Masashi Nishihara

Kyoto University, Japan

 

CUỘC CHIẾN TRANH

 

TRUNG – VIỆT  NĂM 1979:

 

Mới Chỉ Là Hiệp Thứ Nhất?

 

 

Ngô Bắc dịch

***

 

Lời Người Dịch:

Giáo Sư Masashi Nishihara, tác giả bài nghiên cứu dưới đây, từ nhiều thập niên qua đă được xem là chuyên viên hàng đầu về các vấn đề quốc pḥng của Nhật Bản.  Bài viết này được đăng tải trong tập tổng kết t́nh h́nh Đông Nam Á thường niên, Southeast Asian Affairs 1980, của Học Viện Institute of Southeast Asian Studies, Singapore, đă đưa ra một cái nh́n rất sớm về cuộc chiến tranh biên giới Việt - Trung 1979 từ một nhà nghiên cứu Nhật Bản.

       Không giống với các nhà nghiên cứu Tây Phương khác, tác giả đă có một cái nh́n sâu sắc hơn về mặt lịch sử Á Châu, khi cho rằng “bản chất bên dưới của sự rạn nứt nằm ở sự thù hận lịch sử giữa hai dân tộc, hay sự tức giận của Trung Quốc trước sự thách thức của một nuớc yếu hơn trong lịch sử đối với khu vực ảnh hưởng truyền thống của chính Trung Quốc”.  Quan điểm này đă được triển khai một cách chi tiết hơn bởi một tác giả Hàn Quốc, Yu Insun, 31 năm sau này, khi phân tích cuộc chiến từ quan điểm lịch sử bang giao giữa hai nước Việt-Trung, mà bản dịch sẽ được Gió O đăng tải nơi đây.

       Với cái nh́n trường kỳ này, tác giả Masashi Nishihara đă kết luận:  Đặt trong quan điểm lịch sử, sự căng thẳng như thế đánh dấu một tiêu chuẩn b́nh thường, chứ không phải là ngoại lệ -- các quan hệ hợp tác được duy tŕ trong cuộc chiến tranh ba mươi năm chống lại “chủ nghĩa đế quốc Tây Phương”, đúng ra, đă chỉ là một khúc đệm bất thường chen vào giữa, và đă đặt câu hỏi như trong tựa đề: có phải trận chiến tranh biên giới Việt-Trung 1979 mới chỉ là hiệp thứ nhất? 

Thực tế cho thấy sự kiện chiên tranh biên giới Việt - Trung là chính là một trong hai bước khởi đầu cho cuộc chiến tranh lâu dài hơn, mà ở một số khía cạnh vẫn c̣n tiếp diễn đến ngày nay, được các học giả thế giới đặt tên là Cuộc Chiến Tranh Đông Dương Thứ Ba.  Một trong những bài nghiên cứu về cuộc chiến tranh biên giới kéo dài từ 1980 đến 1987 với sáu cuộc đụng độ lớn lao đă được giáo sư Carlyle Thayer công bố hồi năm 1987, mà bản dịch cũng sẽ sớm được đăng tải nơi đây.

 

***

      

       Cuộc chiến tranh mười bảy ngày của Trung Quốc với Việt Nam đă khởi sự hôm 17 Tháng Hai 1979 khi các binh sĩ “tuần tra biên giới” Trung Quốc phát động điều họ gọi là “tự vệ hoàn kích” đánh vào nước láng giềng phương nam của họ.  Sau khi phá hủy vài tỉnh lỵ và cuối cùng giành được sự kiểm soát tỉnh lỵ chiến lược của Lạng Sơn hôm 5 Tháng Ba, Quân Đội Giải Phóng Nhân Dân Trung Quốc (QĐGPNDTQ) bắt đầu rút quân, loan báo rằng họ đă đạt được các mục đích của họ.  Hà Nội đă chấp nhận đề nghị của Trung Quốc để tổ chức các cuộc đàm phán biên giới với điều kiện QĐGPNTQ trước tiên phải triệt thoái tất cả các binh sĩ của họ.  Tuyệt nhiên không phải là binh sĩ Việt Nam đă đánh đuổi các lực lượng địch ra khỏi nước.  Bài xă luận trong tờ Nhân Dân Nhật Báo [Trung Quốc] hôm 7 Tháng Ba đă b́nh luận với sự thỏa măn về “sự chiến thắng hoàn toàn” của Trung Quốc, nhưng ngay sau khi Trung Quốc tuyên bố hôm 17 Tháng Ba rằng tất cả các binh sĩ của nó đă được rút về, Bộ Quốc Pḥng Việt Nam đă đưa ra phiên bản của riêng ḿnh về kết quả.  Dân chúng ở Hà Nội đă tổ chức một “cuộc tập hợp mừng chiến thắng” khổng lồ hôm 20 Tháng Ba.   

       Nhiều phần chắc hẳn như thế.  Nhưng bên nào đă thực sự chiến thắng?  Bao nhiêu binh sĩ đă tham dự vào cuộc xung đột? Mỗi bên đă khởi sự chuẩn bị để giao chiến khi nào?  Các chính phủ Sô Viết và Mỹ đă can dự đến mức độ nào vào cuộc chiến? Nguyên do chính xác là ǵ, và sẽ có các cuộc chiến tranh khác theo sau hay không? Không có các câu trả lời rơ ràng, duy nhất cho bất kỳ một trong các câu hỏi quan trọng này.  Giống như nhiều cuộc chiến tranh khác, sự đổ vỡ bạo động giữa Bắc Kinh và Hà Nội đă nêu lên nhiều câu hỏi hơn là cung cấp các câu trả lời.   Ở giai đoạn này, người ta chỉ có thể cố gắng chắp nối các thông tin rời rạc thành các sự giải thích có vẻ hợp lư.

 

Các Nguyên Do

       Trong số các nguyên do trực tiếp đă xô đẩy chiến tranh là vài biến cố biên giới, cuộc di cư của người Hoa (Hoa Kiều hải ngoại) khỏi Việt Nam, sự kư kết bản Hiệp Ước Hữu Nghị và Hợp Tác giữa Sô Viết và Việt Nam, và sự lật đổ của Việt Nam chế độ Pol Pot thân Bắc Kinh.  Các nguyên do này giờ đây là các biến cố quen thuộc, nhưng nguyên do cơ bản cho cuộc chiến tranh lại nằm ở nơi khác.  Căn nguyên sâu xa hơn của cuộc xung đột là sự thách đố mà các nhà lănh đạo Việt Nam quá tự tin đă đặt ra đối với khu vực ảnh hưởng truyền thống của Trung Quốc -- Đông Nam Á – một thách đố được nêu ra đối với Trung Quốc ngay trước khi có sự sụp đổ của Sàig̣n hồi năm 1975.

       Trong cuộc chiến tranh kéo dài với Hoa Kỳ, giới lănh đạo Hà Nội đă khai thác sự xung đột Nga-Hoa để ḅn rút sự viện trợ đáng kể từ cả hai phía.  Họ đă không chấp thuận sự đón tiếp bởi cả Bắc Kinh lẫn Moscow dành cho các cuộc thăm viếng của Tổng Thống Mỹ Richard Nixon trong năm 1972, nhưng đă kết án Bắc Kinh một cách nghiêm khắc hơn khi họ bắt đầu hiểu được rằng việc gia tăng xung khắc với Liên Bang Sô Viết (LBSV) sẽ chỉ làm lợi hơn cho phía Trung Quốc, bởi quyền lực Mỹ vẫn c̣n hiện diện Đông Nam Á và Việt Nam vẫn c̣n bị chia cắt.  Các nhà lănh đạo Hà Nội đă kư kết hiệp định ḥa b́nh Paris hồi Tháng Một 1973 ngày càng tin tưởng hơn về sự chiến thắng sau cùng của họ đối với Sàig̣n và Hoa Thịnh Đốn.  Điều này đă là một sự thách đố chống lại quyền lực của Trung Quốc.  Vào lúc đó, Hà Nội đă sẵn thiết lập một sự hiện diện quân sự vững chắc tại Lào và một khu vực ảnh hưởng trên miền đông Kampuchea, sự kiện mà trong trường hợp của Kampuchea, đă trở thành một nguồn cội của sự xích mích giữa phe Khmer Đỏ thân Trung Quốc và Việt Nam.  Ngay cả trước khi có sự sụp đổ của Sàig̣n, các rắc rối biên giới của Hà Nội với Trung Quốc đă khởi sự.  Sau đó trong năm 1976, Hà Nội đă thay đổi lập trường của nó về các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, tuyên xác các chủ quyền lănh thổ ở đó.  Trong Tháng Ba cùng năm, Việt Nam nhận được một tàu ngầm từ Liên Bang Sô Viết, được tường thuật là được đóng tại các cơ sở tàu ngầm ngoài khơi Hải Pḥng và, cùng với Ba Lan, huấn luyên thủy thủ đoàn Việt Nam khoảng 80 người ở hải ngoại.

       Các đại biểu của Trung Quốc đă vắng mặt trong Đại Hội Kỳ Thứ Tư của Đảng Lao Động Việt Nam (giờ đây được biết là Đảng Cộng Sản Việt Nam) hồi Tháng Mười Hai 1976.  Nhưng điều đó gần như được chờ đợi, bởi kể từ 1966, Trung Quốc đă không gửi các phái đoàn đại diện đến các kỳ họp Đảng Cộng Sản nước ngoài.  Ngoài ra, trong một cuộc thăm viếng hồi Tháng Mười 1975 tại Moscow, Lê Duẩn và phái đoàn của ông đă ủng hộ các lập trường ư thức hệ của LBSV trên chính sách ḥa hoăn của Sô Viết, chính sách tăng cường vũ khí, và về Hội Nghị An Ninh và Hợp Tác tại Âu Châu (Conference on Security and Cooperation in Europe: CSCE).  Trong kỳ Đại Hội năm 1976, Mikhail Suslov, một ủy viên thế lực của Bộ Chính Trị, đă đến dự, có lẽ với mục đích hướng dẫn và củng cố lập trường thân Moscow của Hà Nội.  Như thế không có ǵ đáng ngạc nhiên rằng Đại Hội năm 1976 rơ ràng đă sắp xếp sân khấu cho sự rạn nứt Trung-Việt sau đó.

