GIÁO DỤC và CHỮ QUỐC NGỮ --
Sự Phát Triển Một Trật Tự Mới
Lời người dịch:
Dưới đây là bản dịch của hai Chương trong quyển khảo cứu nổi tiếng của tác giả Milton E. Osborne, nhan đề The French Presence in Cochinchina and Cambodia, Rule and Response (1859-1905), thảo luận về vai tṛ và ảnh hưởng của Quốc Ngữ trong giai đoạn ban đầu của sự hiện diên của Pháp tại Việt nam, sẽ lần lượt được đăng tải trên Gió O:
Chương 4: Giáo Dục và Chữ Quốc Ngữ -- Sự Phát Triển Một Trật Tự Mới
Chương 8: Giáo Dục và Quốc Ngữ -- Một Sự Chiến Thắng Hạn Chế
***
Sự thay thế sau rốt bộ luật h́nh sự của Pháp cho hệ thống pháp lư của Việt Nam là điều không tránh khỏi; xă hội bản xứ đă không có khả năng để đưa ra các sự thay thế cho sự loại bỏ chậm chạp nhưng cương quyết các phương pháp Việt Nam. Một sự thay đổi c̣n quyết liệt hơn nữa liên can đến sự phát triển ngữ học và giáo dục đă xảy ra trong cùng thời kỳ đó, nhưng đă có một sự khác biệt. Trong khi sự giới thiệu quốc ngữ [chữ Việt trong nguyên bản, chú của người dịch] trên một quy mô rộng răi khắp vùng Nam Kỳ cũng tượng trưng cho một sự cắt ĺa với quá khứ, nơi đây người Việt Nam đă đóng một vai tṛ then chốt với người Pháp và đă không chỉ thụ nhận, bởi không có sự lựa chọn giải pháp nào khác. Trong giáo dục, phần được đóng giữ bởi người Việt Nam ít nổi bật hơn, song ở đây một lần nữa, có một cảm thức về sự đóng góp tích cực, cho dù chỉ bởi một số lượng hạn chế các người Việt Nam. Xă hội Nam Kỳ không thể cung cấp các nhà hành chánh hay chuyên viên Việt Nam trong ngành tư pháp Việt Nam, nhưng nó đă có thể và đă đào tạo ra một số lượng hạn chế các cá nhân xuất sắc mà nếu không có họ, ước vọng nồng nhiệt của người Pháp để ghi tâm các điểm cốt yếu trong hệ thống giáo dục và triết lư xă hội của họ có thể đă không tạo ra được bất kỳ sự tiến bộ đáng kể nào.
Các nhà cai trị Pháp đă tin tưởng rằng quốc ngữ sẽ cung cấp cho họ một vũ khí mạnh trong trận chiến để loại trừ chữ viết Trung Hoa [Hán tự hay chữ nho] vốn là động cơ truyền đạt cổ truyền cho các tài liệu viết tại Việt Nam. Hán tự, được viết đúng y như tại Trung Hoa nhưng được phát âm theo một lối Việt Nam, đă được sử dụng trong công việc chính thức và trong các tác phẩm văn chương. Trong chữ nôm [tiếng Việt trong nguyên bản, chú của người dịch], một hệ thống chữ viết khác được dùng một cách rộng răi tại Việt Nam, Hán tự một lần nữa là căn bản, nhưng ở đây các chữ viết đă biến thành ngôn ngữ Việt Nam. Các sự kết hợp các chữ viết được dùng để mang lại cả ư nghĩa lẫn âm thanh của một từ Việt Nam cá biệt. Không có hệ thống nào trong các hệ thống này hấp dẫn đối với các giáo sĩ truyền đạo Thiên Chúa ban đầu, là các kẻ thay vào đó đă sáng chế ra một cách kư âm để viết tiếng Việt bằng mẫu tự La Mă. Nhà truyền giáo vĩ đại Alexander de Rhodes được kể có công trong việc điển chế và hệ thống hóa sự kư âm, công tŕnh của các đồng sự truyền giáo của ông. Cách phát âm của lối kư tự quốc ngữ được đặt trên tiếng Bồ Đào Nha, là ngôn ngữ giao dịch của người Âu Châu tại Việt Nam trong thế kỷ thứ mười bẩy. Sự đóng góp lớn lao của Alexander de Rhodes là các dấu giọng (tone marks) [tức các dấu sắc, huyền, hỏi, ngă nặng trong tiếng Việt, chú của người dịch] và các dấu biến âm (diacritics) [tức các dấu mũ (^) hay dấu móc trong cac chữ ơ, ư, chú của người dịch] để chỉ sự phát âm nguyên âm, có tính cách cốt yếu để hiểu được ngôn ngữ Việt Nam. (1).
Các nỗ lực truyền đạo đă giữ cho quốc ngữ được tồn tại, nhưng trước khi có sự cập bến của người Pháp, sự sử dụng cách kư âm chưa được thấm nhập tới thành phần không theo Thiên Chúa trong dân chúng. Sự sử dụng chính yếu của nó là dùng trong sự giảng đạo và trong các sự tường thuật ngắn vể cuộc đời của các thánh được lưu truyền bởi các phái bộ truyền giáo. Quyết định của chính quyền Pháp tại Nam Kỳ để sử dụng cách kư âm quốc ngữ thay v́ dựa trên Hán tự trong bản chất có tính cách thực dụng. Các thông dịch viên người Việt do các phái bộ truyền giáo huấn luyện với họ người Pháp đă phải nương tựa vào lúc ban đầu, đă được huấn luyên bằng quốc ngữ nhiều hơn là sự sử dụng đến chữ Hán. Hơn nữa, người Pháp nhận thức được rằng sự hiện diện của một kư âm la mă hóa đă mở con đường học hỏi tiếng Việt mà không cần phải thông thạo kiểu chữ tả ư (ideograms). Tầm quan trọng về mặt thông suốt trong việc học chữ Hán được nh́n nhận, nhưng nhu cầu thực tế đă giảm bớt [tầm quan trọng đó].
Vượt quá các sự cứu xét thực tế là các hàm ư có tính cách triết lư. Đa số các nhà hành chíng Pháp thủa ban sơ nghi ngờ sâu xa ngụ ư luân lư của Khổng học trong việc giảng dậy chữ Hán. Cả các nhà cai trị và các giáo sĩ truyền đạo tại Nam Kỳ, trong các thập niên sáu mươi và bẩy mười, đă tin tưởng rằng sự cải đạo toàn thể dân chúng Việt Nam là một khả năng thực sự. Một sự phát triển như thế, điều được nêu ra nhằm cung cấp một sự bảo đảm ḷng trung thành với nước Pháp, sẽ được trợ lực bởi sự sử dụng chữ quốc ngữ. Bất kỳ sự sử dụng tiếp tục chữ Hán nào, mặt khác, được nh́n như có thể ngăn trở sự tiến triển của các ư tưởng tân tiến và khuyến khích các kẻ c̣n trung thành với triều đ́nh Huế. Bởi v́ sự khẳng quyết của Pháp về các mối nguy hiểm của việc duy tŕ các h́nh thức cổ truyền trong giáo dục và sự sử dụng Hán tự, Nam Kỳ đă ở trên tuyến đầu của một sự thay đổi triệt để sau rốt đă lan tràn trên khắp cơi Việt Nam. Niềm tin ở quốc ngữ như một giải pháp thay thế cho chữ Hán và như một bước tiến đầu tiên then chốt cho sự sử dụng đáng mong ước hơn nữa của Pháp ngữ đă không bị chống đối nói chung bởi các người Pháp tại Đông Dương. Đă có các ngoại lệ, nhưng tiếng nói của Luro [người đề nghị và phụ trách việc huấn luyện các nhân viên cai trị người Pháp lúc khởi đầu thời Pháp thuộc, chú của người dịch], là một âm thanh lạc lơng trong sự đồng thanh chấp thuận sự sử dụng quốc ngữ và tiếng Pháp trong các định chế giáo dục của thuộc địa. (2)
Trong tất cả các sự phát triển tại các lănh vực ngôn ngữ và giáo dục, sự thiết lập và duy tŕ một tờ báo chính quyền bằng chữ quốc ngữ có lẽ là một sự kiện đáng để ư nhất. Đây là tờ Gia Định Báo (Journal of Gia Định). Các hy vọng được mong chờ nơi tờ báo này và tính chất của sự tuyên truyền chính trị và xă hội của nó tượng trưng cho tinh túy của các nỗ lực của Pháp nhằm thực hiện một sứ mệnh khai hóa. Tờ báo liên kết chặt chẽ với các nỗ lực để bành trướng giáo dục, và các thành viên Việt Nam trong nhân viên của nó là các người đóng góp quan trọng nhất vào các bài viết bằng quốc ngữ được ấn hành trong thế kỷ thứ mười chín. Đô Đốc de La Grandière, với nhiệt t́nh dành cho giáo dục và việc la mă hóa kư âm tiếng Việt, đă nh́n thấy giá trị của việc ấn hành một tờ báo bằng quốc ngữ. Ông ta ư thức nó có một giá trị giáo dục cũng như về mặt thông tin thuần túy. Đây là năm 1864.(3) Số báo đầu tiên của Gia Định Báo ra mắt ngày 15 tháng Tư năm 1865 dưới quyền thống đốc lâm thời của Đô Đốc Roze. Trong một bức điện văn mô tả biến cố này, ông Roze đă phát biểu một cách rơ ràng các mục tiêu của tạp chí hàng tháng mới này. Mục đích của nó “nhắm tới việc phân phát trong dân chúng bản xứ các tin tức đáng cho họ quan tâm đến, để đề xuất với họ t́m hiểu về các tiến tŕnh mới cho sự cải tiến nông nghiệp và sự tiến bộ trong kỹ nghệ nông thôn.”(4) “Tin tức đáng lưu ư” có nghĩa cả những tài liệu tŕnh bày chính quyền Pháp dưới ánh sáng huy hoàng nhất lẫn các bài báo có thể được mô tả trong cách nói của thế kỷ thứ mười chín là “kiến thức hữu dụng”: các bài báo được nhắm vào việc cải thiện sản phẩm nông nghiệp hay thông tin cho các độc giả trên thế giới bên ngoài Việt Nam. Bốn năm sau ngày thành lập tờ báo, Đô Đốc Ohier đă đề nghị lồng các phụ bản (vào trong khuôn khổ thông thường của tờ báo) kể lại cuộc đời của các danh nhân Pháp, đưa ra các giai thoại lấy từ các tạp chí bằng tranh hay từ các tờ báo thiếu nhi, làm sao để đem lại cho dân bản xứ một sự tán thưởng đặc tính của chúng ta dưới các sự tŕnh bày cao đẹp nhất, và để khiến cho họ quan tâm và [cũng để] thỏa măn nhiệt t́nh họ có về việc đọc báo (5)
Trong những năm ấn hành đầu tiên, Gia Định Báo là tờ báo hàng tháng. Sau đó nó được ấn hành hai lần mỗi tháng và sau cùng, vào cuối thế kỷ, trên căn bản hàng tuần. Trong sự tổ chức của nó, tờ báo rập theo khuôn mẫu được đặt ra bởi tờ báo bằng Pháp ngữ có tên Courrier de Saigon. Có hai phần, phần đầu tŕnh bày các đoạn tin chính thức, phần thứ nh́ các tài liệu không chính thức, có sự quan tâm của quảng đại quần chúng hơn. Trong thực tế, trong những số phát hành đầu tiên, sự phân chia này không được nhận thấy rơ nét. Một bài báo trong phần chính thức thường tŕnh bày ít nhiều các tin tức bên lề. Sau này, khi giới thư lại hành chánh của thuộc địa gia tăng và số các quyết định và sắc lệnh được công bố hàng tuần nhiều hơn, sự phân chia giữa các thông báo chính thức đúng nghĩa với các bài viết trở nên rơ ràng hơn.
