Cơ Quan Thông Tin Năng Lượng Hoa Kỳ
U.S. Energy Information Administration
NĂNG LƯỢNG TẠI
BIỂN NAM TRUNG HOA
(cập nhật tới ngày 7 Tháng Hai, 2013)
Ngô Bắc dịch
Tổng Quan
Biển Nam Trung Hoa là một hải lộ mậu dịch thế giới trọng yếu và một nguồn chất hydrocarbon tiềm năng, đặc biệt hơi đốt thiên nhiên, với các sự tuyên nhận tranh giành nhau về quyền sở hữu trên biển và các tài nguyên của nó.
Trải dài từ Singapore và Eo Biển Malacca tại phía tây nam đến Eo Biển Đài Loan ở phía đông bắc, Biển Nam Trung Hoa là một trong những tuyến đường mậu dịch quan trọng nhất trên thế giới. Biển này giàu tài nguyên và nắm giữ tầm quan trọng chính trị và chiến lược đáng kể.
Khu vực bao gồm vài trăm ḥn đảo nhỏ, băi đá, rạn san hô, với đa số tọa lạc tại các chuỗi đảo Paracel (Hoàng Sa) và Spratly (Trường Sa). Nhiều đảo trong số các đảo này một phần ch́m dưới mặt nước, các khối đất đai không thích hợp cho sự cư trú và không kém pha6`n nguy hiểm cho sự chuyên chở bằng tàu. Thí dụ, tổng số diện tích mặt đất của các đảo ở Spratly chưa gom đầy 3 dặm vuông.
Vài nước giáp ranh với biển tuyên bố quyền sở hữu chủ các ḥn đảo để tuyên nhận biển bao quanh và các nguồn tài nguyên của nó. Vịnh Thái Lan giáp ranh với Biển Nam Trung Hoa, và mặc dù về mặt kỹ thuật không phải là một phần của biển này, cũng có các sự tranh chấp chung quanh Vịnh đó và các nguồn tài nguyên của nó.
Sự tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ của Á Châu nâng cao nhu cầu năng lượng trong vùng. Cơ Quan Thông Tin Năng Lương Hoa Kỳ (U.S. Energy Information Administration: EIA) dự phóng tổng số tiêu thụ nhiên liệu lỏng tại các nước Á Châu bên ngoài Tổ Chức Hợp Tác và Phát Triển Kinh Tế (Organization for Economic Cooperation and Development: OECD) vươn lên tỷ số tăng trưởng hàng năm là 2.6 phần trăm, gia tăng từ khoảng 20 phần trăm trong số tiêu thụ thế giới trong năm 2008 lên hơn 30 phần trăm số tiêu thụ của thế giới vào năm 2035. Tương tự, số tiêu thụ khí đốt thiên nhiên của Á Châu ngoài khối OECD gia tăng 3.9 phần trăm hàng năm, từ 10 phần trăm số tiêu thụ khí đốt thế giới trong năm 2008 lên 19 phần trăm vào năm 2035. Cơ Quan EIA ước định Trung Quốc chiếm 43 phần trăm số gia tăng đó.
Với sản lượng dầu hỏa nội địa Đông Nam Á được dự phóng sẽ giữ nguyên hay sút giảm trong khi số tiêu thụ lên cao, các nước trong vùng sẽ đi t́m các nguồn năng lượng mới để thỏa măn nhu cầu nội địa. Trung Quốc đặc biệt cổ động sự sử dụng hơi đốt thiên nhiên như nguồn năng lượng ưu tiên và đặt ra một mục tiêu nhiều tham vọng là muốn gia tăng phần của hơi đốt thiên nhiên trong hỗn hợp năng lượng của nó từ 3 phần trăm lên 10 phần trăm vào năm 2020. Biển Nam Trung Hoa mang lại tiềm năng cho các sự khám phá hơi đốt thiên nhiên quan quan trọng, tạo ra một sự kích thích để chiếm giữ các phần lớn hơn của khu vực cho sự sản xuất nội xứ.
Bản Đồ 1
Các Trữ Lượng và Các Nguồn Tài Nguyên
Cơ Quan EIA ước lượng Biển Nam Trung Hoa chứa khoảng 11 tỷ thùng dầu và 190 trillion [tại Mỹ là 1 ngh́n tỷ, chú của người dịch] bộ khối (cubic feet) hơi đốt thiên nhiên tại các mỏ đă được chứng minh và khả hữu. Các chất hydrocarbon quy ước phần lớn tọa lạc tại vùng không bị tranh chấp.
Thật khó khăn để xác định khối lượng dầu hỏa và khí đốt thiên nhiên tại Biển Nam Trung Hoa bởi sự thiếu thăm ḍ và các sự tranh chấp lănh thổ. Phần lớn các vùng mỏ đă được khám phá hiện nay tập họp tại các phần không có tranh chấp về biển, gần bờ biển của các nước duyên hải. EIA ước lượng có khoảng 11 tỷ thùng (billion barrels: bbl) của số dự trữ dầu hỏa và 190 triilion bộ khối *trillioncubic feet: Tcf) của trữ lượng hơi đốt thiên nhiên tại Biển Nam Trung Hoa. Các con số này đại diện cho cả trữ lượng đă được chứng minh lẫn khả hữu, khiến chúng gần hơn số ước lượng ở đầu mút trên cao. Thí dụ, Cơ Quan tư vấn năng lượng Wood Mackenzie ước lượng biển này chỉ chứa tương đương 2.5 tỷ thùng dầu trong trữ lượng dầu và khí đốt đă được chứng minh.
Ngoài các khoản dự trữ đă được chứng minh và khả hữu, Biển Nam Trung Hoa có thể có các chất hydrocarbon bổ túc tại các khu vực thiếu thăm ḍ. Cơ Quan Khảo Sát Địa Chất Hoa Kỳ (U.S. Geological Survey: USGS) có phân tích tiềm năng cho các vùng mỏ dầu và hơi đốt quy ước chưa được khám phá trong phạm vi vài khu vực địa chất của Đông Nam Á trong năm 2010 như một phần trong Dự Án Lượng Định Các Nguồn Tài Nguyên Dầu Hỏa Thế Giới của nó. Cuộc nghiên cứu có bao gồm một khu vực đáng kể của Biển Nam Trung Hoa, nơi Cơ Quan USGS ước lượng có thể chứa trong khoảng từ 5 đến 22 tỷ thùng dầu và trong khoảng từ 70 đến 290 trillion bộ khối hơi đốt tại các nguồn tài nguyên vẫn chưa được khám phá (không kể Vịnh Thái Lan và các khu vực kề cận khác với Biển Nam Trung Hoa). Các nguồn tài nguyện bổ sung này không được xem là các khoản trữ lượng thương mại vào lúc này bởi không rơ tính khả thi thương mại nó sẽ ra sao để trích xuất chúng.
Bởi sự giám định của USGS không khảo sát toàn thể khu vực, các nguồn tài nguyên chưa được khám phá có thể lớn hơn. Trong Tháng Mười Một 2012, Công Ty Dầu Hỏa Ngoài Khơi Quốc Gia Trung Quốc (Chinese National Offshore Oil Company: CNOOC) đă ước lượng khu vực chứa khoảng 125 tỷ thùng dầu hỏa và 500 trillion bộ khối hơi đốt thiên nhiên tại các nguồn tài nguyên chưa được khám phá, tuy thế các cuộc nghiên cứu độc lập chưa xác nhận con số này.
Bảng 1, Các Nguồn Tài Nguyên Hơi Đốt Thiên Nhiên
Chưa Được Khám Phá Của Thế Giới, 2012
Bảng 2: Các Nguồn Tài Nguyên Dầu Hỏa
Chưa Được Khám Phá Của Thế Giới, 2012
Các Khu Vực Không Bị Tranh Chấp
Đa số các mỏ dự trữ hiện thời hiện diện tại các lưu vực nước nông ở các ranh giới của biển. T́nh trạng này phản ảnh sự thăm ḍ hạn chế của các khu vực nước sâu. Việt Nam, Mă Lai, và Brunei có một lịch sử lâu dài của sự phát triển tại Biển Nam Trung Hoa. Thiếu tiềm năng trên bờ đáng kể, họ đă đầu tư vào kỹ thuật ngoài khơi, các mạng lưới ống dẫn, và khoan dầu; các đối tác ngoại quốc thường cung cấp phần chuyên môn. Kết quả, các nước này có các số dự trữ dầu hỏa và hơi đốt cao nhất tại biển.