       Hàng loạt đáng kể các nhà lănh đạo Việt Nam đă lên đường sang Moscvow trong năm 1977, trong số đó có Vơ Nguyên Giáp (Bộ Trưởng Quốc Pḥng, trong Tháng Ba), Phạm Văn Đồng (Thủ Tướng, trong Tháng Tư), Lê Thanh Nghị (Phó Thủ Tướng, Chủ Tịch Ủy Ban Kế Hoạch Nhà Nước, trong Tháng Sáu), Trường Chinh (Chủ Tịch Ban Thường Vụ Quốc Hội, trong Tháng Tám), Lê Duẩn (Tổng Bí Thư Đảng, trong Tháng Mười), và các nhân vật khác.  Tất cả các nhân vật này sau đó cũng đều có thăm viếng Bắc Kinh, nhưng sự nghiêng về phía Moscow của họ đă không bị che dấu.  Ông Giáp tượng trung cho một trường hợp điển h́nh.  Trong cuộc thăm viếng hồi Tháng Ba của ông, đối tác phía Nga của ông ta, Dmitri Ustinov, đă hứa hẹn viện trợ để “tăng cường năng lực chiến đấu của Quân Đội Nhân Dân Việt Nam”, nhưng cuộc thăm viếng hồi Tháng Sáu của ông tại Bắc Kinh đă rút ra được một lời tuyên bố ít cụ thể hơn nhiều: “Trung Quốc sẽ làm hết sức ḿnh để phát triển và tăng cường sự liên đới và sự hợp tác anh em giữa hai nước.  Đáng kể hơn, Lê Duẩn đă nói một cách khiêu khích với các nhà lănh đạo Bắc Kinh trong Tháng Mười Một rằng Việt Nam cám ơn Liên Bang Sô Viết về “sự ủng hộ vững chắc cùng viện trợ quư báu và khổng lồ” của nó trong việc giải phóng miền nam – một nhận xét mà ông ta đă không đưa ra trong cuộc thăm viếng hồi Tháng Chín 1975 tại Trung Quốc.  Viên tổng bí thư đảng đă trở về mà không đưa ra bản tuyên bố chung thông thường.

       Từ năm 1977 trở đi, Bắc Kinh đă gạt bỏ bất kỳ sự mơ hồ nào trong các lời tuyên bố công khai về các quan điểm ư thức hệ thân Moscow của Hà Nội, sau này (sau Tháng Sáu 1978) gọi Việt Nam theo đuổi “chủ trương tiểu bá quyền” hay “một Cuba tại Á Châu”, đă đứng vào hàng ngũ “đại bá quyền” LBSV.  Trong đầu năm 1978, Việt Nam bắt đầu nói đến Trung Quốc như một “lực lượng phản động quóc tế đă bắt tay với chủ nghĩa đế quốc” và, từ Tháng Sáu, là “kẻ thù chính” của Việt Nam.  Sự thách đố ư thức hệ cùng địa chính trị này từ Việt Nam, kẻ đă trở thành, trong mắt nh́n của Trung Quốc, không ǵ khác hơn một nước thụ ủy của Liên Bang Sô Viết, đă cấu thành nguyên do căn bản cho hàng loạt các biến cố sau đó cuối cùng dẫn dắt đến cuộc xung đột vũ trang.

 

Các Sự Chuẩn Bị

       Chính cường độ của sự bất ḥa giữa hai nước đă khiến gần như không thể nào xác định được thời điểm mà họ khởi sự cho một cuộc đấu vũ trang.  Song sẽ là điều hữu ích để cố gắng tái dựng các tiến tŕnh chuẩn bị của họ.

       Căn nguyên các sự chuẩn bị của Trung Quốc có thể được truy t́m về lại Tháng Năm 1978 hay sớm hơn.  Một phiên họp mở rộng của Bộ Chính Trị của Ủy Ban Trung Ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) được tường thuật đă nhóm họp trong Tháng Năm và được tin rằng đă quyết định “đáp ứng bằng hành động đối với các sự khiêu khích của Việt Nam” và “thách đấu nếu Việt Nam phóng ra một cuộc phiêu lưu quân sự” (một nguồn tin Hồng Kông, Jiji Press, 26 Tháng Bảy 1978).  Nhiều phần rằng các cuộc thương thuyết cho hiệp ước ḥa b́nh và hữu nghị Trung Quốc – Nhật Bản đang thảo luận đă được đẩy nhanh vào thời điểm này.  (Nó có thể đă diễn ra vào cuối Tháng Năm sau khi có cuộc thăm viếng của Zbigniew Brzezinski tại Bắc Kinh, sự kiện rất có thể đă cổ vũ giới lănh đạo Bắc Kinh lấy một lập trường cứng rắn hơn đối với Việt Nam và Liên Bang Sô Viết).

       Quyết định Tháng Năm của Trung Quốc, nếu được tường thuật chính xác, đă được đưa ra để đối đáp với lời tuyên bố của Tướng Giáp trong Tháng Một rằng 1978 sẽ là một năm quan trọng cho người Việt Nam, và với lời kêu gọi của Tướng Văn Tiến Dũng hồi Tháng Tư về việc theo sát hơn t́nh trạng vũ khí trang bị, kỷ luật quân đội nghiêm ngặt hơn, và nâng cao sự chuẩn bị tác chiến của đất nước.  Rơ ràng hồi đầu năm, “như một bước tiến quân sự để chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh chống Trung Quốc”, Chính Phủ Việt Nam đă khởi sự “một hành động ‘thanh lọc’ toàn diện” bằng việc trục xuất một cách tàn nhẫn các người Việt gốc Hoa và những người khác sinh sống dọc theo phía Việt Nam của biên giới (Beijing Review, số 12, 23 Tháng Ba 1978, trang 23).  Những ǵ đă xảy ra tại tỉnh lỵ của Lào Cai có thể mang tính chất điển h́nh; các cư dân của nó được lệnh tái định cư tại Hà Khẩu, một thành phố Trung Quốc tại tỉnh Vân Nam, sau này đă được củng cố với các nơi đóng quân bên dưới mặt đất.  Sau đó, theo các lời tuyên bố của Trung Quốc, phía Việt Nam đă di chuyển chính quyền tỉnh Lào Cai về Yên Bái (Beijing Review, số 8, 23 Tháng Hai 1979, trang 13).

       Các sự căng thẳng dâng cao nhanh hơn, bắt đầu khoảng Tháng Sáu.  Vào cuối Tháng Năm, Việt Nam đă âm mưu lật đổ Chính Phủ của Pol Pot, mặc dù Pol Pot có tuyên bố rằng Việt Nam đă bắt đầu các sự chuẩn bị chống lại ông ta ngay từ Tháng Hai 1978.  Điều được đồn đăi rằng Đảng Cộng Sản Việt Nam (ĐCSVN) đă tổ chức một Phiên Họp Khoáng Đại Thứ Tư bí mật của Ủy Ban Trung Ương trong khoảng thời gian đó (Far Eastern Economic Review, 23 Tháng Hai 1979, trang 33).  Vào hôm 5 Tháng Sáu, Trung Quốc đă băi bỏ hơn hai mươi mục khoản viện trợ kinh tế cho Việt Nam và vào hôm 19 Tháng Sáu Trung Quốc đă ra lệnh đóng cửa ba ṭa lănh sự của Việt Nam tại miền nam Trung Quốc.  Mặc dù nhật kỳ chính xác vẫn chưa được xác nhận, vào lúc nào đó trong đầu Tháng Sáu, Ủy Ban Trung Ương của ĐCSVN có lẽ đă tổ chức một phiên họp bí mật của Bộ Chính Trị (mặc dù một số người tranh luận rằng phiên họp này xảy ra khi Phiên Họp Khoáng Đại Thứ Tư được triệu tập).  Điều dễ dàng để giờ đây suy đoán rằng Ủy Ban Trung Ương đă quyết nghị rằng bởi Trung Quốc đang theo đuổi một chính sách thù nghịch đối với Việt Nam, Việt Nam phải gia nhập Hội Đồng Tương Trợ Kinh Tế (Council for Mutual Ecomic Aid: COMECON) và tăng cường năng lực quân sự của nó với viện trợ của Sô Viết, và củng cố sự pḥng thủ biên giới tây nam của nó.

       Trong bất kỳ trường hợp nào, tiếp theo phoiên họp đó, Chính Phủ Việt Nam đă gia nhập khối COMECON hôm 29 Tháng Sáu, sự kiện chỉ khiêu khích thêm sự trả đũa từ Trung Quốc, nước đă chấm dứt hoàn toàn tất cả khoảng 80 dự án viện trợ hôm 3 Tháng Bảy.  Trong Tháng Sáu, Chính Phủ Hà Nội đă bắt đầu nâng cao cấp số trưng binh và tổ chức “lính xung kích” và dân quân đặc biệt.  Các sự tường thuật báo chí đă xuất hện, vào khoảng thời gian này, về một số mười lăm sư đoàn Trung Quốc và năm sư đoàn Việt Nam đối diện nhau ngang qua biên giới (Newsweek, 3 Tháng Bảy 1978, trang 6).  Các nhà lănh đạo chủ chiến quá tự tin tại Hà Nội cầm đầu bởi Lê Duẩn và Vơ Nguyên Giáp có thể đă nghĩ có lợi hơn về mặt chính trị khi giữ các quan hệ tại biên giới sôi sục, hầu duy tŕ tinh thần trong Quân Đội Nhân Dân Việt Nam (QĐNVN) và lôi kéo sự chú ư của dân chúng Việt Nam ra khỏi các khó khăn kinh tế.