Số thứ tư trong năm ấn hành đầu tiên là một thí dụ tuyệt hảo của tờ báo trong các năm khởi đầu của nó. Phần đầu tờ báo là các ghi nhận về thời tiết và các giá cả thị trường. Một số tin tức, chẳng hạn như các tin tức liên quan đến sự thành lập một hội đồng về nông nghiệp và mậu dịch, chỉ có ít, nếu có, bất kỳ ư nghĩa chính trị nào và được tŕnh bày không có vỏ bọc tuyên truyền. Nhưng một sự bao phủ dè dặt trở nên rơ ràng trong các sự loan báo khác. Sự rời khỏi nhiệm sở của một viên chức người Pháp được tường thuật:
Ông Boresse, quan bố [tiếng Việt trong nguyên bản, tức quan bố chánh, phụ trách các việc hành chánh, tài chánh trong tỉnh, tương đương với chức vụ tỉnh trưởng sau này, chú của người dịch] của Gia Định, về mới trở về Âu Châu… Bởi v́ đau ốm, ông đă để lại đàng sau nhiều người Việt Nam mà ông yêu mến và trông nom trong sáu năm qua. Mọi người trong huyện [tiếng Việt trong nguyên bản, chú của người dịch] B́nh Long và B́nh Dương sẽ có thể nhớ đến ông là con người tử tế và công bằng biết bao, đến khi họ nh́n thấy ông quay lại đây với sự mạnh khỏe, họ sẽ rất vui mừng. Đây là lư do tại sao ông Philastre được bổ nhiệm làm quan bố. Khi ông ta ở Định Tường và Biên Ḥa, ông ta đă có tiếng tốt ở cả hai tỉnh trên, v́ thế dân chúng sẽ ngưỡng mộ ông. (6)
Các mẫu tin không có tính cách chính trị có thể được tŕnh bày không cần thêu dệt, nhưng sư rời nhiệm sở của một viên chức cao cấp trong Sở Sự Vụ Bản Xứ đặt ra nhu cầu, trong đầu óc các viên chức Pháp vào lúc đó, việc cần nhấn mạnh cho kẻ bị trị biết về đức tính cao cả của các nhà cai trị. Khi đề cập đến sự điều đ́nh tại triều đ́nh Huế, các khuynh hướng tuyên truyền trở nên mạnh bạo hơn:
Một loạt các hành vi lừa dối và tráo trở đă ngăn cản ḥa b́nh giữa hai xứ sở, Nhà Vua An nam đă hiểu được sức mạnh của Pháp và đă cân nhắc hai bên thuận và chống và đă nh́n thấy không c̣n lư do để làm mất ḷng tin hay làm khó khăn. Nhà vua đă gửi người đi học Pháp ngữ; ông đă phái quan chức đi mua các tàu chạy bằng hơi nước; và ông đă ra lệnh cho các thợ thủ công học hỏi về các máy móc. Nghe nói rằng triều đ́nh mong muốn đón tiếp các người học thức từ Pháp để họ có thể dạy dỗ nghề nghiệp cho công chúng. Cũng nghe nói rằng triều đ́nh đă quyết định thu thập mọi tin tức sẽ giúp cho họ duy tŕ các quan hệ với nước Pháp. Nhất định là không c̣n nghi ngờ về ư tưởng hợp tác cùng nhau nữa. Chính quyền Huế biết rằng nước Pháp không có ư định gạt sang bên thẩm quyền của An Nam hay cướp phá xứ sở. Bởi v́ phía An Nam ngoan cố, nó sẽ không đồng ư để giảng ḥa. Nhưng giờ đây thời điểm để thiết lập ḥa b́nh đă đến. (7)
Hiểu cho sát nghĩa, có thể những bài viết như thế tiêu biểu cho việc giảng thuyết dành cho các ngườI đă cải đạo, bởi số đông các kẻ có khả năng đọc quốc ngữ là những người theo đạo Công Giáo vốn đă sẵn không tin tưởng nơi triều đ́nh Huế. Ư hướng của bài báo th́ rơ ràng. Rằng bài báo cá biệt này đă được kư tên bởi ông Paulus Huỳnh Tịnh Của, một trong những người Việt Nam theo đạo Công Giáo nổi tiếng nhất làm việc trong nha sở Pháp, nhấn mạnh đến sự ly thân tuyệt đối của thế hệ Công Giáo Việt Nam đầu tiên sống dưới sự cai trị của Pháp với chính quyền cổ truyền của ho.
Sự nhấn mạnh nghiêm trọng được đặt trên giá trị của sự hợp tác với chính quyền Pháp. Tờ báo đă đưa ra một điểm đặc biệt về việc ghi nhận các sự tưởng thưởng dành cho các người Việt Nam liên kết chặt chẽ với sự thiết lập của chính quyền thuộc địa mới tại Nam Kỳ. Mẫu tin đầu tiên trong số ra trong tháng Tám 1865 ghi nhận các sự tưởng thưởng dành cho các chánh tổng “đă làm việc lầu dài cho điều tốt của xứ sở, những kẻ đáng tin cậy, và những kẻ đă biểu lộ ḷng trung thành hơn loại thông thường.” Các người này đă nhận được các chứng chỉ nhận thực ḷng trung thành của họ và được hứa một khoản thưởng tài chính hàng tháng liên tục từ chính quyền. (8)
Vào thập niên 1870, khuynh hướng biến tờ báo ngày càng trở nên có tính cách hành chính rơ rệt hơn nữa. Những các phần về kiến thức hữu dụng vẫn tiếp tục hiện diện, thí dụ, “Sự Tiếp Tục Hoạt Động Kinh Doanh Lông [Chim, Vịt] và các Trại Sản Xuất Lông Vịt trong Vùng Kiên Giang,” (9) và một loạt dài nhiều bài viết về lịch sử Việt Nam.(10) Sự đề cập đến triều đ́nh Huế ít được đưa ra mà không có việc nhấn mạnh đến tính tốt của Pháp và sự xảo quyệt của Việt Nam. Những người Việt Nam kháng cự lại quyền lực của Pháp tại miền nam đă bị tố cáo trong một bài báo vào lúc kư kết một ḥa ước giữa Pháp và Việt Nam năm 1874:
Pháp và An Nam đă kư kết một ḥa ước ràng buộc họ sống như các nước láng giềng ḥa b́nh. Chính phủ An Nam chuyển giao sáu tỉnh Nam Kỳ cho chính phủ Pháp. Về phần ḿnh, chính phủ Pháp đồng ư viện trợ cho chính phủ An Nam sao cho các tỉnh và thành phố của nó có thể tồn tại trong ḥa b́nh.
Chính v́ thế, các binh sĩ kêu gọi và âm mưu nổi loạn, những kẻ thúc đẩy việc hy sinh các làng xă và đàn áp dân chúng, không c̣n bất cứ lư do ǵ để nổi loạn, [gây ra sự] tàn ác, hay khích động quần chúng.(11)
Sự ban hành các quyết định và các sắc lệnh về các vấn đề thuế khóa và pháp lư xảy ra bên cạnh các bài viết nặng về chính trị trên các thời cuộc, các bài báo kiến thức hữu dụng, và ngay cả các mẫu quảng cáo về các kỳ đua ngựa sắp tới.
Bất kể những ǵ đă được loan báo hay mô tả, điểm quan trọng là nó đă được làm bằng bản văn viết bằng quốc ngữ. Số sách bằng quốc ngữ ở giai đoạn này trong lịch sử Nam Kỳ vẫn c̣n rất ít. Gia Định Báo không thể cung cấp dễ dàng hay quan tâm đến việc học đọc cho các trường học có dùng quốc ngữ để giảng dạy, nhưng nó là một biểu tượng của cách thức theo đó sự kư âm la mă hóa có thể được sử dụng. Và như thế, nó đă đóng một vai tṛ thiết yếu trong việc thực hiện sự loại trừ hoàn toàn chữ Hán.