Tuy nhiên, trong ít năm qua, các công ty đă khởi sự mạo hiểm ngoài khơi xa hơn trong một nỗ lực t́m kiếm các vùng khám phá mới hầu bù đắp cho các vùng mỏ suy giảm. Các sự khám phá tương đối gần đây chẳng hạn như mỏ hơi đốt Liwan 3-1 của Trung Quốc, được khám phá trong năm 2006, cho thấy tiềm năng của sự thăm ḍ nước sâu. Các công ty dầu hỏa quốc doanh của Trung Quốc đă xây dựng trên các sự thành công ban đầu tại lưu vực Cửa Sông Châu Giang (Pearl River Mouth Basin) và đang mở rộng một cách mau chóng hoạt động ngoài khơi trong một nỗ lực t́m kiếm các số dự trữ mới và gia tăng sản xuất.
Thay v́ toan tính các hoạt động thăm ḍ và sản xuất (exploration and production: E&P) đơn phương tại lănh vực tranh chấp, vài nước đă lựa chọn để hợp tác tại Biển Nam Trung Hoa. Mă Lai và Brunei đă giải quyết các sự tranh chấp lănh thổ trong năm 2009 và đă hợp tác để thăm ḍ ngoài khơi hải phận Brunei. Thái Lan và Việt Nam đă cùng nhau phát triển các khu vực của Vịnh Thái Lan, bất kể các sự tranh chấp lănh thổ đang tiếp diễn. Các trường hợp thành công này tương phản với các phần của Biển Nam Trung Hoa bị tranh giành bởi nhiều bên, nơi chỉ nh́n thấy ít sự phát triển năng lượng.
Số Ước Lượng Dự Trữ Đă Được Chứng Minh Và Khả Hữu tại Biển Nam Trung Hoa
Tên Nước Trữ Lượng Dầu Thô và Chất Lỏng Trữ Lượng Hơi Đốt Thiên Nhiên
(tỷ thùng) (ngh́n tỷ bộ khối)
Brunei 1.5 15
Trung Quốc 1.3 15
Indonesia 0.3 55
Mă Lai 5.0 80
Phi Luật Tân 0.2 04
Đài Loan ---- ----
Thái Lan ---- ----
Việt Nam 3.0 20
Tổng cộng 11.2 190
Ghi Chú: Tổng số trữ lượng không gồm các trữ lượng của Vịnh Thái Lan hay trên bờ.
Các số dự trữ ước lượng được dựa trên quy chế quyền sở hữu vùng mỏ.
Nguồn: Cơ Quan Thông Tin Năng Lượng Hoa Kỳ, Oil & Gas Journal, HIS, CNOOC, PFC Energy
Lănh Vực Tranh Chấp
Quần Đảo Spratly (Hoàng Sa)
Cơ Quan EIA ước lượng vùng chung quanh Quần Đảo Spratly thực sự không có trữ lượng dầu hỏa được chứng minh hay khả hữu. Các nguồn tin trong kỹ nghệ nêu ư kiến rằng chưa đến 100 tỷ bộ khối trữ lượng hơi đốt thiên nhiên khả dĩ khai thác kinh tế hiện thời hiện hữu tại các vùng mỏ chung quanh. Tuy nhiên, lănh vực Đảo Trường Sa (Spratly Island) có thể chứa các mỏ đáng kể của chất hydrocarbon chưa được khám phá. Các sự lượng định của USGS ước lượng trong khoảng từ 0.8 đến 5.4 (trung b́nh cộng là 2.5) tỷ thùng dầu và trong khoảng từ 7.6 đến 55.1 (số trung b́nh cộng là 25.5) Tcf hơi đốt thiên nhiên trong các nguồn tài nguyên chưa được khám phá.
Các bằng chứng khiến liên tưởng rằng phần lớn các nguồn tài nguyên này nhiều phần tọa lạc tại Cồn Cát Reed Bank ở đầu cực đông bắc của Quần Đảo Spratly, nơi được tuyên nhận bởi Trung Quốc, Đài Loan và Việt Nam. Phi Luật Tân bắt đầu thăm ḍ khu vực này trong năm 1970 và đă khám phá ra hơi đốt thiên nhiên trong năm 1976. Công ty Sterling Energy đặt trụ sở tại Hoa Kỳ đă giành được đặc nhượng trong năm 2002, và công ty Forum Energy đặt trụ sở tại Anh Quốc đă thụ đắc đặc nhượng khai thác trong năm 2005 và đă khởi sự các hoạt động của nó. Tuy nhiên, các sự phản đối của Trung Quốc đă ngăn chặn sự phát triển thêm, và đặc nhượng chưa được khai triển.
Quần Đảo Paracel
Lănh vực Quần Đảo Paracel không có các mỏ hơi đốt và dầu hỏa quy ước được khám phá và chính v́ thế không có các trữ lượng được chứng minh hay khả hữu. Bằng chứng địa chất khiến ta nghĩ rằng khu vực này không có tiềm năng đáng kể về chất hydrocarbon quy ước.
Sự Thăm Ḍ và Sản Xuất
Biển Nam Trung Hoa đặt ra các vấn đề sâu rộng về địa chất, kỹ thuật và nguồn tài nguyên.
Trong khi các công ty dầu hỏa quốc doanh (national oil companies: NOCs) đă thành công trong việc xuất trích chất hydrocarbon gần các bờ biển của Biển Nam Trung Hoa, phần lớn khu vực bị đặt trước các sự thách đố làm nản ḷng sự phát triển. Ngoài các sự tranh chấp địa chính trị, các khu vực biển tranh chấp đối diện với các sự quan tâm về địa chất và kỹ thuật.
Cơ Quan EIA ước lượng Biển Nam Trung Hoa sẽ khả quan như một nguồn hơi đốt thiên nhiên hơn là một nguồn dầu hỏa, như thế các nhà sản xuất sẽ phải xây dựng các ống dẫn dưới biển tốn kém để mang hơi đốt đến các cơ sở biến chế. Các thung lũng dưới biển và các luồng nước mạnh nêu ra các vấn đề địa chất đáng sợ cho hạ tầng cơ sở hơi đốt nước sâu hữu hiệu. Vùng này cũng có khuynh hướng chịu các trận băo nhiệt đới và giông tố, loại trừ các giàn sản xuất và khoan cứng rẻ tiền hơn. Các nguồn tin trong ngành kỹ nghệ nêu ra các sự canh tân trong việc khoan tại vùng nước sâu được tiên phong khắp Vịnh Mexico như các mô h́nh cho việc phát triển Biển Nam Trung Hoa, kể cả việc buộc chân kéo căng của các cơ sở thiết bị sản xuất và vận dụng việc khoan áp suất để hoạt động tại môi trường nước sâu nhiều áp lực. Các NOC đă hợp tác với các công ty quốc tế để cung cấp kỹ thuật và trang thiết bị cho việc thăm ḍ và các hoạt động khoan vùng biển sâu.