       Trong khi các cuộc đàm phán song phương về tỵ nạn sau hết đă khởi sự hôm 8 Tháng Tám, cả hai bên đều đă thực sự chuẩn bị cho bất kỳ t́nh huống nào.  Bộ Trưởng Quốc Pḥng Xu Xianqian đă viết một bài báo chỉ một tuần trước đó nhan đề “Nâng Cao Sự Cảnh Giác Của Chúng Ta và Hăy Chuẩn Bị Để Chiến Đấu Một Cuộc Chiến Tranh”.  Vào hôm 14 Tháng Tám, ĐCSVN đưa ra một lời kêu gọi đến các đảng viên của nó, “Chuẩn Bị Cho Một Cuộc Chiến Tranh Trên Quy Mô Lớn!”  Vào hôm 25 Tháng Chín, Việt Nam đă phản đối sự hiện diện của các binh sĩ Trung Quốc dọc theo biên giới, và chỉ hai ngày sau đó phía Trung Quốc đă kết án Việt Nam về các sự chuẩn bị chiến tranh dọc biên giới.  Trong hai tuần lễ cuối của Tháng Tám, Liên Bang Sô Viết đă không vận một sụ tiếp tế lớn lao các vũ khí đến Hà Nội (The Washington Post, 2 Tháng Chín 1978).

       Ở giai đoạn này, chúng ta không thể nói một cách chính xác thời điểm khi Việt Nam quyết định một cách chính thức việc kư kết Hiệp Ước Hữu Nghị và Hợp Tác với người Nga.  Có thể là ở Phiên Họp Khoáng Đại Thứ Tư của Ủy Ban Trung Ương ĐCSVN được tổ chức trong Tháng Hai, hay tại Phiên Họp Khoáng Đại Thứ Năm được nghĩ được triệu tập lúc nào đó giữa đầu Tháng Chín và cuối Tháng Mười.  Nhưng điều quan trọng ở đây là bản hiệp ước với người Nga tượng trưng cho một trong các giai đoạn sau cùng cho một cuộc chiến tranh sớm được phát động chống lại chế độ Pol Pot trong mùa khô sắp tới.  Không kém quan trọng trong các giai đoạn sau cùng là sự thiết lập hôm 2 Tháng Mười Hai Mặt Trận Thống Nhất Quốc Gia Kampuchea Cứu Nguy Dân Tộc (MTTNQGKCNDT) (Kampuchean National United Front for National Salvation: KNUFNS), một vỏ bọc cho sự xâm lăng của Việt Nam vào Căm Bốt.  Khi hiệp ước Sô Viết – Việt Nam được kư kết, cả Bắc Kinh lẫn chế độ Pol Pot đều tin rằng Hà Nội đang hoạch định một sự can thiệp quân sự lớn lao vào Kampuchea với sự ủng hộ của Sô Viết.  Với giả định đó, phía Trung Quốc đă khởi sự chuẩn bị một lần nữa để đối phó với t́nh thế xuất hiện.  Chính trong khung cảnh này nhịp bước nhanh hơn của các cuộc thương nghị của Trung Quốc nhằm tái thiết lập các quan hệ với Hoa Kỳ khởi sự có ư nghĩa rơ ràng.

       Hiệp ước Sô Viết – Việt Nam hẳn đă phải thuyết phục được phía Trung Quốc về sự hữu dụng của việc b́nh thường hóa các quan hệ Hoa Kỳ-Trung Quốc trong việc tái lập một cán cân quyền lực cấp vùng thuận lợi cho Trung Quốc.  Vào cuối Tháng Bảy 1978, Việt Nam cũng tiếp xúc với Hoa Kỳ.  Việt Nam đă từ bỏ các điều kiện tiên quyết trước đó về các khoản bồi thường vào khoảng 4,750 triệu Mỹ Kim, nhưng sự đối xử vô nhân đạo với chính người dân của nó, các binh sĩ của nó tại Kampuchea, và các liên hệ chặt chẽ hơn của nó với Moscow khiến cho Washington cảnh giác nhiều hơn.  Chính v́ thế Hoa Kỳ đă đáp ứng một cách thuận lợi với sự sẵn ḷng của Trung Quốc, được biểu lộ một cách lặng lẽ hồi đầu Tháng Mười Hai, để thỏa hiệp trên vấn đề Đài Loan hầu thiết lập các quan hệ ngoại giao đầy đủ.

       Chính Phủ Hoa Kỳ đă muốn giữ lại quyền để tiếp tục bán vũ khí cho Đài Loan, ngay dù sau Tháng Một 1979, khi Hiệp Ước Pḥng Thủ Hỗ Tương với Trung Hoa Dân Quốc sẽ bị hủy bỏ.  Giới lănh đạo Trung Quốc đă không thể chấp nhận điều này.  Điểm đó đă được tranh luận giữa hai bên trong các cuộc thương thảo cứng rắn trong suốt hai tuần lễ đầu tiên của Tháng Mười Hai.  Kết quả là, trong lời tuyên bố với báo chí của Chủ Tịch Hoa Quốc Phong hôm 15 Tháng Mười Hai, “Hai bên đă có các sự khác biệt về điểm này.  Dù thế, chúng tôi đă đạt được một sự thỏa thuận trên bản thông báo chung [cho sự b́nh thường hóa] (Beijing Review, số 51, 22 Tháng Mười Hai 1978, các trang 10-11).  Rất nhiều phần như thể Trung Quốc đă thỏa hiệp với Hoa Thịnh Đốn vào giờ phút chót.  Vào giữa Tháng Mười Hai, sự liên hệ giữa sự b́nh thường hóa các quan hệ Hoa Kỳ - Trung Quốc và hành động quân sự kế tiếp của Trung Quốc đánh Việt Nam th́ không rơ rệt.  Nhưng cả hai việc đều liên quan một cách chặt chẽ trong chiến lược của Bắc Kinh, như Thượng Nghị Sĩ Hoa Kỳ Charles Percy đă nói, “Giờ đây chúng ta biết lư do tại sao Trung Quốc lại bày tỏ sự vội vă như thế trong việc b́nh thường hóa các quan hệ với Hoa Kỳ”. (Time, 5 Tháng Ba 1979, trang 35).

       Một số sự tường thuật cho thấy rằng, sau bản thông cáo ngày 15 Tháng Mười Hai, trong thực tế bảo đảm an ninh của Đài Loan, Bắc Kinh đă khởi sự chuyển một số binh sĩ thuộc Quân Khu Phúc Kiến đến các biên giới phía bắc và phía nam (xem, thí dụ, Kyodo News Service (Hăng Thông Tấn Kyodo), 6 Tháng Một 1979), nhưng các sự di chuyển binh sĩ như thế không hề được xác nhận.  Song điều đă xuất hiện một cách rơ ràng hôm 25 Tháng Một là sự thay thế Tư Lệnh Quân Khu Côn Minh, Wang Bicheng, bằng Dương Đắc Chí (Yang Dezhi).  Dương, một cựu tư lệnh Quan Khu Vũ Hán, được củ làm tư lệnh các lực lượng Mặt Trận Phương Nam để giao tranh với phía Việt Nam (Asahi Shimbun, 18 Tháng Hai 1979).  Tham Mưu Trưởng của họ Dương là Zhang Tingfa, tư lệnh Không Lực QĐNDGPTQ và là một ủy viên của Bộ Chính Trị của Đảng.  Họ Dương là một chiến sĩ thiện chiến với kinh nghiêm trong Cuộc Chiến Tranh Triều Tiên.  Ông ta đă được thăng chức làm phó tư lệnh thứ nh́ trong năm 1954.  Điều quan trọng hơn nữa là trong năm 1967 Yang đă cầm đầu một phái đoàn thân hữu Trung Quốc sang Việt Nam và đă có một cơ hội để nghiên cứu các khả năng quân sự của Việt Nam một cách chặt chẽ.  Chính v́ thế, sự bổ nhiệm ông ta là thích hợp, khi các binh sĩ của ông sẽ phải chiến đấu trên địa h́nh Việt Nam, một ngh́n thước cao hơn mặt biển.  Sự bổ nhiệm họ Zhang cũng như thế, phán đoán từ sự tường thuật trên báo chí rằng Trung Quốc có độ 700 đến 1,000 máy bay sẵn sàng cho sự sử dụng tức thời, mặc dù chỉ có ít chiếc là thực sự tham chiến.  Cũng cần phải ghi nhận rằng, tại Phiên Họp Khoáng Đại Thứ Ba của Ủy Ban Trung Ương ĐCSTQ, được triệu tập từ 18 đến 22 Tháng Mười Hai 1978, một trong các đồng sự thân cận nhất của Đặng [Tiểu B́nh], Geng Biao, đă được bổ nhiệm làm bí thư của Quân Ủy – một chuyển động có ư nghĩa khác để chuẩn bị cho “cuộc chiến tranh của họ Đặng”.

       Trong 1978, nếu các lời tuyên bố của Trung Quốc là chính xác, Việt Nam đă tổ chức ba cuộc trưng binh, bổ sung khoảng 400,000 lính chính quy vào quân đội của nó, và đă gọi tái ngũ khoảng 200,000 cựu chiến binh cho các đơn vị quân đội.  (Sự bổ sung khoảng 600,000 lính này sẽ đem mức độ lực lượng Việt Nam tổng cộng lên tới 1,200,000, không mấy sai biệt với con số 1,023,000 lính được đưa ra trong tập sách thường đáng tin cậy nhan đề Military Balance 1979-80).  Vào cuối Tháng Mười Hai năm đó, Hà Nội đă đồn trú khoảng mười bốn sư đoàn dọc theo biên giới Kampuchea và đă có các dâu hiệu rằng một số trong bốn sư đoàn của nó trú đóng tại Lào cũng đang trên đường hướng xuống phía nam. Nếu chỉ có cuộc tranh chấp Việt Nam – Kampuchea, Trung Quốc có thể không xem là cần thiết để “dạy một bài học” cho Việt Nam.  Nhưng khi các biên giới của chính Trung Quốc bị đe dọa, nó cảm thấy bị bắt buộc phải b́nh định chúng, như nó đă làm trên biên giới Triều Tiên hồi cuối năm 1950 và biên giới Ấn Độ trong năm 1962.  Các con số chính thức được phổ biến bởi hai chính phủ về tần số của các biến cố biên giới th́ không phù hợp nhau, nhưng chúng làm liên tưởng đến sự dâng cao của các biến cố sau năm 1975.  Phía Trung Quốc tuyên xác 121 vụ gây ra bởi Việt Nam và phía Việt Nam tuyên xác 179 vụ bị khiêu khích bởi Trung Quốc trong năm 1974, được theo sau, lần lượt, bởi 439 và 294 biến cố cho năm 1975; 986 và 812 vụ cho năm 1976; 752 và 873 cho năm 1977; và 1108 và 583 vụ cho năm 1978.  Trong khi có một sự sai biệt lớn giữa hai con số của năm 1978, Trung Quốc cho rằng sự gia tăng rơ rệt tới 1108 vụ năm đó có liên hệ chặt chẽ với sự tăng cường chính sách “bành trướng chủ nghĩa” đương thời khi đó của Việt Nam.