Các người Pháp đă đóng giữ một phần quan trọng trong việc tổ chức và biên tập tờ Gia Định Báo. Chủ biên đầu tiên của nó là ông Potteaux, một thông dịch viên cho chính quyền Pháp trong nhiều năm. Nhưng trong số nhân viên cộng tác với tờ báo, đáng lưu ư nhất là hai nhà ngữ học Việt Nam nổi tiếng, Pétrus Kư và Paulus Của. Cũng là người Công Giáo như ông Kư, ông Của gia nhập chính quyền Pháp năm 1861 và liên kết chặt chẽ với nó cho đến khi ông từ trần vào năm 1907. Ông biên soạn một quyển từ điển Việt ngữ quan trọng [tức quyển Đại Nam Quấc Âm Tự Vị, có thể xem là quyển tự điển tiếng Việt đầu tiên (?) do một người Việt Nam biên soạn, chú của người dịch], được ấn hành tại Sàig̣n trong năm 1895 và 1896, và các tác phẩm của ông bao gồm từ các bản dịch các câu chuyện cổ xưa của Việt Nam từ Hán tự sang quốc ngữ, đến các bài viết và tiểu luận về các đề tài khoa học và sự biên soạn các phán quyết của ṭa án. (12) Ít phần về cá tính của ông Của được phát hiện ra từ các tài liệu về cuộc đời của ông. Ông có khả năng và chịu khó, nhưng trái với ông Pétrus Kư, người có quá nhiều điều được hay biết và có tính khí được phác họa rất rơ rệt qua thư tín cá nhân của ông ta, ông Của vẫn chưa được xác định một cách chắc chắn rằng có phải là một học giả hay không. Sự đóng góp của ông vào sự phát triển một nền văn học quốc ngữ không có ǵ phải ngờ vực. Sự kiện rằng tờ Gia Định Báo đă có thể hoạt động được là nhờ rất nhiều ở năng lực của ông. Nhưng các duyên cớ sâu xa hơn cho sự cộng tác nhiệt t́nh của ông với người Pháp và quan điểm của ông về quan hệ Pháp-Việt hăy c̣n mù mờ. Đạo Thiên Chúa của ông có thể cung cấp câu trả lời hay nhất. (13)
Điều không gây ngạc nhiên rằng các sử gia Pháp về thời kỳ thuộc địa đă t́m thấy Pétrus Trương Vĩnh Kư là một nhân vật đáng ngưỡng mộ biết bao. Ông là một người có các khả năng ngữ học vĩ đại và cùng lúc một kẻ tin tưởng nồng nhiệt nơi vai tṛ mà người Pháp tự tuyên xưng cho ḿnh tại Việt Nam.(14) Sinh năm 1837, con của một vơ quan, Trương Vĩnh Kư được dậy dỗ bởi các linh mục Công Giáo, Việt Nam cũng như Pháp. Đia vị chính thức của cha ông có vẻ như đă bảo vệ cho gia đ́nh trực tiếp của ông trong thời thơ ấu của cuộc đời ông Kư, nhưng cha ông chết đi lúc ông Kư được chín tuổi, và gia đ́nh đă phải chịu khổ v́ tín ngưỡng của họ trong thời kỳ ngược đăi tôn giáo. Học chữ Hán, kinh nghiệm học tập đầu tiên của ông Kư, được tiếp nối với việc học quốc ngữ, trước tiên tại Nam Kỳ và sau đó tại phái bộ truyền đạo Công Giáo ở Pinhalu, Căm Bốt, gần triều đ́nh tại Oudong. Một khả năng thiên phú về các ngôn ngữ đă được kích thích tại trung tâm huấn luyện giáo sĩ truyền đạo được duy tŕ bởi ḍng Truyền Giáo Hải Ngoại Pháp trên đảo Pénang [Mă Lai]. Ông đă ở đó trong 6 năm, từ 1852 đến 1858. Chính ở tại Pénang mà ông Kư đă có được sự tiếp xúc đầu tiên với tiếng Pháp và đạt được sự thông suốt nó đă khiến cho ông trở thành một trong các thông dịch viên đầu tiên trong thủa ban sơ của sự hiện diện của người Pháp.
Pétrus Kư đă quay trở về Nam Kỳ trong năm 1859; ông đă quyết định không đi tu nhưng vẫn tiếp tục làm việc như một thày giáo tại các phái bộ Công Giáo. Chính xuyên qua các sự liên kết với phái bộ truyền giáo của ông mà ông đă được đề nghị với các thành viên của các lực lượng Pháp tại vùng Sàig̣n, và trong năm 1860 đă khởi sự sự làm việc của ông và sự tận tụy với chính quyền Pháp. Trong suốt bốn thập niên của sự liên kết này, các bổn phận và trách nhệm của ông th́ rất nhiều. Ông làm việc ban đầu với tư cách một thông dịch viên và tháp tùng phái bộ Việt Nam sang Âu Châu, trong năm 1863, khi triều đ́nh Huế t́m cách tái xét ḥa ước đă kư với Pháp năm 1862. Ông đă dạy tại trường Cao Đẳng Thông Dịch (Collège des Interprètes) và sau đó tại trường Hậu Bổ [?](Collège des Stagiaires). Có một lúc ông là chủ biên cho tờ Gia Định Báo. Với ông, chính quyền Pháp đă mong t́m lời cố vấn về các vấn đề hành chính.(15) Trong thập niên bẩy mươi và tám mươi, ông bước ra ngoài công việc cố vấn thuần túy trong chính trị sự vụ, trước tiên, ông đă thảo một bản báo cáo chi tiết về t́nh h́nh chính trị tại Bắc Việt, và sau này làm việc với sự cộng tác chặt chẽ với ông Paul Bert trong tư cách một nhân viên của Pháp tại triều đ́nh Huế. Trong suốt cuộc đời ông, ông là một tác giả viết rất nhiều. Ông là người Việt Nam đầu tiên soạn ra một quyển sử Việt Nam bằng tiếng Pháp. Khuôn khổ các tác phẩm của ông bao gồm ngữ học, lịch sử, địa lư, lịch sử khoa học tự nhiên, và triết lư. Cuộc đời của ông vẫn c̣n chờ đợi một quyển tiểu sử vượt lên khỏi các thành kiến của cả các quan điểm của Pháp lẫn Việt Nam về thời kỳ thực dân.(16)
Từ số lượng lớn lao thư tín của ông Kư, người ta có thể có được một cảm giác cụ thể về con người và về mối quan hệ của ông với người Pháp tại Nam Kỳ. Các thư từ trong hồ sơ cá nhân của ông tại văn khố Sàig̣n cho thấy ông là một con người có tinh thần độc lập, mặc dù trung thành với chính quyền Pháp, là một kẻ đương đầu với bất kỳ sự sỉ nhục đáng ngờ nào đối với chính ông hay gia đ́nh ông. Viết một lá thư xin từ chức vào năm 1868 tiếp theo sau một số sự khinh thị thực sự hay tưởng tượng, ông đă tuyên bố:
… Tôi hiểu quá rơ về giọng điệu chung của nó [một thư trên đó ông Kư đang trả lời từ viên Giám Đốc Nôi Vụ, Vial] để chỉ phải ngập ngừng trong một giây duy nhất về hành động mà tôi phải có.
Chỉ có sự từ chức mới làm tôi thanh thản tinh thần …
Trở về đời sống riêng tư, tấm ḷng tôi măi măi vẫn ở với Pháp, các công việc hèn mọn của tôi tùy thuộc về nó. (17)
Sự khủng hoảng, nếu nó thực sự có là như thế, đă sớm được vượt qua. Trong mười năm kế đó, ông Kư đă có một giai đoạn trước tác mạnh nhất trong cuộc đời của ông. Ông đă ấn hành quyển Giảng Khóa Về Lịch Sử An Nam (Cours d’histoire annamite),(18) đă giảng dạy tại trường Hậu Bổ, và đă soạn thảo vô số tập về văn phạm, ngữ vựng, và sách giáo khoa cho hệ thống trường học phát triển một cách chậm chạp. Một cuộc thăm viếng Đông Kinh [Bắc Việt] vào năm 1876 đă tạo ra một quyển sách du lịch ngắn và một báo cáo chính trị trong đó ông Kư đă viết với sự bảo đảm lớn lao về mối quan hệ mà Pháp có thể có với các phần đất của Việt Nam vẫn c̣n giữ lại sự độc lập của chúng. Bản báo cáo chính trị cũng phóng chiếu h́nh ảnh của một người mà trái tim và linh hồn được nối kết với các quyền lợi của Pháp và sự thành công của Pháp:
Tôi không có sự nghi ngờ ǵ rằng ảnh hưởng của chính phủ Pháp [tại Bắc Việt] lại không dễ dàng trở thành ưu thắng hoàn toàn và là một lực vĩ đại để mang lại sự tiếp nhận các sự cải cách đang là một nhu cầu cấp bách – các cải cách chính trị -- các cải cách kinh tế -- các cải cách về chính sách hành chính và cho sự quản trị các vấn đề tài chính, trong vấn đề lập pháp, vân vân, và vân vân…
Tôi có niềm tin vững chắc rằng Chính Phủ ở Huế th́ vô năng lực để thực hiện công việc vĩ đại này và rằng chỉ riêng nước Pháp mới có khả năng vực dậy dân tộc suy tàn này.(19)
Trong một phần khác của cùng bản báo cáo, ông Kư đă cho thấy căn bản Công Giáo của ông không phải là rào cản để đưa ra ư kiến phê b́nh các kể đồng đạo của ông. Ông nhận xét, có một sự thù hận cực kỳ giữa tầng lớp học giả Việt Nam với người theo đạo Thiên Chúa tại Bắc Việt, là các kẻ gánh chịu các sự ngược đăi thường xuyên, nhưng “sự thực là người Công Giáo cũng không thua kém ǵ các đối thủ của họ trong sự trả đũa, 99 lần trên 100.” Sự tường thuật về các cuộc thảo luận của ông với các quan lại Việt Nam ở Bắc Việt phản ảnh một vẻ xa cách tương tư. Giọng điệu như là của một thầy hiệu trưởng thuyết giảng cho một học tṛ không mấy sáng trí.