Sản Lượng Chất Hydrocarbon Quy Ước Được Ước Lượng Tại Biển Nam Trung Hoa
Sản Lượng Ước Lượng tại Biển Nam Trung Hoa (2011)
Nước Sản Lượng Ước Lượng Các Khu Vực Công ty kết ước & hoạt động
Dầu Hỏa Hơi đốt thăm ḍ & sản Công Ty Xí Nghiệp
1000 thùng/ tỷ bộ khối/ xuất chính quốc doanh nước ngoài
ngày ngày
Brunei 120 400 Baram Delta Petroleum BHP Billiton, ConocoPhillips,
BRUNEI Hess Corp., Kulczyk Oil
Ventures, Mitsubishi Corp.,
Murphy Oil, PETRONAS,
Polyard Petroleum, GAF
Brunei, Shell, Total
Trung Quốc 250 600 Lưu Vực Cửa Sông Châu CNOOC BG Group, BP, Chevron,
Giang; Lưu Vực Nam Sinopec ConocoPhillips, Eni,
Quỳnh Đông CNPC ExxonMobil, Husky,
Newfield, Shell, Total
Indonesia 60 200 Lưu Vực Natuna PT PetroChina, Chevron, CNPC,
Pertamina ConocoPhillips, Eni, Husky,
(Persero) ExxonMobil, PETRONAS,
KUFPEC, Santos, Statoil,
Total
Mă Lai 500 1,800 Lưu Vực Sabah, Sarawak, PETRONAS Lundin, BHP Billion, Hess,
Mă Lai (với Thái Lan) ConocoPhillips, KUFPEC,
ExxonMobil, MDC O&G,
Murphy Oil, Newfield, Roc
Oil, Nippon, Petrofac, Shell,
Talisman Energy
Phi Luật Tân 25 100 Lưu Vực Palawan PNOC ExxonMobil, Shell
Thái Lan --- --- Vịnh Thái Lan, Lưu Vực PTTEP BG Group, Chevron, Shell
Mă Lai (với Mă Lai)
Việt Nam 300 300 Lưu Vực Cửu Long, Petro Zarubezhneft, ConocoPhillips,
Lưu Vực Nam Côn Sơn Vietnam KNOC, Premier Oil, PTTEP,
Santos, SK Corp., Geopetrol
--------------------------------------------------------------------------------
1. Sản lượng dầu gồm cả hơi đốt thiên nhiên lỏng hóa đặc nhẹ (lease condensate)
Nguồn; Cơ Quan Thông Tin Năng Lượng Hoa Kỳ, Oil & Gas Journal, HIS, CNOOC, PFC Energy
Brunei
Công Ty Dầu Hỏa Quốc Gia Brunei (PetroleumBRUNEI) quản trị các hoạt động ngoài khơi trong xứ sở, trong khi Brunei-Shell Petroleum, một liên doanh giữa Shell và chính phủ, là nhà sản xuất dầu thô độc nhất trong nước. Mỏ dầu hỏa và khí đốt ngoài khơi lớn nhất của Brunei được đặt tên là Champion bắt đầu sản xuất trong năm 1972. Mỏ hơi đốt Tây Nam Ampa chiếm đa số sản lượng hơi đốt thiên nhiên của đất nước và cung cấp cho nhà máy hóa lỏng hơi đốt thiên nhiên của Brunei tại Lumut.
Chính phủ đặt ưu tiên hoạt động thăm ḍ mới để đối phó với các mỏ lâu đời đang suy giảm. Sự thăm ḍ trở nên dễ dàng hơn kể từ khi Mă Lai và Brunei chính thức giải quyết sự tranh chấp lănh thổ ngoài khơi của hai nước hồi Tháng Ba 2009. PetroleumBRUNEI đă kết ước một cách thành công một thỏa ước ăn chia sản lượng (production sharing agreement: PSA) với công ty PETRONAS của Mă Lai. Hai công ty dầu hỏa quốc gia đă khởi sự khoan tại một vài vùng mỏ dầu và khí đốt ngoài khơi Brunei trong năm 2011 và đă đề nghị đầu tư một nhà máy hóa học dầu hỏa trên bờ để cung cấp cho các thị trường xuất cảng.
Trung Quốc
Cùng với một sự gia tăng trong sản lượng hơi đốt trên bờ, Trung Quốc tiếp tục tiến vào các khu vực nước sâu tại cửa sông Châu Giang và các lưu vực thuộc miền nam Quỳnh Đông (qiongdongnan) tại Biển Nam Trung Hoa. Ba công ty dầu hỏa quốc gia lớn nhất của nước này, Tổ Hợp Dầu Ngoài Khơi Quốc Gia Trung Quốc (China National Offshore Oil Corporation: CNOOC), Tổ Hợp Dầu Hỏa & Hóa Chất Trung Quốc (China Petroleum & Chemical Corporation: Sinopec), và Tổ Hợp Dầu Hỏa Quốc Gia Trung Quốc (China National Petroleum Corporation: CNPC), chịu trách nhiệm về việc phát triển các tài nguyên của Biển Nam Trung Hoa.
CNOOC có nhiều kinh nghiệm nhất về sự sản xuất dầu ngoài khơi và đă đầu tư nhiều nhất vào biển. Theo báo cáo hàng năm năm 2011 của nó, CNOOC đă sản xuất trung b́nh 193,000 thùng dầu mỗi ngày tại Biển Nam Trung Hoa trong năm đó. Các hoạt động tại Biển Nam Trung Hoa chiếm vào khoảng một phần ba sản lượng hàng ngày của CNOOC. Trong Tháng Năm 2011, công ty đă hoàn tất việc xây dựng giàn khoan CNOOC 981, giàn khoan dầu nước sâu tân tiến nhất của nước này, phí tổn khoảng 925 triệu mỹ kim. CNOOC có ư định dùng giàn khoan để gia tăng khả năng của Trung quốc nhằm phát triển các nguồn tài nguyên ngoài khơi tại Biển Nam Trung Hoa.
CNPC và Sinopec ít tích cực hơn trong khu vực này, nhưng cả hai công ty đánh giá cao tầm quan trọng của biển trong cả giai đoạn tiền sản xuất dầu (upstream) lẫn giao hàng (delivery). CNPC phần lớn nhắm vào các hoạt động khoan ngoài khơi tại Vũng Bột Hải (Bohai Bay), không thuộc Biển Nam Trung Hoa, mặc dù nó cũng cung cấp thiết bị khoan dầu ngoài khơi cho các công ty khác. Sinopec không đầu tư trực tiếp tại Biển Nam Trung Hoa, nhưng nó có bày tỏ sự chú ư đến việc khoan dầu nước sâu tại lưu Vực Miền Nam Quảng Đông ngoài khơi đảo Hải Nam.
CNOOC đă kư kết khế ước đầu tiên của nó với các công ty ngoại quốc về hoạt động ngoài khơi tại Biển Nam Trung Hoa năm 1983, cho phép các hăng BP, Petrobras, Petro-Canada, và BHP Billiton cùng khai triển vài lô tại Lưu Vực cửa sông Châu Giang. Trong những năm gần đây, CNOOC có thông báo các kế hoạch đầu tư để thăm ḍ Biển Nam Trung Hoa với các công ty ngoại quốc và có mở hàng tá các lô đầu thầu ngoài khơi. Trong năm 2011, CNOOC có đưa ra 19 lô đấu thầu, hầu hết tại Lưu Vực cửa sông Châu Giang thuộc Biển Nam Trung Hoa. Bất kể một vài sự chấp thuận cho thầu khai thác dành cho các xí nghiệp ngoại quốc, CNOOC đă không thể chuẩn cấp đa số các lô bởi có các sự tuyên nhận lănh thổ chồng chéo với Việt Nam và sự cung ứng hạn chế các dữ liệu địa chất.
Theo luật của Trung Quốc, CNOOC có thể sở đắc 51 phần trăm vốn trong bất kỳ liên doanh nào trong trường hợp có sự khám phá thương mại. Chevron và Eni đang làm việc với CNOOC trong Nhóm Các Hăng Hoạt Động CACT tại các mỏ dầu ngoài khơi của Biê%?n Nam Trung Hoa. CNOOC có kư kết một thỏa ước với công ty Husky Energy trong năm 2010 để hăng này thăm ḍ khám phá hơi đốt nước sâu tại lô Liuhua (LH 29-1) ở Lưu Vực sông Châu Giang. Husky cũng đă chấp thuận phát triển khu mỏ hơi đốt Liwan 3-1, đông nam Hồng Kông, được khám phá trong năm 2006, và là sự khám phá quan trọng đầu tiên của Trung Quốc tại Biển Nam Trung Hoa. Liwan có một trữ lượng được chứng minh và khả hữu vào khoảng từ 4 đến 6 ngh́n tỷ bộ khối (Tcf), và Husky ước tính xuất lượng lên tới 110 tỷ bộ khối (Billion cubic feet: Bcf) mỗi năm bắt đầu từ 2014. CNOOC chưa đưa ra bất kỳ kế hoạch nào về việc khoan tại khu vực tranh chấp thuộc Quần Đảo Spratly.