       Tờ Nhân Dân Nhật Báo ngày 25 Tháng Mười Hai 1978 có đăng tải bài quan điểm ban biên tập, “Có một Giới Hạn cho sự Chịu Đựng của Trung Quốc”, trong đó nó đă nêu ư kiến về “một cuộc chiến tranh trừng phạt”.  Bài báo phát biểu:

Các nhà cầm quyền Việt Nam đă đi đủ xa trong việc theo đuổi đường hướng chống Trung Quốc của họ.  Có một giới hạn cho sự chịu đựng và kiềm chế của nhân dân Trung Quốc.  Trung Quốc không bao giờ bắt nạt, và sẽ không bao giờ tỏ vẻ bắt nạt, bất kỳ nước nào; nó cũng sẽ không để cho ḿnh bị dọa nạt bởi các nước khác.  Nó sẽ không bao giờ tấn công trừ khi bị tấn công.  Nhưng nếu nó bị tấn công, chắc chắn nó sẽ phản công.  Trung Quốc thực sự nghĩ như những ǵ nó nói ra.  Chúng tôi muốn cảnh cáo các nhà cầm quyền Việt Nam rằng nếu họ dựa vào sự ủng hộ của Moscow để t́m cách được đằng chân lân đằng đầu và tiếp tục hành động trong một cung cách không kiềm chế, họ nhất quyết sẽ gặp phải sự trừng phạt mà họ xứng đáng [nhận lănh].  Chúng tôi đang nói với các người điều này vào lúc này.  Đừng than phiền sau này rằng chúng tôi đă không trao cho các người một sự cảnh cáo rơ ràng trước (Beijing Review, số 52, 29 Tháng Mười Hai 1978, trang 24).

       Bài quan điểm ban biên tập có thể có chủ định tạo áp lực trên quân đội Việt Nam ngay khi sắp sửa tiến vào Kampuchea, nhưng quan trọng hơn, nó cho thấy rằng chính phủ Bắc Kinh đă hoạch định về việc trừng phạt Hà Nội ra sao trước khi Hà Nội khởi sự cuộc xâm nhập quân sự của nó vào Kampuchea.  Khi phía Việt Nam kỷ niệm Ngày Quân Đội của họ hôm 21 Tháng Mười Hai, Bắc Kinh đă đóng cửa dịch vụ đường hỏa xa từ biên giới tới Hà Nội, chính v́ thế, cắt đứt đường chở nhiên liệu từ Trung Quốc, tương đương vào khoảng một phần ba số dầu của Việt Nam.

       Trung Quốc đă có nhiều hơn một việc để làm.  Đó là cuộc thăm viếng của họ Đặng tại Hoa Thịnh Đốn.  Trong Tháng Mười, ông ta đă hoàn tất một cuộc thăm viếng thành công tại Tokyo, xuất hiện lần đầu tiên trước một cuộc họp báo kiểu Tây Phương, sự kiện mà ông đă xử dụng để binh vực cho một “mặt trận thông nhất chống bá quyền”.  Vào cuối Tháng Mười Một, họ Đặng có nói với một chính trị gia Nhật Bản sang thăm viêng (Yoshikatsu Takeiri, Chủ Tịch Đảng Komeito) về niềm ước muốn của ông sang thăm Hoa Kỳ.  Sau một vài sự quanh co, Hoa Thịnh Đốn đă đưa ra một lời mời chính thức đến họ Đặng hôm 11 Tháng Mười Hai.  Vào đầu Tháng Một, các nguồn tin t́nh báo Mỹ phổ biến cho báo chí tin tức rằng một số lượng lớn lao các binh sĩ Trung Quốc đă tập hợp dọc theo biên giới phía nam “trong hai tuần qua”.  Cuộc thăm viếng của họ Đặng đên Hoa Kỳ đă được quyết định vào ‘một ngày (9 Tháng Một) trước khi nó được loan báo”, theo lời của Richard Holbrooke (xem bài diễn văn của ông ta tại Asia Society, New York, 24 Tháng Một 1979).  Đó là một cuộc thăm viếng được sắp xếp một cách vội vă, từ điều mà họ Đặng hẳn đă phải tính toán hiệu quả của “lá bài Mỹ” được dùng để chống lại “chính sách bá quyền” của Sô Viết.

       Trong cuộc thăm viếng của ông ta tại Hoa Kỳ từ 29 Tháng Một đến 5 Tháng Hai, họ Đặng đă bị khuyến cáo bởi Tổng Thống Carter về hành động trừng phạt chống Việt Nam, nhưng ông ta dường như đă không mấy để ư đến điều này.  Trong một buổi ăn trưa với một nhóm kư giả Mỹ tại Hoa Thịnh Đốn hôm 31 Tháng; Một, ông ta có nói:

Chúng tôi gọi Việt Nam là Cuba của Phương Đông.  Nếu bạn không dạy cho họ vài bài học cần thiết, họ sẽ không biết phải quấy là ǵ … Nhưng về hành động nào được thực hiện, chúng ta sẽ phải chờ xem.  Tôi có thể nói hai điều: một, phía Trung Quốc chúng tôi thực sự nghĩ như những ǵ nói ra; và hai, chúng tôi không hành động một cách hấp tấp (Beijing Review, số 6, 9 Tháng Hai 1979, các trang 13-14).

       Họ Đặng hẳn đă nghĩ Chính Quyền Carter có thể không giúp đỡ nhưng mặc nhiên đồng ư, nếu không ủng hộ, cuộc tấn công của Tr8ung Quốc vào Việt Nam.  Từ quan điểm của Trung Quốc, sẽ là điều gây bối rối cho Carter, trong thực tế, có tính chất bất khả về mặt chính trị, để hủy bỏ “tuần trăng mật” với Bắc Kinh chỉ vài tuần lễ sau khi kết thúc các cuộc đàm phán b́nh thường hóa vốn được thương thảo lâu dài.

       Vào hôm 2 Tháng Hai, các nguồn tin của Chính Phủ Mỹ khiến nghĩ rằng Trung Quốc sẽ sớm thực hiện “một cuộc tấn công giới hạn”.  Trên đường về nước, họ Đặng đă dừng chân tại Tokyo, và gặp gỡ, trong số các người khác, Thủ Tướng Masayoshi Ohira và cựu Thủ Tướng Kakuei Tanaka, là những người mà một lần nữa, họ Đặng đă thuyết giảng về nhu cầu”‘chế tài” chống Việt Nam.  Ngày sau khi ông về nước, vào hôm 9 Tháng Hai, ông đă triệu tập Ban Thường Vụ Bộ Chính Trị, cơ cấu đă quyết định “trừng phạt” Việt Nam.  Theo sau đó, các bản tin đài phát thanh và báo chí của Bắc Kinh đă tung ra một loạt các sự kết án Việt Nam v́ sự cư xử của nó tại các khu vực biên giới và tại Kampuchea, hiển nhiên đă được thiết kế để hướng đến dư luận thế giới và trong nước hậu thuẫn cho hành động quân sự sắp diễn ra của nó.  Vào ngày 12 Tháng Hai, Chủ Tịch Hoa Quốc Phong đă triệu tập một phiên họp của Ủy Ban Quân Sự của Ủy Ban Trung Ương Đảng.  Tuy nhiên, họ Đặng, đă khống chế các diễn tiến phiên họp với tư cách phó chủ tịch quân ủy kiêm Tổng Tham Mưu Trưởng QĐGPNDTQ.

       Tổng Thống Carter, hay biết về sự bùng nổ sắp xảy ra của cuộc chiến tranh Trung-Việt, đă triệu tập tại Ṭa Bạch Ốc buổi tối (giờ Hoa Thịnh Đốn) hôm 16 Tháng Hai, một phiên họp đặc biệt đă quyết định về lập trường căn bản của Hoa Kỳ đối với cuộc chiến tranh.  Điều đă được quyết định trong số các điều khác, là không can thiệp vào các chiến sự giữa các nước cộng sản, không để cho sự bùng nổ leo thang, và không để cho cuộc chiến tranh làm phương hại các quan hệ Hoa Kỳ-Trung Quốc và an ninh của Hoa Kỳ tại Đông Nam Á.

 

Ấn Định Thời Biểu

       Hôm 13 Tháng Hai, Hà Nội đă đặt toàn thể xứ sở ở mức độ cao nhất của sự chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh với Trung Quốc, nhưng rơ ràng họ đă không chờ đợi hành động của Trung Quốc khởi sự khi nó diễn ra, vào hôm 17 Tháng Hai.  Cuộc tấn công xảy ra khi Thủ Tướng Phạm Văn Đồng đang ở Phnom Penh, để kư kết với chế độ Heng Samrin một bản hiệp ước Ḥa B́nh, Hữu Nghị và Hợp Tác giữa Việt Nam và Kampuchea.  Nhiều sự ức đoán th́ khả hữu về các yếu tố mà các nhà lănh đạo Trung Quốc xem là quan trọng nhất trong việc ấn định thời biểu cho cuộc ta6n’ công.

       Trước tiên, Trung Quốc đă muốn đạt được các mục đích của nó và rút quân trước khi mùa mưa bắt đầu trong Tháng Tư.  Bởi Bắc Kinh đă giới hạn các mục tiêu của nó vào việc b́nh định biên giới hơn là tấn công Hà Nội hay chiếm cứ một khu vực nào đó của Việt Nam, có thể nó đă không chủ định giữ các binh sĩ ở đó trong một thời kỳ lâu dài, như đă tuyên bố.  Các nỗ lực ngoại giao của họ Đặng để có được một số mức độ của sự thỏa thuận trước từ Hoa Thịnh Đốn và Đông Kinh trên các ư định của Trung Quốc th́ quan trọng.  Một cách hữu lư, các cuộc hành quân đă phải diễn ra sau khi có sự trở về của họ Đặng từ Hoa Kỳ và trước Tháng Tư.