Dưới cái nh́n của nhiều người trong chính quyền Pháp, ông Kư trong thực tế trở thành người Pháp trong cả cách diễn đạt lẫn trong quan điểm của ông. Khi Luro hoàn tất Tập San Bulletin individuel de note (cá nhân đáng ghi nhận) trong năm 1875, ông đă đề cập đến ông Kư như “người Pháp hoàn toàn”; sau này, ông gọi ông Kư là “người An Nam đă Pháp hóa nhất mà chúng ta có được.”(20) Không nơi đâu mà sự chính xác của lời b́nh luận này lại được khẳng định một cách rơ ràng hơn cho bằng một lá thư dài mà ông Kư đă viết cho một thông tín viên tại Pháp liên quan đến sự xuất bản tương lai các sách bằng quốc ngữ:
H́nh thức chữ viết này, nhờ ở sự quan tâm tích cực của chính phủ thuộc địa, đă mang một tính cách oai nghiêm của tiện ích công cộng. Chính quyền chắc chắn sẽ lấy làm lo lắng để gia tăng số lượng sách [được ấn hành bằng quốc ngữ] hầu phổ biến sự sử dụng chúng sao nhằm khuyến khích sự áp dụng rộng răi hơn h́nh thức chữ viết này, vốn được kêu gọi để đóng vai tṛ to lớn nhất trong công cuộc [thúc đẩy] tiến bộ và sự phát triển các khả năng … nhờ ở chữ viết này, xứ sở bị truất quyền thừa kế nghèo khó này sẽ có thể tiến vào công đồng các dân tộc và các vấn đề to lớn mà khối Tây đă đưa ra trước thế giới; các khoa học với các sự phát hiện bất ngờ đánh vào tinh thần và gây sững sờ cho trí thông minh sẽ không c̣n là những sự huyền bí khôn lường đối với chúng ta, và những sự sai lầm xưa cũ này, các thành kiến, các niềm tin vô lư này sẽ biến mất, nhường chỗ cho kiến thức chân xác, dẫn đến cảm hứng cao xa và nghiêm chỉnh hơn về một triết lư khôn ngoan. Nhưng để đạt được điều đó người ta phải có sách, sách, và nhiều sách hơn nữa. (21)
Giọng điệu lá thư của ông Kư, với sự chối bỏ của nó về quá khứ, đă trở nên quen thuộc trong văn viết Việt Nam trong ít thập niên đầu tiên của thế kỷ hai mươi. Trên nhiều phương diện, ông Kư đă tiên báo quan điểm chính trị của ông Phạm Quỳnh, một ủng hộ viên quan trọng cho các lập trường chính trị của người Pháp trong các thập kỷ 1920 và 1930. Cả hai ông Kư và Phạm Quỳnh đều đưa ra h́nh ảnh của Việt Nam như một nước bị truất quyền thừa kế, một xứ sở với một lịch sử tri thức và chính trị đă khiến nó thiếu chuẩn bị trước những thách đố của thế giới tân tiến. Ít nhất, ư kiến được tŕnh bày rằng Việt Nam, trong việc đón nhận văn hóa Trung Hoa, đă gặp bất lợi không chỉ trong sự phát triển chính trị và c̣n cả trong sự phát triển trí thức.(22) Trương Vĩnh Kư thành thực tin tưởng những ǵ ông đă viết, và cuộc đời của ông ta cung cấp một thí dụ nổi bật của sự cam kết toàn diện của những người Việt Nam , đă ly thân bởi tôn giáo và sự thoái lui khỏi trật tự cổ truyền, tiến lên trước bảo vệ cho những kẻ biện luận cho sự hợp tác Pháp-Việt.
Trong khi Trương Vĩnh Kư và Huỳnh Tịnh Của đă bỏ công lao để cung cấp hạt nhân cho văn chương quốc ngữ, chính quyền thuộc địa lại phát triển một cách chậm chạp các định chế tại đó cách kư âm có thể được giảng dậy. Trong công tác này, vai tṛ của các giáo sĩ Công Giáo có một tầm quan trọng lớn lao. Các trường học thuộc ḍng truyền đạo của họ cung cấp cho học sinh Việt Nam chỉ với một nền giáo dục sơ đẳng, nhưng ở Sàig̣n, Trường Pháp mang tên Giám Mục d’Aran do giáo hội quản trị đă là định chế giáo dục duy nhất trong thập niên sáu mươi có thể huấn luyên cho thanh niên Việt Nam nhiều hơn điều chỉ để trở thành các thông dịch viên. Trường cao Đẳng d’Aran (Collège d’Aran), tên thông dụng hơn của ngôi trường, được thành lập trong năm 1861 với mục đích “khắc sâu đạo đức và đồng hóa thế hệ An Nam trẻ hơn.” Tuy nhiên, phải chờ măi đến sau năm 1864, nó mới đào tạo được một số lượng đáng kể các học viên hội đủ điều kiện có thể đảm trách các công việc trong chính quyền Pháp.(23)
Ngoài Sàig̣n, sự nới rộng nền giáo dục do Pháp bảo trợ diễn ra sau một quyết định được ban hành ngày 16 tháng Bẩy năm 1864. Quyết định này quy định rằng một “thông dịch viên” sẽ đảm trách các lớp dành cho thanh niên Việt Nam tại từng mỗi trung tâm trong các trung tâm quan trọng nhất của thuộc địa để dậy cho học tṛ tập viết ngôn ngữ của chúng bằng “mẫu tự Âu Châu.” Lời b́nh luận thông thạo sau đó về các trường này cho thấy chúng chỉ đạt được sự thành công hạn chế nhất. Đô Đốc La Grandière, một kẻ nhiệt thành trong vấn đề giáo dục y như đối với mọi vấn đề khác, không nh́n thấy ǵ khác ngoài sự thành công. Trong tháng Chín năm 1864, ông ta đă báo cáo:
Sự tiến bộ được thực hiện bởi các học tṛ này, mà đa số trong họ mới chỉ được học từ hai mươi đến hai mươi lăm ngày, tính đến lúc tôi đến thăm; sự dễ dàng mà chúng cho thấy rằng chúng có thể học các vần của chúng ta và phát âm ra chúng, đă gây ra sự ngạc nhiên thực sự …
Như tôi có mọi lư do để hy vọng, nếu việc theo học các trường của chúng ta tiếp tục, chúng ta sẽ có ít nhất, trong chưa đầy một năm, một ngh́n thanh niên An Nam biết đọc và biết viết ngôn ngữ của họ bằng mẫu tự La Tinh; nhờ đó chúng ta sẽ tống một cú đánh chết người vào chế độ quan lại, và chúng ta sẽ tự ḿnh gỡ bỏ được lớp văn thân là các kẻ luôn luôn có khuynh hướng gây xáo trộn. (24)
Các ư kiến của viên thống đốc vào cuối năm cũng không kém phần nhiệt t́nh. Vào khi đó hai mươi trường đă được mở, và ông tuyên bố rằng ba trăm học viên đă học cách đoc. Các ư kiến này được đưa ra vào một lúc chưa có các sách giáo khoa bằng quốc ngữ, cũng chưa có cả tờ Gia Định Báo và khi các thông dịch viên, các kẻ mà sự vô khả năng đă thường bị chỉ trích, đang điền thế vào vai tṛ các thày giáo. (25)
Sự t́m kiếm một bức tranh chính xác cho các sự phát triển phải vượt qua được các trở ngại của sự nhiệt t́nh làm sai lạc và các con số thống kê đáng ngờ vực. Ư đồ của Đô Đốc de La Grandière nhằm phát triển các trường học tại các tỉnh sẽ giảng dạy bằng quốc ngữ và một số lượng hạn chế tiếng Pháp đă được tŕnh bày trong các báo cáo hồi cuối thập niên sáu mươi và đầu thập niên bảy mươi như một sự thành công quan trọng. Trong khi La Grandière vắng mặt tại Nam Kỳ, trong năm 1865, Đô Đốc Roze đă biểu lộ sự hài ḷng của ông về sự tiến bộ đă được thực hiện. Ông có nói về các học tṛ đă có khả năng đọc và viết ngôn ngữ của chúng bằng quốc ngữ, cùng đọc và viết các từ ngữ Pháp văn. Ngôn ngữ kể sau, ông ta đă nh́n nhận sau khi nghĩ lại, rằng chúng đă không hiểu. (26). Trong cùng năm, ông Roze đă tán dương sự sẵn ḷng của cha mẹ Việt Nam để gửi con cái của họ đến các trường dạy bằng quốc ngữ.(27)
Các hy vọng của chính quyền, trong thực tế, vượt qua sự giáo dục thiếu niên không thôi. Các lợi lộc cả về mặt thực tế và tinh thần của việc giảng dạy bằng quốc ngữ, và như thế phá vỡ quá khứ dính mắc với Hán tự, cũng được phán đoán là quan trọng với cả người lớn tuổi. Các người lớn được khuyến khích theo học các lớp buổi tối dạy bằng quốc ngữ.(28) Vào tháng Ba năm 1869, Đô Đốc Ohier báo cáo rằng có 104 trường tại thuộc đia, được theo học bởi 3,200 học tṛ. Sáu trong các trường này, chủ yếu những trường tại Sàig̣n, được dạy bằng tiếng Pháp cũng như quốc ngữ.(29) Sau đó trong cùng năm này, sĩ số theo học các trường tổ chức bởi chính quyền Pháp được báo cáo là 4,481 học tṛ tại 120 trường. Ngoài ra, có 530 học tṛ tại sáu trường được duy tŕ bởi các thày giảng Học Thuyết Cơ Đốc Giáo.(30) Các năm trôi qua, số theo học tại trường được báo cáo tại Nam Kỳ đă gia tăng theo. Trong năm 1870, các người học chữ quốc ngữ tại các tỉnh được cho hay lên tới hơn năm ngh́n người.(31)
Các lời tường thuật nhiệt t́nh về sĩ số ngày càng gia tăng các trẻ em Việt Nam chen chúc tại các trường dạy bằng quốc ngữ, tuy vậy, chỉ có ít tính thực tiễn. Đô Đốc Dupré đă giảm bớt các sự ước lượng thổi phồng trong một điện văn dài viết tháng Hai năm 1873:
Tôi lấy làm tiếc để nói rằng trong vấn đề quan trọng này của nền giáo dục công lập, chúng ta vẫn c̣n t́m kiếm và ṃ mẫm cho con đường của chúng ta đi. Các kết quả thu lượm được cho đến nay hăy c̣n xa sự thỏa măn. Kể từ khi có sự chiếm đóng, chúng ta đă nh́n thấy rất nhiều trường hiện hữu [trước đây] biến mất, và mọi điều hăy c̣n sẽ phải được tạo lập ra. Người ta muốn lợi dụng [t́nh thế] để thay thế Hán tự được dùng bởi người An Nam, bằng chữ viết Âu Châu mà các giáo sĩ truyền đạo đă sử dụng từ lâu … Rồi th́ người ta đă ngưng việc giảng dạy chữ Hán tại các trường học mới lập của chúng ta và dạy dỗ trẻ em học đọc và viết bằng các mẫu tự của chúng ta. Nhưng sự cải cách th́ quá sớm; không có ǵ để dạy học tṛ sau khi tập đọc và tập viết. Có sự thiếu thốn sách và cả giáo viên nữa … Tất cả các nỗ lực của chúng ta đă kết thúc với việc tập họp ba đến bốn ngàn trẻ em mà cha mẹ chúng đă được bảo đảm bồi thường bởi làng xă về sự hy sinh mà họ đă làm khi gửi con em đi học.(32)
Người ta chỉ có thể giải thích sự khác biệt giữa các ư kiến của Dupré với các sự xác định trước đây về sự thành công là v́ các sự hy vọng và nhiệt t́nh đă làm sai lạc nhăn quan của các viên chức Pháp. Để có thể chắp nối thành một bản tường thuật về những ǵ đă thực sự xảy ra, cần phải dựa vào các ư kiến của các kẻ đă phê b́nh các sự phát triển giáo dục và trên những báo cáo rải rác mà khi thảo luận về giáo dục, có vẻ như đă đặt tính khách quan lên trên sự tin tưởng quá hăng say về sứ mệnh của nước Pháp. Ư định của La Grandière là muốn thiết lập các trường học tại tất cả các làng xă lớn. Xem ra có ít sự suy nghĩ thực sự được suy xét vào lúc khởi đầu về việc tuyển mộ các học tṛ cho các trường này. Trong một số trường hợp, chính quyền Pháp thấy chính ḿnh cạnh tranh với các nỗ lực giảng dạy của Giáo Hội Công Giáo.