Indonesia
Các mỏ dầu sản xuất nhiều nhất và lâu đời nhất của Indonesia, kể cả các khu mỏ Duri và Minas, hầu hết tọa lạc ngoài khơi phía đông và nam đảo Sumatra, bên ngoài Biển Nam Trung Hoa. Tương tự, phần lớn các trữ lượng hơi đốt thiên nhiên tọa lạc gần khu mỏ Arun tại Aceh hay mỏ Bada tại phía đông Kalimantan, cũng nằm ngoài Biển Nam Trung Hoa. Ngoài ra, Indonesia cũng đang tái định hướng sự sản xuất dầu hỏa và hơi đốt để thỏa măn nhu cầu nội địa, thay v́ cho sự xuất cảng. Hậu quả, kỹ nghệ tiền sản xuất của Indonesia hiện nay đóng giữ một vai tṛ hạn chế trong sự sản xuất của Biển Nam Trung Hoa.
Cùng lúc, PT Pertamina, công ty dầu quốc gia của Indonesia, đă toan tính giành nhiều phần vốn hơn tại khu mỏ thuộc Biển Nam Trung Hoa, chẳng hạn như Lô D-Alpha của đảo Natuna và các lô ngoài khơi gần Việt Nam tại lưu vực Nam Côn Sơn. Công ty hy vọng bù đắp các mỏ đang suy giảm bằng các sự khám phá mới trong vùng xuyên qua sự thăm ḍ chung với Petro Vietnam và PETRONAS.
Mă Lai
Công ty Dầu Quốc Gia, PETRONAS , nắm giữ hầu hết các tích sản dầu hỏa và hơi đốt của đất nước và là công ty sản xuất hơi đốt và dầu hỏa nội địa lớn nhất của Mă Lai. Hệ thống Sự Dụng Hơi Đốt Bán Đảo (Peninsular Gas Utilization: PGU) của công ty, bao gồm sáu nhà máy biến chế và 1,500 dặm Anh ống dẫn, tạo thành một sự nối kết then chốt với sự phát triển hơi đốt ngoài khơi tại Biển Nam Trung Hoa. Mă Lai hy vọng mở rộng khả năng tái hóa hơi đốt (regasification) hơi đốt thiên nhiên hóa lỏng (LNG) của nó để thúc đẩy số xuất cảng đến các thị trường trong vùng.
Mă Lai có vài dự án nước sâu đồng xanh (greenfield) (có ngh́a, hiện không có hạ tầng cơ sở) với các công ty dầu quốc tế khởi diễn tại Biển Nam Trung Hoa tại các lưu vực Sabah và Sarawak mà nước này hy vọng sẽ bù đắp cho sản lượng nội địa đang suy giảm và góp phần vào các sự xuất cảng LNG trong vùng. Hăng Exxon Mobil là hăng sản xuất hơi đốt và dầu hỏa ngoại quốc lớn nhất của nước này, vào khoảng 50,000 thùng mỗi ngày, với các hăng Royal Dutch Shell và Hess tiếp tục đầu tư vào sự thu hồi dầu hỏa nâng câp (enhanced oil recovery: EOR) đối với các khu mỏ hiện hữu và việc khoan mới.
Mă Lai và Thái Lan đă thỏa thuận việc cùng phát triển một phần của Vịnh Thái Lan mà không có bên nào nhượng các quyền pháp lư của ḿnh. Khu Vực Cùng Phát Triển (Joint Development Area: JDA) này là một nguồn quan trọng trong các số xuất cảng hơi đốt của Mă Lai, được ước lượng sản xuất vào khoảng 1 Tcf trong năm 2012.
Phi Luật Tân
Hăng Shell điều hành giàn khoan hơi đốt Malampaya tọa lạc tại phía bắc lưu vực Palawan trong một liên doanh với hăng Chevron và Công Ty Dầu Hỏa Quốc Gia Phi Luật Tân (Philippine National Oil Company: PNOC). Việc khoan thương mại đă khởi sự trong Tháng Mười 2001 với một căn bản dự trữ là 2.7 Tcf và 85 triệu thùng dầu hóa đặc (condensate). Đây là dự án quan trọng nhất của Bộ Năng Lượng của nước này và cung cấp năng lượng cho sự sử dụng nội địa.
Phi Luật Tân đă khởi sự thăm ḍ khu vực Reed Bank thuộc Quần Đảo Spratly trong thập niên 1970, và đă trắc nghiệm thành công một mỏ hơi đốt trong năm 1976. Trước khi việc khoan thương mại khởi sự, các sự phản đối của Trung Quốc buộc hoạt động này phải đóng cửa.
Thái Lan
Vào khoảng 80% sản lượng dầu thô của Thái Lan đến từ các khu mỏ ngoài khơi tại Vịnh Thái Lan. Chevron là hăng sản xuất dầu lớn nhất tại Thái Lan, chiếm tới gần 70 phần trăm sản lượng dầu thô và dầu hóa đặc của xứ này trong năm 2011. Mỏ dầu hỏa lớn nhất là khu mỏ Benjamas của Chevron tọa lạc tại phía bắc Lưu Vực Pattani. Sản lượng của khu mỏ này lên tới đỉnh cao trong năm 2006 và đă giảm xuống ít hơn 30,000 bbl/ngày trong năm 2010. Các công ty độc lập chẳng hạn như Salamander Energy và Coastal Energy đă có các sự khám phá nhỏ hơn trong những năm gần đây, chẳng hạn như tại Bualuang, Songkla, và Bua Ban.
Đa số sản lượng hơi đốt tọa lạc tại Lưu Vực Pattani ở Vịnh Thái Lan. Hăng PTT (Công ty Dầu Quốc Gia có tư hữu hóa một phần của nước này), Total, và BG Group có phần sở hữu tại vùng mỏ sản xuất lớn nhất của Thái Lan tọa lạc trong lưu vực, có tên là Bongkot. Khu mỏ có biểu xuất sản xuất trung b́nh khoảng 220 Bcf mỗi năm trong vài năm vừa qua. Khu Vực Phát Triển Chung (JDA) Mă Lai – Thái Lan, tọa lạc tại phần bên dưới của Vịnh Thái Lan và phần phía bắc của Lưu Vực Mă Lai, cũng là một nguồn đóng góp lớn lao trong số cung cấp hơi đốt cho Thái Lan.
Việt Nam
Việt Nam hy vọng mở rộng sự sản xuất ngoài khơi tại Biển Nam Trung Hoa như một phương cách để thỏa măn nhu cầu nội địa và góp phần vào tài chính nhà nước. V́ mục đích này, chính quyền đă chuẩn cấp một số lượng lớn các khế ước cho các hăng ngoại quốc và bắt đầu đầu tư vào năng lực tái tạo hơi đốt thiên nhiên hóa lỏng (LNG).
Công ty dầu hỏa quốc gia PetroVietnam của Việt Nam chịu trách nhiệm về mọi việc Thăm Ḍ & Sản Xuất dầu hỏa và hơi đốt, tồn trữ, biến chế, và phân phối. Nó chiếm trực tiếp 20% sản lượng dầu hỏa và một nửa sản lượng hơi đốt của xứ sở, cùng với việc phục vụ như đối tác với các công ty quốc tế trong hầu hết mọi sự phát triển mới và các dự án lọc dầu. Mặc dù nó di chuyển một cách chậm chạp đến việc tư doanh hóa, PetroVietnam vẫn c̣n điều khiển các hoạt động E & P chính yếu tại Biển Nam Trung Hoa.
Bởi có sự thúc đẩy của chính phủ đến việc chuẩn cấp các khế ước ngoại quốc, các công ty dầu hỏa quan trọng có một sự hiện diện mạnh mè trong sự sản xuất ngoài khơi của Việt Nam qua các khế ước ăn chia sản lượng (production-sharing contracts: PSCs) với PetroVietnam. Chevron đă hoạt động ngoài khơi Việt Nam kể từ 1996 và đă mở rộng các hoạt động của nó sau khi sở đắc Unocal hồi năm 2005. Công ty hiện thời đang điều hành ba PSC tại các Lưu Vực sông Củu Long và Phú Khánh và ước lượng khoảng 5Tcf số trữ lượng đă được chứng minh và khả hữu ngoài khơi Việt Nam. Hăng dầu Pháp dộc lâp, Perenco, đă qua mặt ConocoPhillips thành nhà đầu tư năng lượng lớn nhất tại Việt Nam trong năm 2012 sau khi mua lại các tích sản Việt Nam của công ty Hoa Kỳ, bao gồm sáu lô ngoài khơi tại Biển Nam Trung Hoa.