       Thứ nh́, nếu Liên Bang Sô Viết sẽ can thiệp quân sự từ phía bắc, nó sẽ phải đối diện với các sự khó khăn về tiếp vận sau Tháng Ba, bởi mặt đất đóng băng tại miền bắc Trung Quốc và các con sông Amur và Ussuri đóng băng, vốn có thể được sử dụng để bộ binh tiến quân xuống hướng nam, sẽ bắt đầu tan băng.  Điều này, có lẽ phía Trung Quốc đă lư luận, sẽ giúp để làm nản ḷng sự bố trận của Sô Viết và sẽ giữ một cuộc chiến tranh hạn chế không leo thang thành cuộc xung đột vũ trang rộng lớn hơn (xem bài viết của  Harlan W. Jencks, trong tờ Asian Survey, Tháng Tám 1979).  Điều đó khiến cho việc kết thúc một cuộc tấn công biên giới vào Việt Nam trước cuối Tháng Ba trở nên quan trọng hơn.  Người ta có thể nhớ lại rằng phía Trung Quốc đă cứu xét các điều kiện thời tiết tương tự khi hoạch định cuộc xung đột biên giới với Ấn Độ trong các Tháng Mười - Tháng Mười Hai 1962.  Phía Trung Quốc rơ ràng đă ấn định thời biểu cuộc tấn công của họ cho nhiều tuần lễ gần đến mùa đông tại rặng Hy Mă Lạp Sơn nhằm ngăn cản binh sĩ Ấn Độ không tiến quân xuyên qua địa h́nh khi đó ngập sâu dưới tuyết.  Với cách đó họ đă ngặn chặn sự đụng độ tới một cuộc chiến tranh hạn chế.  Ngược lại, trong Tháng Mười Hai 1971, Thủ Tướng khi đó, Indira Gandhi, đă chọn mùa đông cho cuộc tấn công, nhằm làm nản ḷng các binh sĩ Trung Quốc không băng qua Hy Mă Lạp Sơn để trợ giúp các lực lượng Pakistan.  Nhiều cuộc đụng độ lớn tại Á Châu, nổi bật nhất là Cuộc Chiến Tranh Việt Nam, đă bị điều kiện hóa bởi thời tiết.

       Thứ ba, sẽ an toàn để ức đoán rằng họ Đặng đă giả định rằng quan tâm lớn nhất của Brezhnev nằm ở các cuộc thương thảo thành công cho Thỏa Ước Các Cuộc Đàm Phán Giới Hạn Vũ Khí Chiến Lược (Strategic Arms Limitations Talks : SALT ) II với Hoa Thịnh Đốn.  Một khi Sô Viết tấn công Trung Quốc, nhóm chống SALT tại Quốc Hội Hoa Kỳ sẽ sử dụng điều đó trọng vụ chống đối của họ đối với Liên Bang Sô Viết như một nước gây hấn và bành trướng, không quan tâm thành thực đến ḥa b́nh quốc tế.  Như sự việc đă diễn ra, trong bài diễn văn hôm 2 Tháng Ba của ḿnh, Brezhnev đă kiềm hăm không gửi quân sĩ sang giao chiến với phía Trung Quốc, như nhiều quan sát viên đă ức đoán rằng ông có thể làm như thế, và thay vào đó đă nhấn mạnh đến tầm quan trọng của Thỏa Ước SALT II.

       Sau cùng, sự lựa chọn ngày D (Ngày Khởi Sự) rất có thể đă liên hệ với cuộc thăm viéng Bắc Kinh của Bộ Trưởng Ngoại Giao Ấn Độ Atal Behari Vajpayyee, kẻ đă là viên chức Ấn Độ cao cấp đầu tiên đến thăm kể từ sau chiến tranh biên giới 1962.  Các nhà lănh đạo Trung Quốc có thể đă giả định rằng Hà Nội sẽ không chờ đợi một cuộc tấn công từ Trung Quốc chừng nào vị khách Ấn Độ vẫn c̣n ở Bắc Kinh.  (Vajpayee đă đến hôm 12 Tháng Hai và dự định sẽ ở lại cho đến hôm 19 Tháng Hai) hay ít nhất Chính Phủ Hà Nội có thể đă nghĩ như thế.  Chính v́ thế, Phạm Văn Đồng và nhóm của ông ta đă ở tại Phnom Penh từ 16 đến 19 Tháng Hai.  Đoàn tùy tùng của ông gồm cả Phó Thủ Tướng kiêm Bộ Trưởng Ngoai Giao Nguyễn Duy Trinh, Phó Thủ Tướng Lê Thanh Nghị, và Tông Tham Mưu Trưởng QĐNDVN Văn Tiến Dũng.   Mặc dù là điều quan trọng cho Việt Nam để hợp pháp hóa sự hiện diện quân sự của nó tại Kampuchea bằng hiệp ước Ḥa B́nh, Hữu Nghị và Hợp Tác song phương với Heng Samrin, người ta có một lư do tốt để thắc mắc tại sao một nhóm các nhân vật then chốt như thế đă rời Hà Nội ngay khi các quan hệ Việt-Trung đang tiến tới một đường hướng đụng độ.  Vajpayee đă cắt ngắn cuộc thăm viếng của ông một ngày và đă quay về nước hôm 18 Tháng Hai.  Trung Quốc đă hy sinh cơ hội quan trọng để cải thiện các quan hệ với Ấn Độ, nhưng rơ ràng đă làm cho Việt Nam bị bất ngờ.

       Dĩ nhiên, một sự giải thích ngược lại cũng là điều khả hữu: hay biết rằng Phạm văn Đồng và nhóm của ông ta sẽ đến Phnom Penh hôm 16 Tháng Hai, các nhà lănh đạo Bắc Kinh có thể đă quyết định giáng một trận đánh chính trị vào uy tín của ông ta.  Trả giá bằng việc xúc phạm Vajpayee, họ có thể đă tính toán hiệu quả của việc tấn công Việt Nam ngày sau ngày mà [Phạm Văn] Đồng và Heng Samrin, các kẻ đă cùng nhau lật đổ chính phủ hậu thuẫn bởi Bắc Kinh, sẽ gặp nhau tại Phnom Penh.

 

Các Cuộc Hành Quân

       Như chính Đặng Tiểu B́nh đă xác nhận với các thống tín viên Mỹ hôm 27 Tháng Hai, Trung Quốc đă có 17 sư đoàn lục quân hay khoảng 225,000 lính dọc biên giới, và trong đó, 75,000 đến 85,000 đă thực sự băng ngang qua biên giới.  Nhưng Trung Quốc đă loan báo trong suốt các chiến sự rằng “các binh sĩ biên pḥng” của nó đă phóng ra “một cuộc hoàn kích tự vệ”.  Việt Nam có khoảng 100,000 binh sĩ địa phương và dân quân đánh nhau với quân chính quy Trung Quốc.  Cuộc chiến tranh mười bảy ngày từ 17 Tháng Hai đến 5 Tháng Ba đă trải qua bốn giai đoạn:

(1) Trong ba ngày đầu tiên các lực lượng QĐGPNDTQ đă xâm nhập từ hơn hai mươi địa điểm dọc biên giới và tiến quân khoảng năm đến mười cây số bên trong Việt Nam, chiếm cứ Lào Cai hôm 19 Tháng Hai.  QĐGPNDTQ đă gặp phải sự kháng cự lớn hơn điều mà nó xem ra đă ước định.

(2) Nhưng, vào hôm 25 Tháng Hai, QĐGPNDTQ đă chiếm cứ tỉnh lỵ của Hà Giang, và thành phố Đồng Đăng.  Họ đă tiến quân sâu ba mươi đến năm mươi cây số tính từ biên giới.

(3) Vào hôm 27 Tháng Hai, QĐGPNDTQ đă tràn ngập Cao Bằng và tiến tới Lạng Sơn, một tỉnh lỵ chiến lược trên con đường xâm lăng truyền thống tới Hà Nội chỉ cách 140 cây số theo hướng tây nam.  Đó là chiến dịch gay go nhất trong toàn thể cuộc xâm lăng.  Điều đă được tường thuật rằng, vào lúc kết thúc sự giao tranh hôm 5 Tháng Ba, toàn thể thành phố Lạng Sơn đă bị phá hủy thực sự.

(4) Vào ngày họ giành đoạt được sự kiểm soát Lạng Sơn, các lực lượng Trung Quốc đă bắt đầu triệt thoái.

       Trong khi đó cả hai bên đều thực hiện một cuộc chiến tranh tuyên truyền toàn diện.  Điều này khiến cho việc lượng định chính xác sự tổn hại và các số tổn thất trở nên khó khăn.  Phán đoán từ nhiều nguồn tin báo chí khác nhau, người ta có thể nói rằng phía Trung Quốc đă phá hủy không chỉ các cơ sở quân sự quan trọng mà c̣n cả các chiếc cầu, các cơ xưởng, các nhà máy phát điện, các trường học, các ngôi chợ, và các cơ sơ tương tự tại các thị trấn và các ngôi làng lớn nằm trong phạm vi năm mươi cây số từ biên giới, và rằng các cư dân của các thị trấn địa phương lớn đă mất phần lớn hay tất cả tài sản gia đ́nh.  Bởi v́ các nông dân đă phải di tản, họ đă bỏ lỡ mùa trồng lúa gạo.  Tuy nhiên, các binh ś địa phương Việt Nam, các kẻ được huấn luyện tốt hơn và đă có thể giao chiến thiện nghệ hơn các địa phương quân thông thường [dân quân?] chống lại quân “chính quy” tấn công từ Trung Quốc, đà gây ra các sự tổn thất về quân dụng và nhân mạng đáng lể cho các kẻ xâm lăng.