Đó là trường hợp trong nội vụ của trường trung ương tại Mỹ Tho (“Affaire de l’École centrale de Mytho”) năm 1872, một sự đụng độ giữa một thanh tra sự vụ bản xứ tại Mỹ Tho với một linh mục, Cha Lize. Vị linh mục bất măn về sự tuyển mộ của viên thanh tra các trẻ em cho trường nhà nước từ số trẻ em trong giáo xứ ông ta và ra lệnh cho chúng “phải tuân phục Thương Đế chứ không phải người thường.” Tác động của một sự đụng độ như thế giữa các cá nhân cá biệt trong một cộng đồng người Pháp nhỏ bé là điều có thể hiểu được. Đă có sự trao đổi giữa chính quyền và vị giám mục bao trùm giáo xứ nơi mà biến cố đă xảy ra, và một bản báo cáo đầy đủ đă được đệ tŕnh cho sự cứu xét của thống đốc. Bản báo cáo này đă chiếu một luồng ánh sáng đáng chú ư về cách thức theo đó sự theo học tại các trường nhà nước được bảo đảm:
Trước tiên, các làng xă nhận được lệnh cung cấp học tṛ; một học tṛ cho mỗi làng nhỏ hay cỡ trung b́nh; hai học tṛ từ các làng lớn, ba học tṛ từ một số ít làng có dân số đông đảo một cách khác thường.
Bởi chính quyền không đảm trách việc đáp ứng phí tổn cho sự bảo dưỡng chúng, một khoản thuế bổ túc là 7 phật lăng đă được quyết định để trang trải cho việc này. Giá trị của thủ tục này xem ra có nhiều điều để chất vấn, nhưng đây không phải là vấn đề của sự khiếu nại [bởi các linh mục]. Các Sư Huynh không khiếu nại chống lại biện pháp, họ t́m kiếm phần phân chia số trẻ em với một số trợ cấp thỏa đáng.
Trong căn bản, điều này không có ǵ mới mẻ. Các trường học trong phần sâu của đất nước không bao giờ có học tṛ trên căn bản tự nguyện với một sĩ số lớn lao nào. Các học tṛ, phần lớn, được tuyển mộ và đài thọ bởi làng xă theo cùng cách đối với dân quân pḥng vệ, và với phí tổn c̣n cao hơn thế nữa.(33)
Luro, trong giảng khóa quản trị của ông ta, Cours d’administration, có nêu ra cùng điểm đó. Trường quốc ngữ không có sự lôi cuốn thực sự đối với dân làng tại Nam Kỳ trong thủa ban đầu này. Yêu cầu rằng trẻ em phải theo học các trường mới lập này đă bị lẩn tránh bởi việc gửi đi các trẻ em nghèo khó nhất tại một xă và trả một khoản đặc cấp cho cha mẹ chúng. (34)
Phẩm chất của các giáo viên tại các trường học ban đầu th́ kém cỏi. Trừ ngoại lệ của tờ Gia Định Báo, hầu như không có học liệu, và việc giảng dạy theo lối học thuộc ḷng. Như Luro đă nhận xét một cách sâu sắc, các học tṛ có thể so sánh như một con vẹt có khả năng viết chữ. (35) Trái với sự giảng dạy cổ truyền, sự giảng dạy tại các trường nhà nước này đă không có một tính cách đức dục nào. Điều này làm e ngại các quan sát viên như Luro và Philastre, và là một yếu tố quan trọng trong sự miễn cưỡng của người Việt Nam tại các tỉnh để gửi con em họ đến học tại các trường nhà nước. Nó không phải là sự quan tâm của những thành viên trong chính quyền Pháp là những kẻ nh́n thấy nhu cầu cần loại trừ ảnh hưởng của tư tưởng Khổng học. Người Việt Nam trong làng xă biểu lộ sự quyến luyến của họ với hệ thống cổ truyền bởi việc gửi những trẻ em đă tham dự tại một trường nhà nước ban ngày, trải qua một phần của buổi tối để học tập chữ Hán từ các thầy giáo vẫn tiếp tục sinh sống tại các làng xă.(36)
Các nỗ lực không thành công này, dù thế, chỉ là một khía cạnh trong nỗ lực giáo dục của người Pháp tại Nam Kỳ. Trong năm 1874, các sai lầm hiển nhiên của hệ thống đă dẫn đến một cuộc tái tổ chức toàn diện các nỗ lực giáo dục. Tuy nhiên, trước khi xảy ra việc này, đă có hai sự phát triển khác trong lănh vực giáo dục cần lưu ư đặc biệt: sự duy tŕ các trường học tại Sàig̣n dạy dỗ trẻ em Việt Nam cả chữ quốc ngữ lẫn tiếng Pháp, và, sự kiện đáng để ư nhất trong mọi sự kiện, các nỗ lực để phát triển một tầng lớp tinh hoa thượng lưu xuyên qua việc gửi các thanh thiếu niên Việt Nam cho các thời khoảng kéo dài để huấn luyện tại Pháp. Tại Sàig̣n, Trường Cao Đẳng d’Adran tiếp tục là một định chế quan trọng duy nhất cung cấp người Việt Nam được huấn luyện để đảm nhận các chức vụ phụ tá trong chính quyền măi cho đến năm 1871. Cũng có các trường cao đẳng (collèges: tiếng Pháp trong nguyên bản, chú của người dịch] được duy tŕ bởi các sư huynh Công Giáo tại các trung tâm cấp tỉnh, và trong năm 1868, một Học Viên Thành Phố (Institution Municipal) đă được thành lập tại Sàig̣n đặc biệt dành riêng cho trẻ em người Pháp. Tuy nhiên, trong năm 1871, trong một nỗ lực để huấn luyện nhiều thanh niên Việt Nam hơn có thể giảng dạy và làm thư kư và thông dịch viên, một quyết định đă được lấy để thành lập Trường Sư Phạm Sàig̣n (École Normale of Saigon) (37). Kết quả thuần của tất cả các nỗ lực này c̣n lâu mới đạt được mức thỏa măn đối với chính quyền Pháp. Giám Đốc Trường Sư Phạm có thể viết, “Chưa bao giờ sự thi đua lên tới mức độ lớn lao như thế; chưa bao giờ các học tṛ lại thấu hiểu cặn kẽ tầm quan trọng của giáo dục đến như thế …,” (38) nhưng các nhà hành chánh hiểu rằng các chương tŕnh của họ tiếp tục gặp phải các khó khăn bởi có vấn đề trong việc tuyển mộ được các người Việt Nam thực sự có khả năng.
Hơn nữa, niềm hy vọng rằng các người Việt Nam theo học tại Pháp sẽ cung ứng số phụ tá cần thiết đă không hiện thực được. Sự thi hành đáng lưu ư này trong nền giáo dục thuộc địa đă khởi sự trong ṿng chưa đầy mười năm kể từ khi có sự nhập cảnh của người Pháp đến Việt Nam. Trong năm 1865, Đô Đốc Roze đă sắp xếp cho ba thanh thiếu niên Việt Nam đi du lịch sang Pháp, sao cho họ có được ấn tượng về các sự tuyệt diệu của xứ sở nơi mà các kẻ cai trị của họ phát sinh. Các thanh niên “thông minh” này, chỉ được biết với tên Tom [?], Gửi [?], và Cao [?],ở số tuổi mười bảy, mười sáu, và mười lăm.(39) Các phản ứng của họ không được ghi chép lại trong các văn khố. Họ là các kẻ đi trước các học sinh, từ năm 1865 trở về sau, đă được gửi sang hai cơ sở giáo dục Công Giáo tại Pháp, Học Viện Sainte Marie tại La Seyne, và Khu Nội Trú Của Các Sư Huynh Các Trường Thiên Chúa (Pensionnat des Frères des Écoles Chrétiennes) tại Marseille.(40) Điều đáng lưu ư để t́m hiểu nhiều hơn là về tiến tŕnh tuyển lựa theo đó các trẻ em và thanh niên này đă được chọn cho việc phải được nh́n bởi chúng [các học tṛ, chú của người dịch] là một cuộc du hành hào hùng ca. Có các sự tham khảo cho thấy sự chọn lọc được thực hiện từ “các gia đ́nh có thế lưc.” (41) Điều này có nghĩa các con em của những người Việt Nam đó, thường theo đạo Công Giáo, là những kẻ đă hợp tác với chính quyền mới và thường có giữ các chức vụ trong đó. Chẳng hạn như trường hợp của người em trai của Trần Bá Lộc, tên Trần Bá Hữu [?], đă theo học tại trường Sainte Marie ở La Seyne, cũng như người anh em họ bên mẹ của ông Lộc.