PetroVietnam cũng hợp tác với các nhà kinh doanh ngoại quốc nhỏ hơn để phát triển các khu mỏ ngoài khơi, tải cả Biển Nam Trung Hoa lẫn Vịnh Thái Lan. Hăng Eni của Ư Đại Lợi có ba phần 50% vốn tại các lô Việt Nam ngoài khơi, gần đây nhất từ Tháng Bảy 2012 tại Lô 114 ở Lưu Vực Sông Hồng, nơi mà các nguồn tin trong ngành ước lượng chứa 10% các tài nguyên hydrocarbon của Việt Nam. Các công ty nhỏ hơn, đặc biệt từ các nước Nam Hàn, Trung Quốc và Singapore lân cận, đă được tổ chức thành vài công ty hoạt động chung để phát triển các lô ngoài khơi, đặc biệt gần biên giới Mă Lai. Các công ty này sản xuất tổng gộp gần 100,000 bbl mỗi ngày.
Trong Tháng Sáu 2012, CNOOC đưa ra chín lô hơi đốt và dầu hỏa cho các nhà thầu ngoại quốc trong một phần của Biển Nam Trung Hoa chồng chéo lên khu kinh tế độc quyền tại các Lưu Vực Jiannan và Wan’an. Chính phủ Việt Nam đă không chấp thuận lời mời gọi này, và không hăng ngoại quốc nào đă đấu thầu trên các lô. Khu vực tranh chấp không có các sự khám phá, mặc dù PetroVietnam loan báo rằng nó đang hoạt động trong khu vực với sự hợp tác với ONGC của Ấn Độ, Videsh Limited, công ty Gazprom của Nga, và ExxonMobil.
Singapore
Singapore là một điểm trung chuyển quan trọng và một trung tâm lọc dầu trong vùng. Singapore có một năng lực lọc dầu thô là 1.4 triệu bbl/ mỗi ngày, theo Tạp Chí Oil & Gas Journal. Dầu thô đến từ phía đông từ Eo Biển Malacca và sự trao đổi bên trong biển (intra-sea) được lọc và chuyển đi như các sản phẩm dầu hỏa đến các khách hàng tiêu thụ năng lượng chính tại Á Châu. Cùng lúc, hăng dầu quốc gia của Singapore, Petroleum Company nhắm vào việc trở thành hăng sản xuất trong vùng quan trọng và đă thụ đắc các quyền đối với các lô thăm ḍ tại Vịnh Thái Lan, lưu vực cửa ông Châu Giang, và ngoài khơi Indonesia.
Mậu Dịch Toàn Cầu
Hơn nửa trọng tải đoàn thương thuyền hàng năm của thế giới đi ngang qua Các Eo Biển Malacca, Sunda, và Lombok, với đa số tiếp tục tiến vào Biển Nam Trung Hoa. Gần một phần ba số dầu thô và hơn phân nửa LNG mậu dịch toàn cầu đi ngang qua Biển Nam Trung Hoa, biến nó trở thành một trong các tuyến đường mậu dịch quan trọng nhất trên thế giới.
Mậu dịch hàng hải về hướng đông xuyên Biển Nam Trung Hoa đi qua Các Eo Biển Malacca, Sunda, và Lombok, dù thế chỉ có ít các nguồn tin chi tiết về khối lượng lưu thông. Một cuộc nghiên cứu năm 2006 của Bộ Đất Đai, Hạ Tầng Cơ Sở, và Vận Tải (Ministry of Land, Infrastructure, and Transport: MLIT) của Nhật Bản đă ước lượng rằng gần 94,000 tàu có trọng tải 100 gross [mỗi gross ton bằng 100 bộ khối (cubic feet), đơn vị chỉ trọng tải của một chiếc tàu, chú của người dịch] hay nhiều hơn đă đi qua Eo Biển Malacca trong năm 2004 trong 607 ngh́n lượt di chuyển của tàu đi biển trên toàn cầu, hay 15 phần trăm tổng số của thế giới. Trong số này, 32 phần trăm là các tàu chở thùng đựng hàng (container), 25 phần trăm là tàu chở dầu (tanker vessels) và 15 phần trăm là các tàu vận chuyển hàng hóa cồng kềnh, c̣n lại là các tàu chở LNG và các tàu khác.
Một cuộc khảo sát tiếp theo vào cuối năm 2007 đă ước lượng 117 ngh́n tàu sẽ xuyên qua Malacca trong năm 2010 với một tổng số trọng tải là 4.7 tỷ tấn thập phân. Tài Liệu Duyệt Xét Vận Tải Hàng Hải năm 2011 của Hội Nghị Liên Hiệp Quốc về Mậu Dịch và Phát triển (United Nations Conference on Trade and Development: UNCTAD) đă ước lượng 8.4 tỷ tấn là tổng số mậu dịch hàng hải thế giới trong năm 2010. Khối lượng này khiến ta nghĩ rằng hơn phân nửa tổng số trọng tải của đội thương thuyền thế giới đă di qua các Eo Biển Malacca, Sunda và Lombok trong năm 2010.
Với nhu cầu năng lượng gia tăng của Á Châu, Cơ Quan EIA ước định một phân xuất lớn hơn số dầu từ các nhà sản xuất tại Vịnh Ba Tư và Phi Châu sẽ đi ngang qua Biển Nam Trung Hoa. Ngoài ra, các nước Á Châu đang đầu tư vào sự thăm ḍ mới và sự phát triển các nguồn tài nguyên hơi đốt thiên nhiên trong vùng, làm gia tăng phần đóng góp trong sự mậu dịch LNG toàn cầu.
Dầu Thô
Khoảng 14 triệu thùng dầu thô đi qua Biển Nam Trung Hoa và Vịnh Thái Lan mỗi ngày, hay gần một phần ba sự di chuyển dầu hỏa của thế giới, theo các dữ liệu của công tác theo dơi tàu chở dầu trên Danh Sách T́nh Báo của hăng Lloyd và Tập Bản Đồ Mậu Dịch Toàn Cầu GTIS. Hơn 90 phần trăm của tổng số lưu lượng đến từ Eo Biển Malacca, trong khi phần c̣n lại đến từ mậu dịch trong vùng nội vi Đông Nam Á.
Trước tiên, khoảng 15.2 triệu thùng mỗi ngày (Million barrels per day: MMbbl/d) chứa dầu đi qua Eo Biển Malacca trong năm 2011, hải lộ ngắn nhất giữa các nhà cung cấp Phi Châu và Vịnh Ba Tư với các thị trường Á Châu (xem World Oil Transit Chokepoints). Một khối lượng đáng kể dầu thô tới Eo Biển này (1.4 MMBBl/d) đi đến các trạm cuối cùng tại Singapore và Mă Lai, nơi nó được biến chế và lại được hải vận như là các sản phẩm dầu tinh lọc. Kế tiếp, phần c̣n lại của lưu lượng (12.8 Million MMbbl/d) tiếp tục xuyên qua Biển Nam Trung Hoa đến Trung Quốc và Nhật Bản (lần lượt là 4.5 và 3.2 MMbbl/d), hai nước tiêu thụ năng lượng lớn nhất tại Á Châu. Sau cùng, khoảng 15 phần trăm dầu hỏa di chuyển xuyên qua Biển Nam Trung Hoa đi đến Biển Đông Trung Hoa, hầu hết đến Nam Hàn (xem phần East China Sea Regional Brief).
Lưu lượng dầu thô tại Biển Nam Trung Hoa cũng đến từ mậu dịch cấp miền bên trong phạm vi Đông Nam Ám đặc biệt từ các số xuất cảng của Mă Lai (0.4 MMbbl/d), Indonesia (0.3 MMbbl/d), và Australia (0.2 MMbbl/d). Mậu dịch nội vùng được phân chia gần như đồng đều giữa Singapore, Nam Hàn, Nhật Bản, và Trung Hoa, với số lượng nhỏ hơn đến các nước Đông Nam Á khác. Một phần năm lưu lượng mậu dịch dầu thô nội vùng, phần nhiều nhất cho bất kỳ nhà nhập cảng nào, đi đến Singapore để tinh lọc. Khoảng 0.2 MMbbl/d dầu thô đi xuống phía nam xuyên qua Eo Biển Lombok để đến Australia và vùng Thái B́nh Dương.