       Vào đầu Tháng Tư, ĐCSTQ đă thông báo các đảng cho viên cấp dưới rằng một tổng số 57,000 binh sĩ Việt Nam đă bị giết chết và hơn 2,300 người bị bắt giữ, kể cả tám sĩ quan cấp đại tá.  Mặc dù phía Trung Quốc không phổ biến các con số tổn thất của chính nó, một tờ báo Hồng Kông đă ước lượng hơn 10,000 người bị hạ sát (Ming Bao, 3 Tháng Tư 1979).  Trong cả hai ngày 20-21 Tháng Hai [tạm ngừng nghỉ], một số quan sát viên đă giải thích như một dấu hiệu rằng Trung Quốc đang cho rút quân.  Nhưng rơ ràng phía Trung Quốc chỉ cần một hai ngày để tăng cường cho hỏa lực tiền tuyến của họ, [v́ việc] ước lượng thấp khả năng kháng cự của Việt Nam.  Trong ba ngày đầu tiên của sự giao tranh, tờ báo nêu trên ghi nhận phía Trung Quốc đă mất nhiều nhân mạng như đối phương của họ, nhưng sau khi hỏa lực được tăng cường, sự tổn thất của Trung Quốc đà được giảm bớt bằng một phần tư các sự tổn thất của Việt Nam.

       Phía Trung Quốc đă đạt được các mục đích của họ hay không? Như đă nói ở lúc khởi đầu cuộc chiến tranh, các mục tiêu của họ là “b́nh định biên giới”, “dạy một bài học” cho phía Việt Nam, và “phá vỡ huyền thoại vô địch của Việt Nam”, trong khi mục tiêu không được nói ra của Trung Quốc có lẽ nhằm ép binh sĩ Việt Nam phải rút ra khỏi Kampuchea.  Họ đă b́nh định biên giới ít nhất trong một thời khoảng nhưng chiến dịch của họ hầu như không có ảnh hưởng nào trên sự hiện diện quân sự của Việt Nam tại Kampuchea.  Họ có thể chỉ ghi nhận rằng khoảng 50,000 quân chính quy theo lời tường thuật đă được di chuyển bằng đường hàng không và đường bộ, từ Lào và Căm Bốt, trở về pḥng thủ Hà Nội vào hôm 24 Tháng Hai, khi quân đội Trung Quốc khởi sự việc tấn công Lạng Sơn.  Và bất kể các lời tuyên bố của Trung Quốc rằng quân chính quy Việt Nam đă tham gia vào sự giao tranh, chỉ có một ít quân chính quy QĐNDVN có can dự trực tiếp.  Một số đă được phái lên phía bắc để pḥng thủ Lạng Sơn (tin đài phát thanh Hà Nội hôm 24 Tháng Hai, trong khi tường thuật một huy chương đă được trao tặng bởi Chủ Tịch nước cho QĐNDVN và trung đoàn địa phương 13, xác nhận rằng ít nhất một số quân chinh quy đă tham gia vào cuộc chiến tranh.) Chính v́ thế mục tiêu của Trung Quốc nhằm phá tan huyền thoại về sự vô địch quân sự của Việt Nam đă không đạt được, bởi phía Trung Quốc đă không thể nhử họ [quân chính quy Việt Nam] tham gia vào cuộc xung đột.

       Phía Trung Quốc dường như không hề có bất kỳ ư định nào về việc tấn công Hà Nội.  Có ít nhất ba nguyên do.  Trước tiên, sự pḥng thủ Hà Nội th́ quá mạnh và chặt chẽ đến nỗi bất kỳ mưu toan nào để tấn công thành phố đều sè gặp phải phản ứng dữ dội.  Thứ nh́, phía Trung Quốc sẽ không thể duy tŕ sự yểm trợ tiếp vận cho các hoạt động quân sự đánh vào Hà Nội.  Trong thực tế, QĐGPNDTQ đă phải giới hạn các hoạt động quân sự trong phạm vị khoảng năm mươi cây số từ biên giới, bởi các hỏa tiễn địa-không của họ (loại CSA-1 hay loại cải biến hỏa tiễn Sô Viết SA-2) đặt tại biên giới chỉ có thể cung cấp sự yểm trợ không gian bên trong bán kính đó.  Hà Nội đă miễn cưỡng để điều động không lực, phần lớn bởi nó không muốn bỏ bom và phá hủy lănh thổ của chính ḿnh.  Địa thế phức tạp đă làm nản ḷng cả hai bên trong việc điều động các phi công thiếu kinh nghiệm.  Các tiện nghi truyền tin không-dia yếu kém, đặc biệt trong không lực Trung Quốc, được nói là một nguyên do khác.  Việc không sử dụng không lực của cả hai bên trong thực tế là kết quả của sự kiềm chế có ư thức.  Thứ ba, một cuộc tấn công của Trung Quốc vào Hà Nội có thể mang lại cho Sô Viết lư do biện minh của sự can thiệp quân sự.  Khi cuộc xung đột bắt đầu tại phương nam, Trung Quốc cũng đă đặt các khu vực biên giới phía bắc thuộc các quân khu Tân Cương, Lan Châu, Bắc Kinh và Thiểm Dương trong t́nh trạng báo động toàn diện.  Sô Viết, về phần ḿnh, đă có khoảng bốn mươi bốn sư đoàn dọc biên giới Trung Quốc, nhưng chỉ có phân nửa là hoàn toàn có đủ quân số và vũ khí.  Điều được tin rằng quân đội Sô Viết hoàn toàn chưa sẵn sàng cho một trận đánh trên đất liền toàn diện với Trung Quốc.  Trong khi tuyên bố rằng “chúng tôi đă tính toán các bước đi của Sô Viết một cách cẩn thận”, có lẽ họ Đặng đă ám chỉ rằng các nhà lănh đạo của Trung Quốc đang suy nghĩ: chừng nào Trung Quốc không tấn công Hà Nội, người Nga sẽ không quấy rối về mặt quân sư các lănh thổ phía bắc của Trung Quốc.

       Có lẽ thành quả lớn nhất của Trung Quốc là sự tín nhiệm mà họ đă thiết lập được: Trung Quốc thực sự đă làm những ǵ nó nói là nó sẽ làm.  Một số quan sát viên có mặt tại Hà Nội vào lúc đó đă xuất hiện và tường thuật rằng phía Việt Nam đă thực sự bị rung động khi nh́n thoáng qua hành động của Trung Quốc.  Nếu mục đích tối hậu của Trung Quốc là buộc Việt Nam phải rỉ máu về mặt kinh tế và quân sự, nó chắc chắn đă có một tác động – áp lực tâm lư đă được thi hành một cách thành công trên Hà Nội nhằm giảm bớt các ràng buộc của nó với Moscow và làm nhẹ bớt sự đối nghịch đối với Bắc Kinh.

 

Các Âm Vang Quốc Tế

       Các phản ứng đối với cuộc công kích của Trung Quốc vào Việt Nam một cách dễ tiên đoán đă lôi kéo các sự đáp ứng khác nhau từ phe xă hội chủ nghĩa và phe được gọi là cộng sản Âu Châu.  Liên Bang Sô Viết được gia nhập bởi Cuba, Mông Cổ, Đông Đức, Tiệp Khắc, Bulgaria, Hung Gia Lợi, Ba Lan, và Albania trong việc kết án cuộc xâm lăng và đ̣i hỏi một sự triệt thoái tức thời của các binh sĩ Trung Quốc.  Rumania đă yêu cầu cả Việt Nam lẫn Trung Quốc lần lượt rút quân của họ ra khỏi Kampuchea và Việt Nam, trong khi Bắc Hàn giữ im lặng trong một lúc và sau đó đứng vào hàng ngũ với Trung Quốc.  Tất cả các đảng cộng sản Tây Âu, kể cả Pháp, Ư Đại Lợi, Tây Ban Nha, và Bồ Đào Nha, đă bày tỏ cảm t́nh với Việt Nam.  Trong số các đồng minh của Moscow, Cuba đă đưa ra một cử chỉ thân t́nh nhất.  Vào hôm 23 Tháng Hai, theo đài phát thanh Moscow, Ủy Ban Pḥng Vệ Cách Mạng Của Cuba đă gửi một thông điệp đến Hà Nội, hứa hẹn “viện trợ và sự ủng hộ không giới hạn” của nhân dân Cuba dành cho người anh em Việt Nam của họ.  Vào hôm 2 Tháng Ba, Đại Sứ Cuba tại Mexico City có tuyên bố trong một cuộc phỏng vấn với tờ El Sol rằng nước của ông sẵn sàng trợ giúp Việt Nam bằng mọi cách cần thiết, kể cả việc “phái sang các binh sĩ”.  Phía Việt Nam đă từ khước đề nghị này.  Một sự tường thuật không được xác nhận cũng tuyên bố một cuộc gọi nhập ngũ khẩn cấp các quân nhân trừ bị tại Mông Cổ, rơ ràng để tạo áp lực trên Bắc Kinh.

       Cho đến giờ kẻ ủng hộ đáng tin cậy nhất của Việt Nam là Liên Bang Sô Viết.  Vào hôm 18 Tháng Hai, một ngày sau khi cuộc tấn công của Trung Quốc khởi sự, Moscow đă đả kích Trung Quốc và nhắc lại một cách lớn tiếng các nghĩa vụ cvủa nó được quy định trong hiệp ước Sô Viết – Việt Nam.  Cùng lời nhắn này đă được lập lại bởi Bộ Trưởng Ngoại Giao Andrei Gromyko với Đại Sứ Việt Nam tại Moscow (18 Tháng Hai), bởi Bộ Trưởng Quốc Pḥng Dmitri Ustinov (23 Tháng Hai), bởi I. Aleksandrov, một b́nh luận gia tờ Pravda (28 Tháng Hai), bởi Thủ Tướng Aleksey Kosygin (1 Tháng Ba), và sau cùng bởi đích thân Leonid Brezhnev (2 Tháng Ba).  Không lời nào trong các sự phát biểu này, tuy thế, khác với lời tuyên bố của Cuba, lại đă đưa ra bất kỳ sự đề cập nào đến việc gửi sang các binh sĩ.  Một nguồn tin Chính Phủ Mỹ tiết lộ hôm 28 Tháng Ba rằng, trong khi giao tranh, Liên Bang Sô Viết đă đề nghị với Việt Nam để gửi sang một tiểu đoàn quân Cuba, điều bị từ chối thẳng thừng bởi Việt Nam (Asahi Shimbun, 29 Tháng Ba 1979).  Nh́n lại, những ǵ Sô Viết thực sự đă làm là:

(1) phái đi các phi vụ thám thính máy bay TU-95D Bear xuống phía nam từ Vladivostok, khởi sự ngay từ hôm 18 Tháng Hai;

(2) di chuyển một phần Hạm Đội Thái B́nh Dương của Sô Viết xuống phía nam, và

(3) cung cấp các vũ khí và nhân viên quân sự (có lẽ với tư cách các cố vấn).

