấu h́nh đá vĩ dại có h́nh giống như ngón tay chỉ lên trời. Hàng ngh́n đảo đá vôi nhỏ thẳng đứng thực sự mọc lên từ làn nước xanh khắp Vịnh Hạ Long và Vịnh Fai Tsi Long (Bái Tử Long?) ở phía bắc. Chúng tạo thành các chuỗi hạt trang sức treo lủng lẳng phía đàng sau mũ có đỉnh cao của người đàn bà trong bản đồ của chúng ta (xem trang 184).
Thiên nhiên đă đùa dỡn với các tṛ chơi kỳ lạ nơi đây. Có các chiếc cầu với ṿm mái ngay trên mặt nước, vô số lối dẫn vào hẹp, ẩn dấu và nhiều hang động giữa các núi đá. Chẳng phải là một nơi chốn náu thật thuận lợi cho các hải tặc Trung Hoa ngày xưa hay sao!
Trong nhiều tiếng đồng hồ, chúng tôi du ngoạn bằng thuyền vào vùng đất thần tiên huyền diệu, chơi tṛ trốn t́m giữa vô số các tháp đá màu xám có hàng ngh́n h́nh thể huyễn hoặc, cho đến khi bóng đêm phủ chùm lên chúng tôi. Không nơi nào trên toàn thể thế giới mà tôi lại trải qua một cuộc du ngoạn bằng thuyền huyền ảo diệu kỳ đến thế.
Chúng tôi nghỉ qua đêm trên chiếc tàu Princess Turandot, một thuyền buồm đi biển của Trung Hoa được tân trang thả neo gần Đảo Sửng Sốt (Isle of Surprise), nơi chúng tôi được phục vụ cá tươi từ biển và tận hưởng những cú phóng ḿnh mát lạnh vào làn nước bồi bổ sức khỏe.
Đă đến lúc để chúng tôi quay về, nhưng không phải lúc để có một luồng gió thổi căng cánh buồm. Động cơ thuyền sẽ không khởi động. Do đó, trong khi thợ máy sửa chữa, tôi nằm trên sàn gối đầu trên một cuộn dây thừng, và, giống như một cậu bé học tṛ, vắt chân lên trên thành tàu và thơng bàn chân trần của tôi đong đưa trong làn nước, trong những giây phút mơ màng, tôi mang thân ḿnh đến cư ngụ giữa các ṭa lâu đài bằng đá. Các bạn đồng hành của tôi câu cá hay đọc sách.
Từ lối đi trên biển này, nơi các dương thuyền Trung Hoa từ lâu qua lại mua bán, nơi các hải tặc Trung Hoa từng ẩn náu, và ngay thời điểm này vẫn c̣n làm một ít chuyện buôn lậu bất chính, chúng tôi rời đi trong chặng cuối cùng đến Cửa Ải Trung Hoa bằng con đường bộ xưa cũ.
Tại Bắc Ninh, chúng tôi trở lại Con Đường Thuộc Địa Số 1, sau lối rẽ vào Hải Pḥng và Vịnh Hạ Long, rồi sau đó đi xe hơi về hướng bắc, xuyên qua các khu vườn và các quăng rừng, vào vùng đồi núi đất sét đỏ, ngang qua đồn quân sự ở Lạng Sơn, và trên đường tới biên giới Đông Dương.
“ẢI TRUNG HOA”, TẠI BIÊN CƯƠNG PHÍA BẮC CỦA ĐÔNG DƯƠNG
Nơi
mà Con Đường Cái Quan cũ tiến vào Trung Hoa, nó
xuyên qua ṿm cung của Cổng Trung Hoa.
Các bức tường
đá nối dài từ cổng ở mỗi bên vươn
tới các ngọn đồi bao quanh thung lũng hẹp này
Người dân Bắc Kỳ bám lấy các vùng châu thổ bằng phẳng, rộng lớn, để lại các khu đồi núi được canh tác bởi dân bộ lạc người Thổ mặc quần áo màu xanh. Người Thổ là một nhánh của đại chủng tộc Thái, trong đó có các sắc dân Shans, Lào, Xiêm La, và nhiều nhóm tại miền nam Vân Nam (xem Bảng Màu XV).
Trên con đường uốn khúc không thôi, cách Lạng Sơn khoảng 13 dặm Anh, chúng tôi đánh xe quay tṛn một đường ṿng, và hiện ra trước mắt chúng tôi là Cửa Ải Trung Hoa (Porter de Chine), với các bức tường bằng đá của nó, giống như những con rồng Trung Hoa, uốn lượn, ḅ lên mỗi cạnh của các ngọn đồi (xem Bảng Chụp Màu XVI).
Chưa đầy nửa thế kỷ trôi qua kể từ khi vị chúa tể An Nam phái các quan lại mang các tặng phẩm triều cống đến triều đ́nh Măn Châu và yêu cầu sự trợ giúp quân sự mà “Quân Cờ Đen”, qua cửa ngơ này, đă cố gắng chuyển giao sau này; nhưng, trong các sự thay đổi mau lẹ, toàn diện của các chính phủ, sự huy hoàng hoàng triều của Bắc Kinh c̣n tệ hại hơn những ǵ nó có tại Huế.
Các binh sĩ phe dân tộc chủ nghĩa hiện đứng gác tại tiền đồn biên cương này, và trong khi các bạn đồng hành của tôi, với một tài năng ngôn ngữ, đối thoại với nhóm lính canh trẻ tuổi đang làm bổn phận. Tôi đă chụp các bức ảnh của các bức tường và các cổng ải cho đến khi một bầu trời trĩu nặng tuôn xuống một trận mưa thật to.
Chúng tôi đă vươn tới Cửa Ngơ của Trung Hoa trên Con Đường Cái Quan dài, con đường đất cổ xưa nối kết giữa An Nam, Vùng Đất Phương Nam Siêu Việt, và nước chủ tể lâu đời của nó, Trung Hoa Đế Quốc./-
___
* Xem bài “The Four Faces of Siva: The Mystery of Angkor”, của Robert J. Casey, trong Tạp Chí National Geographic Magazine, số Tháng Chín, 1928.
* Xem bài “Among the Hill Tribes of Sumatrá của W. Robert Moore, trong Tạp Chí National Geographic Magazine, số Tháng Hai, 1930.
_____
Nguồn: W. Robert Moore, Along the Old Mandarin Road of Indo-China, with 33 illustrations; Under the French Tricolor in Indo-China, 28 Natural Color Photographs, The National Geographic Magazine, August, 1931, các trang 157-199.
Ngô Bắc dịch và phụ chú
23.05.2016
http://www.gio-o.com/NgoBac.html
© gio-o.com 2016