Các Luồng Mậu Dịch Dầu Thô Chính Yếu Tại Biển Nam Trung Hoa, Năm 2011
Bản Đồ 2
Hơi Đốt Thiên Nhiên Hóa Lỏng
Cơ Quan EIA ước lượng khoảng 6 trillion bộ khối (Tcf) hơi đốt thiên nhiên hóa lỏng (liquefied natural gas: LNG), hay hơn phân nửa mậu dịch LNG toàn cầu, đă đi qua Biển Nam Trung Hoa trong năm 2011, sử dụng các dữ liệu từ PFC Energy và Cedigaz. Khoảng 56 phần trăm khối lượng này (3.4 Tcf) tiếp tục như hàng nhập cảng đến Nhật Bản, 24 phần trăm đến Nam Hàn (1.4 Tcf), 19 phần trăm đến Trung Quốc và Đài Loan (0.6 và 0.6 Tcf, lần lượt), và phần c̣n lại đến các nước khác trong vùng. Nước xuất cảng lớn nhất xuyên qua biển là Qatar với 1.2Tcf. Cộng chung, Qatar, Mă Lai, Indonesia, và Úc Đại Lợi chiếm tới 75 phần trăm toàn thể số xuất cảng LNG đến vùng này.
Theo sau cuộc khủng hoảng [nhà máy điện hạt nhân] Fukushima, Nhật Bản đă gia tăng các số nhập cảng LNG của nó. Trong nửa đầu của năm 2012, khu vực Biển Nam Trung Hoa chiếm tới khoảng 58 phần trăm mậu dịch LNG toàn cầu, theo các dữ liệu của PFC Enerhy. Với nhu cầu hơi đốt thiên nhiên gia tăng tại Đông Á, Cơ Quan EIA dự phóng phần chia của Biển Nam Trung Hoa trong số mậu dịch LNG toàn cầu sẽ gia tăng trong những năm sắp tới. Phần lớn số cung cấp mới sẽ xuyên qua Eo Biển Malacca, cho dù các nước như Singapore và Indonesia đang đầu tư vào các nhà máy tái hóa hơi đốt từ các vùng mỏ hơi đốt ở Biển Nam Trung Hoa hầu gia tăng năng lực xuất cảng LNG.
Các Luồng Mậu Dịch LNG chính yếu tại Biển Nam Trung Hoa, 2011
Bản đồ 3
Quy Chế Pháp Lư và Các Sự Tuyên Nhận Lănh Thổ
Hiện có nhiều sự tuyên nhận tranh giành nhau trên Biển Nam Trung Hoa và các nguồn tài nguyên của nó bởi vài nước Á Châu. Cho đến nay, chưa có sự giải quyết quốc tế cho các sự tranh chấp này.
Biển Nam Trung Hoa về mặt lịch sử đă là một nguồn cội xung đột giữa các quốc gia của nó. Các thuyền đánh cá từ một nước bị quấy nhiễu bởi các nước tuyên nhận khác, đôi khi đưa dến các sự tử vong của thường dân. Các công ty được cấp phép để thăm ḍ dầu hỏa và hơi đốt thiên nhiên bởi một nước đă bị từ chối không cho tiếp cận đến các khu vực tranh chấp bởi các tàu có vũ trang của các nước tuyên nhận khác. Các cuộc đụng độ quân sự diễn ra theo định kỳ giữa các nước duyên hải, vụ nghiêm trọng nhất diễn ra trong năm 1974, khi Trung Quốc chiếm doạt Quần Đảo Paracel khỏi tay Việt Nam.
Các Sự Tuyên Nhận Hàng Hải Tại Biển Nam Trung Hoa.
Bản Đồ 4
Quy Chế Pháp Lư
Trong suốt Thế Chiến II, Nhật Bản đă tuyên nhận các chuỗi Quần Đảo Spratly và Paracel. Ḥa ước năm 1951 với Nhật Bản đă không nêu rơ nước nào sẽ giành được sự sở hữu các Quần Đảo Spratly và Paracel sau khi Nhật Bản từ bỏ các sự tuyên nhận của nó.
Công Ước LHQ về Luật Biển (United Nations Convention on the Law of the Sea: UNCLOS) chưa giải quyết các sự tranh chấp trên quyền sở hữu tại Biển Nam Trung Hoa. Công Ước 1982 đà lập ra một số hướng dẫn liên quan đến quy chế của các ḥn đảo, thềm lục địa, các khu kinh tế độc quyền (KKTĐQ, tiếng Anh là exclusive economic zone: EEZ), các biển khép kín, và các giới hạn lănh thổ. Công Ước UNCLOS phát biểu rằng các nước với các sự tuyên nhận cḥng chéo phải giải quyết chúng bằng sự thương thảo với thiện chí.
Theo Điều 121 của Công Ước UNCLOS thứ ba (1973), các ḥn đảo có thể phát sinh ra các KKTĐQ của chính chúng và giới định các thềm lục địa. Chiếm cứ các ḥn đảo không thôi không đương nhiên được chuẩn cấp cho các quyền này, đặc biệt tại các khu vực tranh chấp. Vấn đề thực sự là liệu sẽ xem các khối đất này là các ḥn đá và đảo nhỏ hay các đảo chính danh. Theo Điều 121(3) của Công Ước UNCLOS, các băi đá “không thể chống đỡ cho sự cư trú con người hay đời sống kinh tế của riêng chúng” sẽ không có khu kinh tế độc quyền hay thềm lục địa”.
Các Tuyên Nhận Lănh Thổ
Các Tuyên Nhận Lănh Thổ tại Biển Nam Trung Hoa
Nước Biển Nam Quần Đảo Quần Đảo Vịnh
Trung Hoa Spratly Paracel Thái Lan
Brunei UNCLOS không tuyên không ---
nhận chính thức
Căm Bốt --- --- --- UNCLOS
Trung Quốc tất cả * tất cả tất cả
Indonesia UNCLOS không không
Mă Lai UNCLOS 3 đảo không UNCLOS
Phi Luật Tân các phần 8 đảo không
đáng kể
Đài Loan tất cả * tất cả tất cả
Thái Lan --- --- --- UNCLOS
Việt Nam tất cả * tất cả tất cả UNCLOS
*Không kể khu vực đệm dọc các quốc gia ven bờ (các sự tính toán cho vùng đệm không được hay biết).
Nguồn: Cơ Quan Thông Tin Năng Lượng Hoa Kỳ (EIA)
Brunei
Brunei không đưa ra bất kỳ sự tuyên nhận chính thức nào đối với bất kỳ phần nào của Quần Đảo Spratly hay Paracel. Tuy nhiên, từ 1985 nước này đă tuyên nhận một thềm lục địa nối dài cho đến đường trung tuyến giả thuyết với Việt Nam. Theo Mă Lai, Lệnh tại Hội Đồng Vương Quốc Thông Nhất Anh (U. K. Order in Council) năm 1958 đă ấn định ranh giới trên biển thích đáng giữa Brunei và Mă Lai (khi cả hai nước đều là lănh thổ thuộc Anh quốc) theo đường nối các điểm ở độ sâu 100 sải [fathom, đơn vị đo chiều sâu, bằng 1 mét 82, chú của người dịch] từ bờ biển. Bất kể sự kiện không có bất kỳ sự tuyên nhận chính thức nào, sự tuyên nhận thềm lục địa , ám chỉ quyền sở hữu Rạn San Hô Louisa Reef, về mặt kỹ thuật là một phần của Quần Đảo Spratly. Trung Quốc (kể cả Đài Loan), Mă Lai, Việt Nam, và Phi Luật Tân đều bác bỏ các sự tuyên nhận của Brunei đối với khu vực này.
Căm Bốt
Căm Bốt tuyên nhận phần của Vịnh Thái Lan dựa trên KKTĐQ của nó và nguyên tắc thềm lục địa, cũng như lịch sử của nó tại Vịnh. Trong năm 1982, Căm Bốt đă kư kết Thỏa Ước về Hải Phận Lịch Sử với Việt Nam, sắp đặt cho sự hợp tác sau này giữa hai nước. Trong năm 2006, Căm Bốt và Việt Nam có loan báo ư định của họ chia sẻ các nguồn tài nguyên dầu hỏa của Vịnh Thái Lan. Căm Bốt không có các thỏa ước như thế với Thái Lan hay Mă Lai. Căm Bốt không đưa ra tuyên nhận nào tại Biển Nam Trung Hoa.