       Vào hôm 23 Tháng Hai, Hoa Kỳ đă xác nhận rằng sáu vận tải cơ Antonov-22 to lớn đă tới Hà Nội từ miền nam của Liên Bang Sô Viết, và được tin rằng một trong các máy bay đó có chuyên chở các viên chức cao cấp.  Vào hôm 26 Tháng Hai, hai chuyến máy bay khác chuyên chở quân dụng đến Hà Nội xuyên qua Calcutta được xác nhận.  Vào hôm 5 Tháng Ba, ba tàu chiến của Sô Viết đă tiến vào hải cảng Đà Nẵng, và vào hôm 25 Tháng Ba, một tuần dương hạm trang bị hỏa tiễn được hướng dẫn, một khu trục hạm và tàu quét ḿn được phát hiện tại Vịnh Cam Ranh.

       Quan tâm chính của Chính Quyền Carter là ngăn chặn chiến tranh, chính yếu bằng phương tiện ngoại giao.  Vào hôm 24 Tháng Hai, Thứ Trưởng Ngoại Giao Warren Christopher đă gặp Chai Zemin, Giám Đốc Văn Pḥng Liên lạc của CHNDTQ tại Washington, và thúc dục Bắc Kinh triệt thoái binh sĩ của họ.  Cùng ngày, ông đă thuyết phục Đại Sứ Sô Viết Dobrynin rằng Moscow phải thực hiện sự kiềm chế tại biên giới Nga-Hoa.  Trong một dấu hiệu khác của sự sẵn ḷng của Hoa Thịnh Đốn để chấp nhận hành động quân sự hạn chế của Trung Quốc, Carter đă quyết định rằng ông Michael Blumenthal, Bộ Trưởng Ngân Khố, sẽ đi đến Bắc Kinh hôm 24 Tháng Hai như đă dự liệu, và Blumenthal đă ở lại cho đến hôm 1 Tháng Ba.  Sau đó, vào hôm 1 Tháng Ba, cả Bắc Kinh lẫn Hoa Thịnh Đốn đă cử hành buổi lễ nâng các Văn Pḥng Liên Lạc của họ lên thành Đại Sứ Quán, như đă thỏa thuận trong Bản Thông Cáo Chung Tháng Mười Hai.  Hàng loạt các bước tiến ngoại giao này có thể đă ảnh hưởng nhiều đến giọng điệu trong bài diễn văn hôm 2 Tháng Ba của Brezhnev, ôn ḥa một cách đáng ngạc nhiên và nhấn mạnh đến tầm quan trọng của một thỏa ước SALT-II thành công hơn là kết án thái độ của Trung Quốc tại Việt Nam.

       Nhật Bản, bày tỏ sự quan tâm nghiêm trọng khi các chiến sự được mở ra, đă thông báo hôm 19 Tháng Hai với Hà Nội và Bắc Kinh hy vọng của Nhật Bản rằng hai nước sẽ giải quyết các sự tranh chấp bằng các phương tiện ḥa b́nh.  Vào hôm 28 Tháng Hai, Bộ Trưởng Ngoại Giao Sunao Sonoda có tuyên bố trong một cuộc tranh luận tại Viện Diet (Quốc Hội) rằng chính sách của chính phủ là duy tŕ “sự trung lập nghiêm ngặt”.  Các thủ đô Tây Âu và các thủ đô không cộng sản khác tại Á Châu và vùng Thái B́nh Dương đă bày tỏ tương tự sự quan ngại sâu xa về sự bùng nổ cuộc chiến tranh biên giới nhưng đă thúc giục sự kiềm chế từ Trung Quốc, đồng thời kêu gọi Việt Nam rút quân của họ ra khỏi Kampuchea.  Điều cần ghi nhận rằng Bộ Trưởng Kỹ Nghệ Anh Quốc, E. Varley đă đến thăm Bắc Kinh, không lâu sau ông Blumenthal, để thảo luận, ngoài các vấn đề khác, việc bán các chiến đấu cơ Harrier.

       Nhân danh Hiệp Hội Các Quốc Gia Đông Nam Á (Association of Southeast Asian Nations: ASEAN), Mochtar Kusumaatmadja, Bộ Trưởng Ngoại Giao Indonesia, đă công bố một bản tuyên bố hôm 20 Tháng Hai, yêu cầu sự đ́nh chỉ tức thời các chiến sự và sự triệt thoái của mọi binh sĩ ngoại quốc ra khỏi Đông Dương.  Nhưng nó mang tính chất ôn ḥa đối với Trung Quốc, khi so sánh với sự chỉ trích sắc bén hơn của nó về sự chiếm cứ của Việt Nam trên Phnom Penh.  Nó c̣n không đề cập một cách trực tiếp đến Trung Quốc bởi, trong giai đoạn tiên khởi, các hội viên của khối ASEAN đă không đồng ư với nhau trên các sự lượng định của họ về các hành động của Trung Quốc.  Thái Lan và Mă Lai đă nh́n cuộc chiến tranh trừng phạt của Trung Quốc như mo6t. yếu tố trợ lực cho việc tái lập cán cân quyền lực cấp miền có lợi cho họ, trong khi Indonesia có khuynh hướng nh́n trong đó một sự lập lại cuộc đảo chính bất thành “do Trung Quốc chỉ đạo” hồi năm 1965 tại Indonesia.  Singapore, lấy một quan điểm phần nào nằm giữa, hơi nghiêng về phía Trung Quốc, bởi các mục tiêu của Trung Quốc dường như là sự b́nh định biên giới, trong khi các mục tiêu của Việt Nam là lật đổ những kẻ đang nắm quyền tại Kampuchea.  Phi Luật Tân cảm thấy bị ảnh hưởng ít nhất bởi cá biến cố tại Đông Dương, mặc dù sau đó trong năm nó cũng phải gánh chịu số lượng gia tăng các “thuyền nhân”.

       Chính v́ thế, khá mỉa mai, Trung Quốc đà t́m thấy nhiều thân hữu trong các nước phi cộng sản hơn trong các nước cộng sản.  Biểu trưng cho sự tái sắp xếp hàng ngũ quốc tế này trên cuộc chiến tranh Trung-Việt là các kết quả của việc bỏ phiếu cho một dự thảo quyết nghị được đề xuất hôm 13 Tháng Ba bởi các quốc gia khối ASEAN tại Khóa Họp Khẩn Cấp của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc.  Nghị quyết đă kêu gọi một sự đ́nh chỉ tức thời các chiến sự, sự triệt thoái mọi lực lượng ngoại quốc, và sự kiềm chế của các quyền lực bên ngoài.  Nó đă bị phủ quyết hôm 16 Tháng Hai bởi Liên Bang Sô Viết; và bị chống đối bởi Tiệp Khắc, mặc dù nó được ủng hộ bởi mười ba nước kể cả Trung Quốc.

 

Hồi Kết Cuộc

      Trận đánh, ít nhất hiệp thứ nhất, đă đi qua, nhưng chiến tranh vẫn c̣n tiếp diễn.  Các cuộc đàm phán cấp thứ trưởng theo sau khởi sự từ hôm 18 Tháng Tư và đă được nhóm họp mười bẩy lần, năm tại Hà Nội và mười hai lần tại Bắc Kinh, trước cuối Tháng Chín.  Nhưng chúng đă không đem lại các kết quả đáng kể, ngoại trừ việc tự vận hành như một phần tử của sự khống chế trên các cuộc xung đột biên giới.  Câu hỏi là, bên nào đă thắng hay giành đoạt được thắng lợi tương đối lớn hơn? Trận đánh đă không mang lại các câu trả lời rành mạch.  Sự phán đoán hẳn phải khác biệt, tùy theo thời kỳ người ta sử dụng làm căn bản cho sự thảo luận.  Ít nhất năm thời kỳ phải được cứu xét đến” Tháng Ba, Tháng Tư-Tháng Bảy, Tháng Tám, Tháng Chín và phần sau này trong năm 1979.

       Nếu người ta lượng định t́nh trạng chiến tranh tính đến Tháng Ba, Trung Quốc đă ở vào một vị thế mạnh hơn.  Bất kể các sự tổn thất nặng nề không ngờ, Trung Quốc đă thành công trong việc chinh phục Lạng Sơn và các tỉnh lỵ biên giới khác.  Bất kể lời bố cáo chiến thắng của Hà Nội, sự kiện c̣n lại là vào hôm 8 Tháng Ba, Hà Nội đă chấp nhận đề nghị của Bắc Kinh về các cuộc đàm phán song phương và quan trọng hơn, rằng tờ Nhân Dân (7 Tháng Ba) đă tuyên bố rằng Việt Nam sẽ không truy kích các lực lượng Trung Quốc đang triệt thoái.  Đây có thể là các dấu hiệu của sự bất lợi tương đối của Việt Nam.  Ngoài ra, vào hôm 5 Tháng Ba, Chính Phủ Hà Nội đă công bố một lệnh tổng động viên, có thể là một dấu hiệu khác về vị thế yếu kém hơn của Việt Nam.  Vài biến cố trong Tháng Ba cho thấy Chính Phủ Việt Nam đă hoảng sợ về khả tính của một cuộc tấn công của Trung Quốc vào thủ đô của nó.  Thí dụ, vào hôm 5 Tháng Ba, chính phủ đă yêu cầu mọi ngoại giao đoàn cho đào các đường giao thông hào, tích trữ thực phẩm và di tản các trẻ em, phụ nữ và các người già đến các khu vực an toàn hơn.  Các mệnh lệnh xây dựng các hố cá nhân cũng đă được thi hành khắp thủ đô.  Các viên chức Hà Nội đă lo sợ rằng Trung Quốc sẽ sớm phát động một cuộc chiến tranh đại quy mô, và vào cuối Tháng Ba một nguồn tin Mỹ cho thấy rằng Việt Nam vừa mới thành lập 6 sư đoàn mới (hay 150,000 quân), phần lớn trong đó xem ra đă được đồn trú trong sự pḥng thủ thủ đô.