Số người Việt Nam theo học tại Pháp đă tăng từ mười bốn người trong năm 1866 lên đến chín mươi người trong năm 1870.(43) Tuổi tác thanh thiếu niên Việt Nam được gửi ra hải ngoại biến đổi một cách đáng kể, theo một tài liệu, nằm trong khoảng từ mười một đến hai mươi tuổi. (44) Tại các định chế Công Giáo, chúng được dạy trước tiên tiếng Pháp ít nhất trong một năm, và sau đó các môn sơ đẳng của bậc tiểu học.(45) Một chuyến du hành sang Pháp như thế, và sự can hệ sau đó với kỷ luật nghiêm ngặt của một trường Công Giáo, hẳn phải có một tác động đặc biệt trên các thanh thiếu niên Việt Nam. Chỉ có một sự tham chiếu hạn chế về sự khổ sở mà nhiều đứa trong chúng chắc chắn đă phải cảm thấy. Một tờ báo ở tỉnh đă cho hay trong một bài báo viết hồi tháng Một năm 1868 rằng ba em trong số các học tṛ bị bắt giữ cưỡng bách để trả về quê. Các cuộc điều tra bởi bộ trưởng thuộc đia cho hay rằng có thể một đứa trẻ, trong thực tế, đă bị bắt giữ trái ư muốn của em. Nhưng, điều được quyết định là ngưng không nêu vấn đề này ra, bởi bị xem sẽ “làm lợi cho báo chí nhiều hơn cho tôn giáo và giới chức thẩm quyền” trong bất kỳ cuộc điều tra nào có thể diễn ra. (46)
Vào năm 1871 nhà cầm quyền Pháp tại Nam Kỳ đă bày tỏ các sự nghi ngờ lớn lao về tầm hữu dụng của chương tŕnh. Đô Đốc Dupré đă viết, “Người ta nghĩ rằng sau một thời gian cư ngụ khoảng hai hay ba năm tại khu vực thành thị, các thanh niên này sẽ dành đạt đủ sự học tập cần thiết giúp cho chúng có thể được sử dụng một cách hữu ích trong nhiều công vụ tại thuộc địa.” (47) Nhưng điều này đă không xảy ra. Vào thời điểm mà Dupré viết ra, bốn mươi hai học tṛ đă quay về từ nước Pháp, và trong số này, chỉ có tám đến mười người là có khả năng đảm nhận được các công việc ít nhiều có tính cách hữu dụng. Các kết luận của Dupré đă không làm ngạc nhiên viện trưởng viện Sainte Marie tại La Seyne. Ông ghi nhận rằng ít nhất một năm trong số hai hay ba năm mà các thanh thiếu niên Việt Nam sống tại Pháp phải đựợc dành cho việc học tiếng Pháp. Ư đồ gửi thanh thiếu niên sang Pháp để học tại các trường Công Giáo vẫn tiếp tục trong một khuôn khổ bị cắt giảm đi nhiều cho đến cuối thập niên bẩy mươi. Trong các thập kỷ kế tiếp, đă có một sự nhấn mạnh gia tăng trên sự giáo dục thế tục cho các thanh niên Việt Nam theo học bên ngoài xứ sở của họ.
Ngay tại Nam Kỳ Giáo Hội Công Giáo vẫn tiếp tục đóng một vai tṛ quan trọng trong các vấn đề giáo dục. Trường Cao Đẳng Collège d’Adran tại Sàig̣n, và các trường cao đẳng nhỏ hơn ngoài thủ đô, có nhân viên là các sư huynh. Trường Tabert (Institut Taberd) cũng thế, được thành lập trong năm 1874 công khai để dành cho các trẻ con của các cuộc phối hợp dị chủng giữa đàn ông Pháp và các phụ nữ Việt Nam. Các viện mồ côi bao giờ cũng được ghi như một phần của cơ cấu giáo dục của thuộc địa. Có lẽ xem các cơ sở này trong thực chất có tính cách từ thiện hơn là các định chế giáo dục th́ đúng hơn. Cũng có các trường Công Giáo tại Pháp nơi mà học sinh Việt Nam được gửi đến. Trong khắp cơi thuộc địa, các phái bộ Công Giáo đă liên kết việc giảng đạo với các nỗ lực giáo dục hạn chế. Điều này, như đă sẵn được tŕnh bày, có thể dẫn đến các sự đụng độ giữa các quyền lợi dân sự với tôn giáo. Một sự lượng định về tầm quan trọng của nỗ lực giáo dục truyền giáo này cũng khó khăn y như là sự cứu xét về chương tŕnh giáo dục của chính quyền Pháp. Nhiệt t́nh hăng say nhuốm nặng các báo cáo truyền giáo theo cùng cách mà nó đă tô màu cho các báo cáo của chính quyền dân sự. Cùng cách thức giống nhau, đă có các sự phát hiện ngắn gọn rải rác, than phiền về sự thiếu tiến bộ và đưa ra sự ngờ vực nghiêm trọng về các lời tường thuật trước đây. Các số thống kê cung cấp trong các Thư Cộng Đồng (Lettres communes) của các Phái Bộ Truyền Giáo Hải Ngoại trong khoảng giữa thập niên 1870 cho thấy có khoảng từ ba đến bốn ngàn học sinh Việt Nam theo học tại các trường ḍng đạo.(48) Nhận định chính yếu bởi các cuộc thảo luận sau này về giáo tŕnh của các trường thuộc phái bộ truyền giáo này, có vẻ cho rằng sự nhấn mạnh đă được đặt trên sự giảng dạy tôn giáo xuyên qua phương tiện trung gian là quốc ngữ. (49)
Sự bất măn tổng quát với hệ thống giáo dục thiết lập bởi Đô Đốc de La Grandière đă dẫn đến các sự cải tổ năm 1874. Khi chính quyền Pháp được mở rộng, nhu cầu về số nhân viên Việt Nam trong chính quyền trở nên cấp thiết hơn. Một nền hành chính lớn hơn có nghĩa đă có nhiều người Pháp không biết nói tiếng Việt đông hơn, và cần đến một số lượng nhiều hơn các người Việt Nam làm thư kư, thông dịch viên, và nhân viên đánh điện tín. Chương tŕnh hiện thời của nền giáo dục công lập đă không thỏa măn được các nhu cầu này. Báo cáo lên Cơ Mật Viện (Private Council), giám đốc nội vụ ghi nhận rằng hệ thống gây ra hậu quả là các làng xă đă gửi con em của các thành viên nghèo khổ nhất đến các trường, rằng các giáo viên tại các trường giảng dạy bằng quốc ngữ nói chung có phẩm chất rất kém, và rằng Trường Sư Phạm Sàig̣n cần được cải cách.(50) Sự kết án toàn diện này đă đưa đến sự thay đổi đáng kể. Trong một quyết định ngày 17 tháng Mười Một năm 1874, các trường dạy bằng quốc ngữ đương thời bị băi bơ. Thay vào đó là đề nghị thiết lập một trường “sơ học” (primary school) ở mỗi phân hạt hành chánh tại thuộc địa, với các học tṛ do nhà nước hỗ trợ. Thay cho các thủ tục theo học bừa băi trước đây, các trẻ em giờ đây được ước định theo học trong ba năm. Các trường sơ học có nhân viên gồm cả các giáo viên Pháp và Việt Nam, mà khả năng sẽ được kiểm soát bởi nhà nước. Các chương tŕnh học tại các trường sơ học tân lập kéo dài trong ba năm và sẽ được dạy bằng quốc ngữ lẫn tiếng Pháp, và ở một mức độ rất hạn chế, Hán tự. Các môn học tiêu chuẩn như toán học, h́nh học, và “các khái niệm” về sử kư và địa lư là các môn then chốt của sự giảng dậy. Bởi có nhu cầu về số nhân viên mới, đặc biệt nhu cầu về các giáo viên người Pháp, các trường sơ học mới, khởi đầu, chỉ được giới thiệu tại sáu trung tâm chính: Sàig̣n, Chợ Lớn, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Bến Tre, và Sóc Trăng. (51)
Các học sinh giỏi nhất từ các trường này để học cao hơn nữa tại các trường Cao Đẳng Bản Xứ (Collège Indigène), giờ đây thay thế cho Trường Sư Phạm. Định chế bậc nh́ [tức trung học, chú của người dịch] này đặt theo tên của một viên cựu bộ trưởng thuộc địa Pháp, Chasseloup-Laubat, và chính dưới danh nghĩa này mà nó thường được mô tả trong các bài viết đương thời. Ở đây cũng vậy, chương tŕnh học sẽ kéo dài trong ba năm. Một trăm trẻ em Việt Nam mỗi năm được tuyển vào trường, các phí tổn của chúng sẽ được đài thọ bởi chính quyền Pháp. Các bài học nhập môn được quy định như một phần trong học tŕnh tại các trường sơ học trở thành “một môn học hợp lư về Pháp ngữ” tại trường trung học. (52)
Hai năm sau đó, Philastre đă mô tả t́nh trạng các trường học mà ông ta đă gặp phải trong diễn tiến của một nhiệm kỳ hành chánh lâu dài:
Đa số các trường học được thiết lập tại nhiều chợ An Nam khác nhau đă bị đóng cửa và thay thế bằng các trường cao đẳng (collèges) được dựng lên tại các trung tâm hành chính. Dân chúng xem việc này là một sự tiết kiệm về kinh tế và một mối lợi; thay v́ phải thuê mướn ba hay bốn đứa trẻ từ cha mẹ chúng để chúng có thể được “cung cấp” cho trường học tại làng lân cận, mỗi làng giờ đây chỉ cần thuê một hay hai đứa trẻ và “cung cấp” chúng cho trường cao đẳng của Sở Thanh Tra (Inspection). Một số làng lại không phải cung cấp bất cả đưa trẻ nào hết.
Trong quan điểm của tôi, không chỉ dựa vào sự quan sát của ḿnh trong một số năm, mà c̣n như một kết quả của sự cố vấn mà tôi đă nhận được từ các nhà quản trị hành chính và các giám đốc các trường học, nếu chúng ta không cưỡng bách một cách công khai các làng xă phải cung cấp một số lượng học tṛ nào đó, ít nhất chúng ta hăy lợi dụng các sai lầm trước đây của chúng ta và đa số các làng xă hăy c̣n tin rằng chúng vẫn bị bắt buộc phải cung cấp các học tṛ như trong quá khứ. “Nếu bất kỳ ai nói với chúng rằng chúng không bị bắt buộc phải làm như thế, sẽ không c̣n có học tṛ nữa.” …
Hơn nữa, nếu điều này xảy ra như thế, nếu chỉ có một số ít nhân viên An Nam muốn chứng tỏ nhiệt t́nh của họ, gửi con em của họ đến trường, nếu khối đông quần chúng chỉ nh́n các trường học với sự khinh thường, việc này xảy ra từ ác cảm được khơi dậy như hậu quả của các biện pháp cưỡng bách đă được áp dụng trước đây cho các trường nhà nước và chống lại các thầy giáo bản xứ thuộc các trường học An Nam [cổ truyền] miền phí. T́nh trạng liên hệ đến các thành kiến tôn giáo và, sau cùng, trên hết là v́ các trẻ em tuyệt đối chẳng học hỏi được điều ǵ từ các trường học của chúng ta.