Trung Quốc
Trung Quốc đặt các sự tuyên nhận của nó đối với ḥn đảo trên các cuộc viễn chinh hải quân lịch sử trở lùi về thế kỷ thứ 15. Trong năm 1947, Trung Hoa Dân Quốc (Republic of China) dưới chính phủ Quốc Dân Đảng có dệ tŕnh một bản đồ chính thức với một “đường vẽ chín đoạn (vạch)” phác họa tầm mức của lănh thổ Trung Hoa và tiếp tục sử dụng bản đồ này trong văn thư chính thức. Tất cả quốc gia duyên hải của biển này đều đă phê chuẩn Công Ước LHQ về Luật Biển (UNCLOS) 1982, giới hạn thẩm quyền quốc gia vào lănh hải hay các khu kinh tế độc quyền đă được chuẩn cấp của một nước. Trung Quốc đă đệ tŕnh đường chín đoạn đến UNCLOS trong năm 2009 khi sự tuyên nhận của nó vượt quá 200 hải lư, nhưng điều không rơ là liệu Trung Quốc tuyên nhận các địa h́nh nằm trong đường chín đoạn và các KTTĐQ mà chúng sẽ phát sinh, hay toàn thể khu vực trong phạm vi đường vẽ.
Trung Quốc gọi các Quần Đảo Spratly, Paracel, Pratas, và Scarborough Reef lần lượt là Nansha Qundao, Xisha Qundao, Dongsha Qundao, và Huangyan Dao, tuyên nhận các quần đảo này cũng như tất cả các địa h́nh trên mặt nước hay dưới biển bên trong phạm vi đường chín vạch trên các bản đồ Biển Nam Trung Hoa của Trung Quốc. Trung Quốc xem Rạn San Hô Scarborough Reef, cũng được tuyên nhận bởi Phi Luật Tân, như một bộ phận của Băi Cát Macclesfield Bank phần nào khô ráo (Zhongsha Qundao). Trung Quốc đă chấp thuận đường vẽ chín vạch từ các bản đồ Quốc Dân Đảng được vẽ trong năm 1947, đưa đến việc các tuyên nhận của Đài Loan phần lớn trùng hợp với tuyên nhận của Trung Quốc. Trung Quốc xem khu vực nằm trong các vạch là một phần của Tỉnh Hải Nam và đă chỉ không gian hàng hải trong đó là “các hải phận thuộc lănh thổ: territorial waters” của Trung Quốc, một từ ngữ không được xác định rơ ràng không phù hợp với các thể chế về biển tiêu chuẩn được cho phép chiếu theo luật quốc tế. Các nhà khảo cổ học Trung Quốc khẳng định các đảo tại Biển Nam Trung Hoa đă là địa điểm cổ đại của các hoạt động đánh cá và thương mại, và các tài liệu Trung Hoa có ghi chép các cuộc viễn chinh hải quân đến Biển Nam Trung Hoa trong Triều Đại nhà Hán vào năm 110 Sau Công Nguyên và Triều Đại nhà Minh từ 1403 – 1433. Trung Hoa tranh luận Công Ước Pháp-Hoa năm 1887 đă phân chia mọi địa h́nh phía đông Trung Hoa theo kinh tuyến 108003’E. Trung Quốc chiếm đóng một vài đảo của Quần Đảo Spratly và chiếm đoạt tất cả các ḥn đảo tại Paracel từ Việt Nam trong năm 1974. Brunei, Mă Lai, Phi Luật Tân, và Việt Nam tranh chấp các tuyên nhận của Trung Quốc.
Trong Tháng Sáu 2012, Trung Quốc có loan báo rằng nó đă thiết lập một thành phố cấp huyện gọi là Sansha được giám sát trực tiếp bởi chính quyền trung ương trên Đảo Woody [Phú Lâm trong tiếng Việt, Yongxing trong tiếng Hán] thuộc Quần Đảo Paracel. Sansha sẽ quản trị Quản Đảo Paracel, Quần Đảo Spratly, và Băi Cát Macclesfield.
Indonesia
Indonesia giới hạn sự tuyên nhận của nó tại Biển Nam Trung Hoa đến các ranh giới của KKTĐQ và thềm lục địa. Indonesia không tuyên nhận Quần Đảo Spratly hay Quần Đảo Paracel. Tuy nhiên, trong năm 1996, Indonesia đă thực hiện một cuộc thao diễn quân sự trên quy mô rộng lớn tại biển này, đă viện dẫn một nhu cầu cần bảo đảm an ninh cho các dự án năng lượng tại lưu vực Natuna.
Phi Luật Tân
Phi Luật Tân có tuyên nhận Rạn San Hô Scarborough Reef cũng như một phần lớn Quần Đảo Spratly như đất vô chủ: terra nullius, trong các cuộc thăm ḍ tại Biển Nam Trung Hoa khởi sự hồi Tháng Năm 1956. Nó đă gọi phần tuyên nhận Quần Đảo Spratly là Nhóm Đảo Kalayaan (Nhóm Đảo Tự Do) và chiếm cứ một vài đảo của quần đảo này. Nó xác định Quần Đảo Spratly và Rạn San Hô Scarborough Reef như một “thể chế các ḥn đảo” đặc biệt, khác biệt với phần c̣n lại của ṿng cung đảo Phi Luật Tân. Trung Quốc (kể cả Đài Loan), Mă Lai, và Việt Nam phản đối các sự tuyên nhận của Phi Luật Tân.
Đài Loan
Đài Loan, giống như Trung Quốc, khẳng định chủ quyền “lịch sử” trên tất cả mọi địa h́nh được vẽ nằm trong các vạch nguyên thủy được tŕnh bày trên một bản đồ được ấn hành bởi chính quyền Quốc Dân Đảng trong năm 1947 – gồm cả Quần Đảo Spratly, Quần Đảo Paracel, Đảo Pratas, và Rạn San Hô Scarborough Reef. Đài Loan chiếm đóng một vài đảo thuộc Quần Đảo Spratly và quản trị Đảo Pratas. Brunei, Mă Lai, Phi Luật Tân, và Việt Nam phản đối các sự tuyên nhận của Đài Loan, vốn trùng hợp với các tuyên nhận của Trung Quốc.
Thái Lan
Thái Lan tuyên nhận Vịnh Thái Lan dựa trên nguyên tắc về KKTĐQ và thềm lục địa của nó. Chính phủ có kư kết một thỏa ước hợp tác để thăm ḍ và phát triển với Mă Lai trong năm 1979. Trong năm 1997, Thái Lan và Việt Nam có kư kết một thỏa ước ấn định sự phân định các ranh giới trên biển liên hệ của họ. Thái Lan không có sự tuyên nhận tại Biển Nam Trung Hoa.
Việt Nam
Việt Nam tuyên nhận toàn thể Quần Đảo Spratly và Quần Đảo Paracel. Tuy nhiên, tầm mức các sự tuyên nhận trên biển và lănh thổ của Việt Nam tại Biển Nam Trung Hoa đă không được phác họa trong văn bản hay trên các bản đồ. Việt Nam xem Quần Đảo Spratly là một huyên ngoài khơi của Tỉnh Khánh Ḥa và chiếm đóng một vài đảo trong chúng. Trung Quốc đă chiếm đoạt toàn thể Quần Đảo Paracel trong năm 1974. Giống như Trung Quốc, các nhà khảo cổ học của Việt Nam cung cấp bằng chứng của riêng họ để hậu thuẫn cho một sự hiện diện lịch sử lâu dài trên các địa h́nh khác nhau của Biển Nam Trung Hoa. Hà Nội tuyên nhận rằng bởi v́ nước Pháp đă kiểm soát cả hai nhóm đảo trong những năm 1930, Việt Nam đă thừa kế các quyền đó sau khi độc lập. Brunei, Trung Quốc (kể cả Đài Loan), Mă Lai, và Phi Luật Tân tranh chấp với các sự tuyên nhận của Việt Nam.
Trong Tháng Năm 2009, Việt Nam và Mă Lai đă cùng đệ nạp các sự tuyên nhận lănh thổ của họ tại Biển Nam Trung Hoa lên Ủy Hội LHQ về Các Giới Hạn của Thềm Lục Địa. Trong Tháng Sáu 2012, Việt Nam đă thông qua một luật biển tuyên nhận quyền tài phán trên các quần đảo Spratly và Paracel và đ̣i hỏi rằng mọi tàu hải quân ngoại quốc phải đăng kư với nhà chức trách Việt Nam.