       Các sự phát triển trong thời kỳ Tháng Tư – Tháng Bảy, tuy nhiên, xem ra đă bất lợi cho cả Trung Quốc lẫn Việt Nam trong các khía cạnh khác nhau.  Đối với Trung Quốc, các quan hệ với Lào tồi tệ hơn khi nhiều nhà ngoại giao và kỹ sư hơn đă rời khỏi xứ sớ này.  Tệ hại hơn, Việt Nam đă không rút các binh sĩ của nó ra khỏi Kampuchea, mà ngược lại, c̣n tăng cường sự hiện diện quân sự của nó ở đó.  Trong khi sự trục xuất người Trung Quốc khỏi Lào làm lợi cho Việt Nam, sắc lệnh tổng động viên và sự thất bại của “các vùng kinh tế mới” buộc nhiều thanh niên cố gắng chạy trốn bằng thuyền.  Sự trương phồng gây kinh hoàng con số người tỵ nạn làm phương hại h́nh ảnh quốc tế của Việt Nam, gây bối rối ngay cả cho đồng minh chính yếu của nó, LBSV.  Điều cần ghi nhận sắc lệnh tổng động viên, đă được thiết kế một phần để ngăn chặn các kẻ bất măn chính trị tiềm năng và giảm bớt nạn thất nghiệp.  Theo sắc lệnh “mọi đàn ông từ 18 đến 45 tuổi và đàn bà từ 18 đến 35 tuổi phải gia nhập các lực lượng quân sự, các lực lượng du kích, hay các toán tự vệ”, và mọi công nhân được bảo làm việc tám giờ mỗi ngày cho sự sản xuất và hai giờ bổ túc cho việc huấn luyện quân sự.  Bằng cách này các nhà cầm quyền đă có thể theo dơi một cách hữu hiệu và ngăn chặn các kẻ chống đối về chính trị.

       Người dân Nam Việt Nam đă phản ứng một cách mạnh mẽ chống lại sự động viên, như nhiều thuyền nhân gốc dân Việt đă chứng thực.  Được hỏi anh ta đă nghĩ ǵ về cuộc xâm lăng của Trung Quốc, một người Nam Việt Nam được tường thuật đă nói, “Tội nghiệp, chúng đă không thể tràn xuống đây để giải phóng chúng tôi” (Newsweek, 28 Tháng Năm 1979, trang 7).

       Sự đào thoát đột ngột sang Trung Quốc hồi Tháng Tám của một cựu Ủy Viên Bộ Chính Trị đă làm nghiêng cán cân có lợi cho Trung Quốc một lần  nữa.  Kẻ đào thoát, Hoàng Văn Hoan, 74 tuổi, là một kẻ thành lập Đảng Cộng Sản Đông Dương, và đă làm Đại Sứ đầu tiên của Việt Nam tại Bắc Kinh từ 1950 đến 1957.  Ông đă được bầu vào Bộ Chính Trị của Ủy Ban Trung Ương trong năm 1956.  Điều cũng quan trọng rằng ông là một trong ba cựu Đại Sứ Việt Nam tại Trung Quốc bị loại khỏi Ủy Ban Trung Ương trong Tháng Mười Hai 1976.  Khi trốn sang Trung Quốc, ông đang là Phó Chủ Tịch Ủy Ban Thường Vụ của Quốc Hội.

      H́nh ảnh từ lâu về sự đoàn kết nguyên khối trong giới lănh đạo đảng [cộng sản] Việt Nam bị chứng tỏ là một huyền thoại, đă là một phần thưởng cho các nhà lănh đạo Trung Quốc.  Sau đó trong cùng Tháng Tám, ba viên chức thân Bắc Kinh đă bị đặt trong t́nh trạng quản thúc tại gia.  Liệu các dấu hiệu của sự rạn nứt này trong đảng có ho thấy các chiều hướng đang chiếm ưu thế hay chỉ là các hiện tượng biệt lập vẫn c̣n là điều cần theo dơi.

       Liên quan đến biên giới, các sự phát triển sau Tháng Tám dường như cho thấy các thắng lợi nhỏ nhưng quan trọng cho Việt Nam.  Với một số tiếp tế vũ khí. trương phồng từ Moscow, sự xây dựng các giao thông hào nối kết nhau tại vùng núi non miền bắc, và các sự tăng phái các lực lượng chính quy QĐNDVN đến đó, Việt Nam giờ đây sẵn sàng tự pḥng thủ chống lại một cuộc tấn công trừng phạt thứ nh́ từ phương bắc.  Nhưng trong khi điều này nhiều phần có thể được ghép nối với nhau, các cuộc tranh luận của Liên Hiệp Quốc trtng Tháng Chín và Tháng Mười phát hiện rằng Hà Nội hiện ngày càng gia tăng đối nghịch với cộng đồng quốc tế bằng việc không làm ǵ để trợ giúp hay đ́nh chỉ trào lượng xuất dương ồ ạt của các người tỵ nạn, để cung cấp thực phẩm và sự trợ giúp y tế cho người dân Kampuchea đang đói khát và đau yếu, và bởi các ràng buộc gia tăng của nó với Moscow.  Moscow được biết đang chi tiêu khoảng 2 triệu mỹ kim một ngày cho nước chư hầu của nó và nền kinh tế măi xấu hơn của Việt Nam, đặc biệt tại miền nam, sẽ c̣n tồi tệ hơn nữa, nếu viện trợ của Sô Việt ngừng lại.  Nhưng Moscow c̣n có thể tiếp tục các mức độ viện trợ như thế trong bao lâu nữa  là điều gây thắc mắc.  Một số tường thuật cho thấy rằng các thành viên Đông Âu của khối COMECON đang phàn nàn về khoản viện trợ to lớn không cân đối dành cho hội viên Á Châu mới nhất của nó gây thiệt kại đến chúng [các nước Đông Âu].  Sự thất bại của các chương tŕnh sản xuất nông nghiệp của miền nam Việt Nam, trong một cử chỉ khác thường, được nh́n nhận trong Phiên Họp Khoáng Đại Thứ Sáu của Ủy Ban Trung Ương Đảng tổ chức hồi Tháng Chín.  Bốn sư đoàn lục quân được tường thuật trú đóng tại miền nam để duy tŕ an ninh nội bộ chống lại các sự bất ổn dân sự.  Các khó khăn kinh tế của Việt Nam sau rốt có thể buộc chính phủ Hà Nội phải cố gắng vươn tới một số mức độ ḥa hoăn giới hạn với Trung Quốc hay buộc Moscow áp lực Hà Nội phải làm như thế.  Hay chúng ta có thể nh́n thấy, thay vào đó, sự bất ḥa hơn nữa giữa các nhà lănh đạo Hà Nội với nhau.  Bất kỳ t́nh huống khả dĩ nào đi nữa đều sẽ phù hợp với mục tiêu tối hậu của Trung Quốc.

       Sự rạn nứt Bắc Kinh – Hà Nội hồi Tháng Hai – Tháng Ba 1979 thường bị nhầm lẫn như chỉ là một cuộc chiến tranh giữa các nước xă hội chủ nghĩa.  Trong khi thành tố đó không thể phủ nhận được, bản chất bên dưới của sự rạn nứt nằm ở sự thù hận lịch sử giữa hai dân tộc, hay sự tức giận của Trung Quốc trước sự thách thức của một nuớc yếu hơn trong lịch sử đối với khu vực ảnh hưởng truyền thống của chính nó [in đậm để làm nổi bật bởi người dịch].  Có lẽ điều này đă là một thí dụ tốt cho “Tinh Thần Vạn Lư Trường Thành” của Trung Quốc.  Đặt trong quan điểm lịch sử, sự căng thẳng như thế đánh dấu một tiêu chuẩn b́nh thường, chứ không phải là ngoại lệ -- các quan hệ hợp tác được duy tŕ trong cuộc chiến tranh ba mươi năm chống lại “chủ nghĩa đế quốc Tây Phương”, đúng ra, đă chỉ là một khúc đệm bất thường chen vào giữa.  Chiến tranh Trung-Việt nhiều phần c̣n là một yếu tố nghiêm trọng của sự bất ổn định trong cán cân quyền lực trong vùng./-           

---

Tiến Sĩ Masashi Nishihara, hiện là Giáo Sư về Các Quan Hệ Quốc Tế, Học Viện Quốc Pḥng, Yokosuka, Nhật Bản.  Nguyên là Trưởng Văn Pḥng tại Jakarta của Trung Tâm Đông Nam Á Học, Đại Học Kyoto, ông cũng đă giảng dạy tại Đại Học Kyoto Sangyo University và Đại Học University of South Carolina [Hoa Kỳ].  Trong năm 1979, ông là Giáo Sư Thỉnh Giảng về Các Quan Hệ Quốc Tế tại Đại Học Quốc Gia Úc Đại Lợi.  Các ấn phẩm gần đây của ông gồm Political Corruption in Southeast Asia (chủ biên, bằng tiếng Nhật, 1975), The Japanese and Suharto’s Indonesia (1976) và “Are There Any Possibilities of Arms Control in Southeast Asia? “ (sắp xuất bản).     

_____

Nguồn: Masashi Nishihara, “The Sino-Vietnam War of 1979 – Only The First Round? “, Southeast Asian Affairs 1980, Institute of Southeast Asian Studies Heinemann Asia: Singapore, 1980, các trang 66-77.

 

Ngô Bắc dịch và phụ chú

07.04.2014

 

http://www.gio-o.com/NgoBac.html

© gio-o.com 2014