Lănh Sự Lawrence P. Briggs,
Sàig̣n, Nam Kỳ (Cochin China)
Phần Bổ Túc
BÁO CÁO THƯƠNG MẠI
BÁO CÁO MẬU DỊCH VÀ LĂNH SỰ HÀNG NGÀY
ẤN HÀNH BỞI
PH̉NG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ VÀ QUỐC NỘI
BỘ THƯƠNG MẠI HOA KỲ,
WASHINGTON, D. C.
Ấn Phẩm Thường Niên Số 54a 25 Tháng Bảy 1917
*****
(kỳ 2)
Ngô Bắc dịch
Lời Người Dịch
Dưới đây là bản dịch ba Phần Bổ Túc Các Báo Cáo Thương Mại của Lănh Sự Hoa Kỳ tại Sàig̣n được ấn hành bởi Bộ Thương Mại Hoa Kỳ, trong các năm 1915, 1917 và 1918. Ba văn bản này mang lại các con số thống kê chính xác và hữu ích, phản ảnh các lănh vực hoạt động kinh tế và ngoại thương chính yếu của Việt Nam gần 100 năm trước đây, trong thời Thế Chiến I 1914-1918.
Hai bản văn năm 1915 và 1917 được soạn thảo bởi Lawrence Palmer Briggs, Lănh Sự của Hoa Kỳ tại Sàig̣n trong thời gian đó, và bản văn năm 1918 được soạn thảo bởi Horace Remillard, người kế nhiệm làm Lănh Sự Hoa Kỳ tại Sàig̣n từ năm 1917 đến 1919. Tiểu sử ngắn gọn về hai tác giả này được ghi lại trước bài viết liên hệ.
*****
ĐÔNG DƯƠNG THUỘC PHÁP
Soạn Thảo Bởi Lănh Sự Lawrence P. Briggs, Sàig̣n, Nam Kỳ (Cochin China)
Lawrence Palmer Briggs sinh tại Manton, Michigan, ngày 17 Tháng Mười, 1880, tốt nghiệp University of Michigan (Cử Nhân), 1905, University of Chicago (Cao Học), 1908; hiệu trưởng các trường công lập tại Grand Marais và St. Ignace, Michigan, 1900-1903; giảng viên môn lịch sử và chính quyền tại Muskegon, Michigan, 1905-6, và Seattle, Washington, 1908-1910; phụ giáo (teaching fellow), University of California, 1910-11, và là một phụ giáo của trường này tại Âu Châu, 1911-12; giảng viên tại Pennsylvania State College, 1912-14; được bổ nhiệm, sau kỳ khảo hạch (19 Tháng Một, 1914), làm Lănh Sự tại Sàig̣n từ ngày 27 Tháng Tư, 1914 [ND].
***
*****
Năm 1916 đă là một năm khá tốt trong thương mại của Đông Dương thuộc Pháp. Các số thu hoạch đều tốt đẹp, đặc biệt số thu hoạch gạo của Sàig̣n; nhưng các nhà xuất cảng gặp trở ngại bởi thiếu trọng tải, và một số lượng lớn lao của sản phẩm bị bỏ lại vào lúc cuối năm. Trị giá quan thuế của cảc hàng xuất cảng lẫn nhập cảng nhiều hơn năm 1915 chút ít, chính yếu là do sự định giá cao hơn, bởi có sự nghi ngờ không biết là liệu các khối lượng có lớn hơn năm 1916 hay không. Tuy nhiên, sự gia tăng chuyên đoán này trong trị giá quan thuế là một sự tŕnh bày khá chính xác về sự gia tăng giá cả trong các mặt hàng nhập cảng lẫn xuất cảng; nhưng không có mấy xác suất rằng các cư dân dă nhận được thật nhiều tiền bạc và hàng hóa trả cho sức lao động và các sản phẩm của họ như trong vài năm trước đây.