Chúng không học được ǵ cả bởi không có các giáo viên. Các lănh vực học tập duy nhất được hay biết đối với người An Nam là các môn học về triết học và đạo đức Trung Hoa, và các môn này chỉ được dành cho một sự lưu tâm vô cùng hạn chế tại các trường học của chúng ta hơn là tại các trường có các thày giáo cổ truyền.
Người ta chỉ gặp toàn khó khăn ngày nay để có thể t́m cho đủ, tại toàn thể thuộc địa, trong cả người Pháp và người An nam, số nhân viên để giảng dạy và tổ chức một ngôi trường trung ương duy nhất từ đó các giáo chức An Nam nghiêm chỉnh sẽ tốt nghiệp sau này. Lư do này lại càng nổi bật hơn để cho thấy không tài nào đáp ứng được nhu cầu của mười hai hay mười lăm ngôi trường. (53)
Sự châm chước cần phải luôn luôn được giảm trừ từ các sự tin tưởng ngự trị trong các sự phê b́nh của Philastre và Luro về t́nh h́nh Nam Kỳ. Song sự tiến bộ chậm chạp của những năm sau này và các khó khăn mà các người khác đă mô tả cung cấp một sự chứng thực quan trọng cho sự ước lượng của họ. Cả khối hành chánh hoặc đă sẵn chấp nhận t́nh trạng tất nhiên của sự tiến bộ chậm chạp và các kết quả nhỏ nhoi hay đă tin tưởng rằng những vấn đề tạm thời này sẽ sớm tan biến đi. Chắc chắn là các đồng sự của ông Philastre đă không chia sẻ sự quan tâm của ông về sự biến mất của sự giảng dậy triết học Trung Hoa.
Được chống đỡ bởi các thái độ này và được trợ giúp trong các chương tŕnh của họ bởi các nhân vật An Nam như các ông Pétrus Kư và Paulus Của, các viên chức Pháp đă hoạt động trong suốt thập kỷ bẩy mươi để đạt tới sự thay thế chữ Hán bằng quốc ngữ. Mục đích tối hậu của họ là một hệ thống giáo dục với sự giảng dạy bằng tiếng Pháp và sự du nhập học thuật hiện đại, như được hiểu bởi người Pháp. Bất kể đến các sự thất bại và các khó khăn, điều đă được quyết định, trong năm 1878, để cưỡng bách sự sử dụng quốc ngữ làm ngôn ngữ duy nhất, ngoài tiếng Pháp, được chấp thuận trong mọi văn kiện chính thức.(54) Một quyết định tương tự đă được lấy trong năm 1869, nhưng nó vẫn c̣n là một thứ ngôn ngữ chết (tử ngữ) (55). Quyết định năm 1878 được ước định sẽ làm gia tăng sĩ số theo học tại các trường dạy bằng quốc ngữ, bởi giờ đây có lư do hơn nữa để theo học cách kư âm mới.(56) Mục đích của sự thay thế toàn diện cách viết theo mẫu tự la mă thay cho Hán tự đă được chấp nhận bởi phía cai trị; giờ đây chỉ c̣n là vấn đề thời gian trước khi phía bị trị cũng chấp nhận nó.
Đối đầu với sự thay đổi là các trường tư nhân giảng dạy Hán tự tại các làng xă. Các trường học nhỏ bé này vẫn c̣n là một phần của sinh hoạt xă thôn Việt Nam măi cho đến cuối thế kỷ, nhưng lư do hiện diện của nó ngày càng trở nên mờ nhạt hơn. Không c̣n các kỳ khảo hạch ba năm một lần tại Nam Kỳ nữa, và guồng máy cai trị không có chỗ dành cho các người theo học Hán tự. Vào cuối thập kỷ bẩy mươi, số các thày giáo có thể giảng dạy bằng chữ nho đă sút giảm. Hệ thống thay thế của chính quyền Pháp, các trường giảng dạy bằng quốc ngữ và tiếng Pháp, vẫn chưa điều hành một cách thỏa đáng, nhưng chúng đă cung cấp một khuôn khổ cho các nỗ lực liên tục để ghi khắc các giá tri của Pháp và học thuật tây phương. Sự thay đổi th́ chậm chạp và tiến bộ khó đạt được. Dù thế, nó vẫn diễn ra. Chưa đầy một thế hệ kể từ lúc kết thúc thập niên bẩy mươi, sự thay thế toàn thể bằng quốc ngữ cho chữ nho đă đạt được. Điều này cung cấp một thước đo khác theo đó để phán đoán các sự phát triển tính đến năm 1879, vốn thường có vẻ quất vào sự tự lừa dối và các mưu toan để đạt được điều bất khả./-
___
CHÚ THÍCH:
1. Liên quan đến sự thảo luận về vai tṛ trong sự phát triển quốc ngữ bởi Alexander de Rhodes, cũng bao gồm cả một số nhận xét về chữ nôm, xem Maurice Durand, “Alexandre de Rhodes,” BSEI, n.s., XXXII, 1 (1st semester, 1957), 5-30.
2. Về các thí dụ điển h́nh của sự cự tuyệt chữ Hán và nghiêng về quốc ngữ, xem AOM Indochine A-20 (2) Văn thư của Đô Đốc de La Grandière gửi Bộ Trưởng Thuộc Địa, Saigon, 31 December 1863, không đánh số, đính kèm một báo cáo tổng quát cho năm 1863, và một tiểu luận nhan đề Études sur les votes et moyens de la politique francaise en Indochine, 13.
3. AOM Indochine A-30 (6), Văn thư của Đô Đốc de La Grandière gửi Bộ Trưởng Thuộc Địa, Saigon, 29 September 1864, No. 985.
4. AOM Indochine A-30 (8) Văn thư của Đô Đốc Roze gửi Bộ Trưởng Thuộc Địa, Saigon, 9 May 1965, No. 1,360.
Các số báo đầu tiên của Gia Định Báo th́ cực kỳ hiếm có. Sưu tập tốt nhất, chỉ bao gồm các ấn bản rải rác trong một số năm, được giữ tại Thư viện của trường École des Languages Orientales Vivantes tại Paris. Sưu tập giữ tại Thư Viện Quốc Gia tại Sàig̣n chỉ bắt đầu từ năm 1880; xem Lê Ngọc Trụ, biên tập, Mục Lục Báo Chí Việt ngữ (Saigon, 1966).
5. AOM Indochine X-00 (1) “Extrait d’une lettre adressée au Ministre par le Gouverneur p.i. de la Cochinchine,” Saigon, 2 March 1869.
6. Gia Định Báo, số 4 (July 1865).
7. Cùng tài liệu dẫn trên, số 5 (August 1865).
8. Cùng nơi dẫn trên.
9. Cùng tài liêu dẫn trên, số 11 (June 1872).
10. Có nhan đề “Chuyện Sách Sử Nước Annam,” các bài viết này xuất hiện trên Gia Định Báo trên một căn bản không thường xuyên trong các năm 1874 và 1875. Nhan đề được dịch sát nghĩa là The Book of Vietnamese History. Tác giả không được xác định. Xem ra có lẽ chính là ông Pétrus Kư.
11. Gia Định Báo, số 9 (1 May 1874).
12. Conseil Colonial (Hội Đồng Thuộc Địa) (khóa họp thường lệ năm 1885), 8 January 1886, 171. Một khối lượng lớn các tác phẩm của ông Của được liệt kê trong cuộc thảo luận tại Hội Đồng Thuộc Địa.
13. Thí dụ, điểm nổi bật cần ghi nhận là sự thiếu vắng thông tin về tiểu sử trong phần dành cho ông Của trong quyển Tự Điển Tiểu Sử-Thư Tịch của Brébion và Cabaton (Dictionnaire de bio-bibliographie).
14. Công tŕnh nghiên cứu của Jean Bouchot, Pétrus J.B. Trương Vĩnh Kư, vừa cực kỳ hữu ích vừa là khuôn mẫu của ư kiến của người Pháp về ông Kư. Nó được rút ra từ các tài liệu của gia đ́nh. Một số sự phán đoán của Bouchot phản ảnh giai đoạn khi nó được viết ra. Thí dụ, hăy cứu xét ư kiến mà Bouchot đă đưa ra về sự gia nhập của ông Kư vào chính quyền Pháp: Dưới cái nh́n của đồng bào ông ta, ông không phảI là một ông quan lớn, bởi một phẩm trật như thế chỉ có thể đạt được tiếp theo sau một sự tham dự vào một cuộc khảo thí đúng theo các Nghi Lễ, nhưng có điều ǵ khác lạ và kẻ cả, nếu tôi có can đảm để nói như thế; ông là, theo một kiểu nào đó, một ông quan ngoại quốc vĩ đại và thuộc các vùng đất biểu lộ sự ưu đẳng trong nền văn minh của chúng trong một cung cách nổi bật như thế.” Phần in nghiêng làm nổi bật là của nguyên bản.
15. AVN S. L. 1,699 mang lại một thí dụ về điều này trong lá thư của ông Kư gửi Thanh Tra Inspector Kergaradec, Chợ Quán, 14 September 1869, trong đó ông Kư thảo luận về hành chánh xă thôn.
16. Các cuộc nghiên cứu gần đây bằng Việt ngữ về cuộc đời ông Kư, chẳng hạn như công tŕnh của Khổng Xuân Thu, nhan đề Trương Vĩnh Kư, và Nguyên Hương, “Trương Vĩnh Kư (1837 – 1898),” Văn Hóa Nguyệt San, XIV, 12 (Tháng Mười Hai 1965), các trang 1709-1737, có sử dụng tài liệu của Bouchot. Cuộc nghiên cứu này cũng được rút ra từ các văn khố công và tư tại Paris và Sàig̣n, kể cả hồ sơ cá nhân của ông Kư tại các văn khố Việt Nam và các tài liệu gia đ́nh được lưu giữ tại Bảo Tàng Viện Pétrus Kư trên địa điểm có ngôi nhà của ông tại Chợ Quán, ngoại ô Sàig̣n.