Các Sự Xung Đột Trong Vùng và Các Nỗ Lực Điều Giải
Hiệp Hội Các Nước Đông Nam Á (ASEAN) đă xuất hiện như một diễn đàn quan trọng cho sự đối thoại giữa các nước tuyên nhận Đông Nam Á. Mặc dù khối ASEAN không bao gồm Trung Quốc và Đài Loan, một số nhóm công tác với Trung Quốc và Đài Loan đă được tổ chức về các vấn đề này với tiềm năng hỗ trợ cho các mối quan hệ cần thiết để giải quyết các vấn đề gây nhiều tranh tụng hơn trong vùng.
Indonesia đă chào đón cuộc đối thoại đầu tiên trong năm 1990 và từ đó đă đóng một vai tṛ lănh đạo trong các sáng kiến ngoại giao và các thỏa ước hợp tác để giải quyết các vấn đề Biển Nam Trung Hoa. Tuy nhiên, các nước đă thất bại không thông qua được bất kỳ nghị quyết nào trong phiên họp cuối cùng của khối ASEAN tại Jakarta hồi năm 2012.
------------
CHÚ THÍCH
· Các dữ liệu tŕnh bày trong văn bản là các dữ liệu gần nhất được cung cấp cho đến ngày 7 Tháng Hai, 2013
· Các dữ liệu là các số ước lượng của Cơ Quan EIA, trừ khi được ghi chú một cách khác.
------------------
Nguồn
· Association of Southeast Asian Nations
· Bangkok Post
· BBC Monitoring Asia Pacific
· Business Monitor International
· Cedigaz
· Center for Strategic and International Studies
· China National Offshore Oil Corporation
· Danish Institute for International Studies
· Economic Intelligence Unit
· ESRI
· FACTS Global Energy
· Financial Times
· Husky Energy
· HIS/Edin
· HIS/Global Insight
· Institute of Southeast Asia Studies
· International Crisis Group
· International Energy Agency
· International Hydrographic Organization
· Lloyd’s List Intelligence Tanker Tracking Service
· New Straits Times (Malaysia)
· PFC Energy
· South China Morning Post
· The International Herald Tribune
· The New York Times
· The Straits Times (Singapore)
· U.S. Department of State
· U.S. Energy Information Administration
· U.S. Geological Survey (USGS)
· United Nations
· Xinhua News
PHỤ LỤC 1
Cơ Quan Thông Tin Năng Lượng Hoa Kỳ
U.S. Energy Information Agency
CÁC KHU VỰC TRANH CHẤP
TẠI BIỂN NAM TRUNG HOA
CHẮC CHỈ CÓ ÍT
CÁC TÀI NGUYÊN DẦU HỎA VÀ
HƠI ĐỐT THEO QUY ƯỚC
Bản Đồ 1: Trữ Lương Dầu Hỏa Và Hơi Đốt Thiên Nhiên
Đă Được Chứng Minh & Khả Hữu
Một vài nước có các sự tuyên nhận lănh thổ lấn chồng lên nhau trên một phần của Biển Nam Trung Hoa, biển kéo dài từ Singapore ở hướng tây nam cho tới Đài Loan ở hướng đông bắc. Các Quần Đảo Spratly và Paracels là hai trong các khu vực bị tranh chấp nhiều nhất (xem các đảo màu xanh da trời đậm trên bản đồ bên trên). Tuy nhiên, không giống như các bộ phận khác của Biển Nam Trung Hoa, các khu vực này đă không được lượng định là nắm giữ các nguồn tài nguyên (quy ước) dầu hỏa và hơi đốt thiên nhiên to lớn. Theo Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, việc sở hữu các ḥn đảo có thể cư trú được có thể nối dài sự tiếp cận độc quyền của một nước đến các nguyên tài nguyên năng lượng bao quanh.
Sự phân tích của Cơ Quan EIA cho thấy phần lớn các vùng mỏ chứa đựng dầu hỏa và hơi đốt thiên nhiên đă được khám phá th́ tập hợp tại các bộ phận không bị tranh chấp của Biển Nam Trung Hoa, gần bờ biển của các quốc gia duyên hải, và không gần các ḥn đảo bị tranh chấp. Các nguồn tin trong công nghiệp này nghĩ rằng gần như không có dầu hỏa và chưa đến 100 ngh́n tỷ bộ khối (feet cubes) hơi đốt thiên nhiên trong các trữ lượng đă được chứng minh và khả hữu hiện diện tại các mỏ gần Quần Đảo Spratly. Lănh thổ Quần Đảo Paracel có c̣n ít hơn nữa hơi đốt thiên nhiên và không có dầu hỏa.
Tổng cộng, Biển Nam Trung Hoa có khoảng 11 tỷ thùng dầu hỏa và 190 ngh́n tỷ bộ khối hơi đốt thiên nhiên được chấm định như các trữ lượng đă được chứng minh hay khả hữu. Các mức độ này tương tự như khối lượng các trữ lượng dầu hỏa đă được chứng minh tại Mexico và vào khoảng hai phần ba trữ lượng hơi đốt thiên nhiên đă được chứng minh tại Âu Châu, không gồm nước Nga (xem biểu đồ bên dưới).
Phần Chia Các Trữ Lượng Dầu Hỏa và Hơi Đốt Đă Được Chứng Minh
Cho Một Số Vùng Tuyển Chọn (2012)
Source: U.S. Energy Information Administration, International Energy Statistics, South China Sea Regional Analysis Brief.
*Note: South China Sea includes proved and probable reserves.
Ngoài các trữ lượng đă được chứng minh và khả hữu, Biển Nam Trung Hoa có thể có các chất hydrocarbons bổ túc tại các khu vực c̣n thiếu thăm ḍ. Cơ Quan Khảo Sát Địa Chất Hoa Kỳ (USGS) đă ước lượng trong năm 2012 rằng khoảng 12 tỷ thùng dầu hỏa và 160 ngh́n tỷ bộ khối hơi đốt thiên nhiên có thể hiện diện tại Biển Nam Trung Hoa, không kể Vịnh Thái Lan và các khu vực kề cận khác. Khoảng một phần năm của các tài nguyên này có thể được t́m thấy tại các khu vực tranh chấp, đặc biệt tại Băi Cát Reed Bank ở đầu mút đông bắc của Quần Đảo Spratly, nơi được tuyên nhận bởi Trung Quốc, Đài Loan và Việt Nam. Các nguồn tài nguyên bổ túc này không được xem là các trữ lượng thương mại vào lúc này; sự trích xuất chúng có thể không khả thi về mặt kinh tế.
Ước Lượng Phần Chia Các Nguồn Tài Nguyên Dầu Hỏa
và Hơi Đốt Quy Ước Chưa Được Khám Phá Của Thế Giới (2012)
Source: U.S. Energy Information Administration, International Energy Statistics, South China Sea Regional Analysis Brief, and U.S. Geological Survey, Estimate of Undiscovered Conventional Oil and Gas Resources of the World, 2012.
Khu vực Đảo Paracel cũng có thể chứa đựng các nguyên tài nguyên hơi đốt thiên nhiên hydrate (có nước chứa nước) đáng kể. Trong khi các sự khoan trắc nghiệm có hứa hẹn triển vọng, sự phát triển thương mại các hơi đốt thiên nhiên hydrate tại Biển Nam Trung Hoa c̣n cần đến nhiều năm với các sự thử thách kỹ thuật và giá cả hơi đốt thiên nhiên hiện thời.
Cơ Quan IEA dự phóng sản lượng dầu hỏa nội vùng của Đông Nam Á sẽ giữ nguyên hay sút giảm khi mà sự tiêu thụ tăng cao trong vùng, và hơi đốt thiên nhiên từ Biển Nam Trung Hoa Có thể đáp ứng một phần đáng kể nhu cầu năng lượng tương lai.
Nguồn: EIA,Contested areas of South China Sea likely have few conventional oil and gas resources, Washington, D.C., April 3, 2013.
Ngô Bắc dịch và phụ chú
03.11.2014
http://www.gio-o.com/NgoBac.html
© gio-o.com 2014