Các Sự Phân Chia Khu Vực Kinh Tế
Trong khi cứu xét thương mại và các ngành nghề của Đông Dương thuộc Pháp, điều thiết yếu cần ghi nhận ba khu vực phân chia kinh tế. (1) Vùng đất quy kết về Sàig̣n, ngoại trừ các ngư trường của bờ biển và các hồ nước nội địa, gần như có tính chất thuần túy nông nghiêp – một trong các vùng lúa gạo vĩ đại của thế giới. Mặc dù phân hạt này chứa chưa đến một phần ba tổng số dân chúng, nó đảm đương khoảng 70 phần trăm thương mại của Đông Dương thuộc Pháp. Phần lớn mậu dịch của Căm Bốt được thực hiện xuyên qua Saig̣n bằng các thủy lộ nội địa, mặc dù một luồng lưu thông ngoại quốc nhỏ bé, có lẽ chiếm 1 phần trăm tổng số của Đông Dương thuộc Pháp, là bằng các tàu biển chạy bằng hơi nước đi ngược ḍng Mekong lên tới Pnompenh. (2) Vùng quy kết về Hải Pḥng được dành cho nông nghiệp, hầm mỏ, và chế tạo. Gạo là số xuất cảng chính yếu, nhưng trong năm 1916, lần đầu tiên, trị giá sản lượng khoáng sản lớn hơn trị giá các sản phẩm nông nghiệp. Phân hạt này chứa chấp khoảng phân nửa dân số Đông Dương thuộc Pháp và thực hiện từ 25 đến 30 phần trăm ngoại thương của nó. (3) Trung Kỳ An Nam, có Đà Nẵng (Tourane) là hải cảng chính của nó, chủ yếu là nông nghiệp, nhưng khác với phần c̣n lại của Đông Dương thuộc Pháp, nó không phải là vùng trồng lúa gạo to lớn. Số xuất cảng chính của nó – quế, đường, và trà – không phải được chuyên chở trong khối lượng lớn từ các phân hạt khác. Khoảng 3 phần trăm ngoại thương của Đông Dương thuộc Pháp được ghi nhận cho vùng này.
Các Phương Tiện Thủy Vận –
Các Sự Cải Thiện Hải Cảng và Kinh Đào.
Hai công ty tàu chạy bằng hơi nước của Pháp – Messageries Maritimes va Chargeurs Réunis – duy tŕ các dịch vụ thường lệ đến Đông Dương thuộc Pháp; tàu bè qua lại ít thường xuyên hơn trong năm 1916. Tất cả các tàu hơi nước chở hành khách của hăng Messageries Maritimes giờ đây ghé bến Đà Nẵng và Hải Pḥng. Công Ty Messageries Fluviales de la Cochinchine đă từ bỏ dịch vụ chuyên chở hàng hóa và thư tín sang Bangkok, và khế ước đă được trao cho Công Ty Messageries Fluviales du Tonkin. [Xem báo cáo được ấn hành trong bộ Commerce Reports (Các Báo Cáo Thương Mại) ngày 16 Tháng Năm, 1916.]
Bích Chương Quảng Cáo Công Ty Messageries Maritimes
Không có các sự cải thiện hải cảng quan trọng được tiến hành trong năm. Tại Sàig̣n, việc nối dài các bến cảng của Khánh Hội đến Kinh Canal of Derivation [Kinh Tẻ?] được tiếp tục một cách chậm chạp, nhưng nhiều sự cải thiện được chấp thuận trong mùa hè 1916 lại chỉ được khởi sự một cách hiếm hoi. [Xem Các Báo Cáo Thương Mại ngày 14 Tháng Bảy 1916.] Tại Qui Nhơn, Đà Nẵng, và Hải Pḥng, đă có khối lượng nạo vét thông thường dưới sự chỉ huy của Nha Công Chánh.