Tầm mức các trước tác của ông Kư có thể được nhận thấy từ việc tham khảo nhiều thư tịch khác nhau về các tác phẩm của ông. Có các thự tịch trong cuộc nghiên cứu của Bouchot, nơi cáo phó của Henri Cordier về sự từ trần của ông Kư trong tập san T’oung Pao, series II, I (1900), các trang 262-268. Sự liệt kê đầy đủ nhất là thư muc của chính ông Kư nhan đề Catalogue des ouvrages publiés et édités jusqu’à ce jour par P.J.B. Trương Vĩnh Kư à l’usage des écoles indochinoises (Thư Mục Các Tác Phẩm Đă Ấn Hành và Biên Tập cho đến ngày nay của ông P.J.B. Trương Vĩnh Kư được dùng tại các trường ở Đông Dương) (Chợ Quán, 1892). Đây là bản in lối quay ronéo và được tham khảo trong số các tài liệu của ông Kư được lưu trữ tại Viện Khảo Cổ (Institute for Archeological Research), Sàig̣n. Nó bao gồm 141 tác phẩm riêng biệt được liệt kê.
17. AVN S. L. 172, thư ông Kư gửi ông Vial, Chợ Quán, 3 October 1868, trong hồ sơ cá nhân của ông Kư.
18. Cours d’histoire annamite à l’usage des écoles de la Basse-Cochinchine (Saigon, 1875-1877).
19. Tác giả Bouchot sao chép lại bản báo cáo này trong quyển viết tiểu sử ông Kư, các trang 34-41, mà không có bất kỳ chỉ dẫn nào về xuất xứ. Tác giả này [tức Milton E. Osborne, chú của người dịch] có tham khảo một bản sao báo cáo viết tay của ông Kư trong sổ văn thư của ông, “Thư Tín các năm 1873-1874” (trong thực tế bao gồm từ năm 1873 đến 1877) tại Bảo Tàng Viện Pétrus Kư. Nó được ghi chú trong sổ văn thư mang Số 50, có nhan đề “Rapport à l’A[d]miral par l’intermédiaire de M. Regault de Premesnil,” Chợ Quán, 28 April 1876. Báo cáo chính trị không hề được ấn hành trong thời sinh tiền của ông Kư. Bản được ấn hành nhan đề là Chuyến đi Bắc Ḱ năm Ất Hợi (Sàig̣n, 1881): Voyage au Tonkin en 1876. Bản văn được viết bằng tiếng Việt.
20. AVN S. L. 172; báo cáo của Luro đề ngày 16 tháng Sáu, 1875.
21. Bảo Tàng Viện Pétrus Kư, “Thư Tín Các Năm 1873 và 1874”, Số 105, Thư của Pétrus Kư gửi ông Perrin của Hội Ngữ Học (Société Philologique), Sàig̣n, 3 September 1877.
22. Về quan điểm của ông Phạm Quỳnh, xem tác phẩm của ông ta nhan đề Quelques Conférences à Paris (Hà Nội, 1923), các trang 116-118.
23. Sự trích dẫn được rút ra từ tài liệu “Institutions fondées en Cochinchine: Các Học Viện được thành lập tại Nam Kỳ,” đề năm 1884, và được chứa trong AAE Asie Tome 29 Indochine 3. Cũng xem, AOM Indochine A-20 (3) Văn thư của Đô Đốc de la Grandière gửi Bộ Trưởng Thuộc Địa, Sàig̣n, 31 December 1864, No. 1,121, có đính kèm một báo cáo tổng quát cho năm 1864.
24. AOM Indochine A-30 (6) Văn Thư của Đô Đốc de La Grandière gửi Bộ Trưởng Thuộc Địa, Sàig̣n, 29 September 1864, No. 985. Phần nhấn mạnh là của nguyên bản.
25. AOM Indochine A-20 (3) Văn Thư của Đô Đốc de La Grandière gửi Bộ Trưởng Thuộc Địa, Sàig̣n, 31 December 1864, No. 1,121, có đính kèm một báo cáo tổng quát cho năm 1864.
26. AOM Indochine A-30 (8) Văn Thư của Đô Đốc Roze gửi Bộ Trưởng Thuộc Địa, Sàig̣n, 29 March 1865, No. 1.
27. Cùng nơi dẫn trên, Văn Thư của Đô Đốc Roze gửi Bộ Trưởng Thuộc Địa, Sàig̣n, 26 November 1865, không đánh số.
28. AM Marine BB4, 876, Văn Thư Đô Đốc Ohier gửi Bộ Trưởng Thuộc Địa, Sàig̣n, 28 November 1868, No. 1,083.
29. Cùng nơi dẫn trên, 899, Văn Thư của Đô Đốc Ohier gửi Bộ Trưởng Thuộc Địa, Sàig̣n, 2 March 1869, không đánh số.
30. AOM Indochine A-20 (8) “Rapport pour l’expose général de la situation de l’Empire,” Sàig̣n, 28 August 1869.
31. AOM Indochine A-20 (11) Văn Thư của Đô Đốc Cornulier-Lucinière gửi Bộ Trưởng Thuộc Địa, Sàig̣n, 27 September 1870, No. 816.
32. AOM Indochine A-20 (14) Văn Thư của Đô Đốc Dupré gửi Bộ Trưởng Thuộc Địa, Sàig̣n, 1 February 1873, No. 115.
33. AVN S. L. 2,727 “Affaire de l’École Centrale de Mytho,” 1872.
34. Cours d’administration, trang 681.
35. Cùng nơi dẫn trên, trang 682.
36. Cùng nơi dẫn trên, các trang 682-683. Cũng xem Taboulet, La Geste, II, các trang 592-597.
37. BOCF, 1871, pt. 7, các trang 230-232.
38. AVN S. L. 2,756 “Rapport mensuel adressé à Monsieur le Directeur de l’Intérieur,” (Báo cáo hàng tháng gửi ông Giám Đốc Nội Vụ, soạn thảo bởi ông Robert, Giám Đốc Trường Sư Phạm, Sàig̣n, 25 April 1874.
39. AOM Indochine A-30 (8) Văn Thư của Đô Đốc Roze gửi Bộ Trưởng Thuộc Địa, Sàig̣n, 7 April 1865, No. 1,279.
40. AOM Indochine X-11 (1). Hồ sơ này có số văn thư khá lớn về chương tŕnh.
41. ANV Điện văn của Bộ gửi Đô Đốc Ohier, Paris, 7 May 1869.
42. George Durrwell, Ma Chère Cochinchine (Paris, 1911), 265. Cũng xem hồ sơ cá nhân của Trần Bá Hữu [?], AVN S. L. 2,743.
43. AVN Điện văn của Bộ gửi Đô Đốc de La Grandière, Paris, 22 November 1866; AOM Indochine A-20 (11), Văn Thư của Đô Đốc Cornulier-Lucinière gửi Bộ Trưởng Thuộc Địa, Sàig̣n, 27 September1870, No. 816.
44. AOM Indochine X-11 (1), Thư Giám Đốc Viện Institution Sainte Marie, La Seyne, gửi Bộ Trưởng Thuộc Địa, 15 January 1868.
45. Cùng nơi dẫn trên, 24 October 1871.
46. AVN Điện Văn của Bộ gửi Đô Đốc Ohier, Paris, 6 June 1868. Bài báo được in trong tờ La Phare de Loire, 5 January 1868.
47. AOM Indochine X-11 (I) Văn Thư của Đô Đốc Dupré gửi Bộ Trưởng Thuộc Địa, Sàig̣n, 11 July 1871, No. 364.
48. Lettre commune (Thư cộng đồng), No. 3, 31 December 1875; No. 8, 31 December1877; No. 9, 31 December 1878.
49. Giáo dục ḍng tu đạo đă là nguyên ủy của sự thảo luận nóng bỏng vào cuối thập niên chín mươi. Thí dụ xem Hội Đồng Thuộc Địa (Conseil Colonial) (khóa họp thường lệ 1897-1898), 26 November 1897, trang 108.
50. AOM Indochine D-450 (4) “Conseil Privé, extrait du registre des délibérations: Cơ Mật Viện: trích lục sổ ghi chép các quyết đinh.” 17 November 1874.
51. Cùng nơi dẫn trên. Cho đến khi các trường sơ học được thiết lập trên một căn bản phổ thông, các trường dạy bằng quốc ngữ vẫn được tiếp tục. Không có bằng cớ nào cho thấy rằng các trường này đă làm như thế trong một thời khoảng kéo dài.
52. Cùng nơi dẫn trên.
53. AVN S. L. 4,384 “Rapport sur un voyage d’inspection fait du 11 février au 3 mars, et du 15 mars au 6 avril 1876 dans les deux provinces de Gia Định et de Bien Hoa (circonsription de Saigon),” 15 August 1876. Sự nhấn mạnh là của nguyên bản, khi nằm trong dấu ngoặc kép. Philastre đă đặt dấu ngoặc kép trên từ “cung cấp: furnish” bởi đây là từ được dùng bởi chính quyền Pháp. Ông muốn làm nổi bật sự tương phản sự việc này với t́nh h́nh thực tế, trong đó sự cưỡng bách và “thuê mướn [trẻ đi học]” có liên hệ đến.
54. Quyết định được lấy hôm 6 April 1878.
55. AOM Indochine X-00 (1) “Extrait d’une lettre adressée au Ministre par le Gouverneur p. I. [Ohier] de la Cochinchine, “ Saigon, 2 march 1869; và “Extrait d’un rapport annuel du Gouverneur p.i. de la Cochinchine, Ohier, au Ministre de la Marine, sur la situation de la colonie,” Saigon, 13 September, 1869.
56. AOM Indochine X-00 (1), “Extrait – Exposé de la situation de la Cochinchine pour 1878,” không đề ngày.
Nguồn: Milton E. Osborne, The French Presence in Cochinchina and Cambodia, Rule and Response (1859-1905), Ithaca and London: Cornell University Press, 1969, Chương 4: Education and Quốc Ngữ -- The Development of a New Order, các trang 89-108.
Ngô Bắc dịch và chú giải
Các bản dịch khác của Ngô Bắc trên gio-o
© 2007 gio-o