Trong năm 1916, Công ty La Société des Dragages d’Extrême-Orient đă tiếp tục nạo vét các kinh đào tại Nam Kỳ (Cochin China), nhưng ở các nơi khác, chỉ có ít diều được thực hiện để cải thiện các thủy lộ nội địa. Khế ước của công ty này măn hạn vào ngày 1 Tháng Một, 1918, và một chương tŕnh mới đă sẵn được dự phóng cho thời khoảng 1918-1930. [Xem phần bổ túc Các Báo Cáo Thương Mại số 54a, ấn hành ngày 16 Tháng Mười, 1916, và Các Báo Cáo Thương Mại ngày 27 Tháng Tư, 1917.]
Công Tác Xây Dựng –
Các Xa Lộ Mới Được Hoàn Tất
Ít có công tác xây dựng đường hỏa xa tiếp diễn trong năm 1916 là v́ giá cả vật liệu lên cao và không có sự giám sát của người Âu Châu; phân nửa nền đường của khoảng trống giữa Vinh và Đông Hà, phía bắc Trung Kỳ (An Nam) được hoàn tất. Trong việc xây dựng đường bộ, nhiều công tác hơn đă được hoàn tất, mặc dù không có công tác quan trọng nào được khởi sự trong năm. Sự tiến bộ được thực hiện trên đường nối Sàig̣n-Pnompenh tại Căm Bốt, và giờ đây có thể đi bằng xe hơi từ Sàig̣n đến Banam [?] trên sông Mekong và bằng cách lấy thuyền nhỏ đến Pnompenh để cắt ngắn chuyến đi được vài tiếng đồng hồ. Sự xây cất xa lộ quanh các hồ Căm Bốt và tại vùng phụ cận của các ngôi đền ở Angkor vẫn tiếp tục, nhưng các phế tích tuyệt diệu này vẫn chưa tiếp cận được từ Pnompenh bằng xe hơi. Tại Nam Kỳ, giờ có các đường lộ tốt từ Biên Ḥa đến Bà Rịa và Vũng Tàu (Cap St. Jacques), cả hai đều nối trực tiếp và xuyên qua vùng trồng cao su ngang Xuân Lộc. Tại Trung Kỳ, sự chú ư được nhắm tới việc cải thiện Đường Cái Quan (Mandarin Road) dọc theo bờ biển và các con đường dẫn tới khu an dưỡng sức khỏe đă được dự phóng tại Đà Lạt, trên cao nguyên Lâm Viên (Langbian).
Bưu Thiếp Phong Cảnh Đà Lạt
Tại Bắc Kỳ, Nha Công Chánh đă tham gia vào sự xây dựng và sửa chữa các con đê tại vùng châu thổ, sự cải thiện Đường Cái Quan từ Hà Nội đến ranh giới Trung Kỳ, và sự xây dựng các đường lộ tại vùng mỏ thiếc và tungsten ở Cao Bằng gần biên giới Trung Hoa. Một đường xe hơi tốt được hoàn tất từ trạm xe hỏa ở Đồng Đăng, bên trên Lạng Sơn, đến Cao Bằng (Đường Thuộc Địa Số 1). Xa lộ khác được dự phóng vào vùng này – Hà Nội đến Cao Bằng qua Thái Nguyên và Bắc Kạn (Đường Thuộc Địa Số 2) – hiện đang được xây dựng.
Các Số Thu Hoạch Lúa Gạo Kỷ Lục
Tại Nam Kỳ và Căm Bốt
Khó để đưa ra một sự phát biểu tổng quát liên quan đến sự thu hoạch lúa gạo của Đông Dương thuộc Pháp bởi gần như không có tháng nào trong năm mà không có việc gặt hái ngũ cốc tại một vài nơi trong vùng này. Tuy nhiên, về mặt xuất cảng, chỉ có hai vùng cần phải cứu xét – Nam Kỳ và Căm Bốt, và Bắc Kỳ.
Quảng Cáo Gạo Đông Dương
Tại Nam Kỳ và Căm Bốt số thu hoạch lúa gạo lớn lao đă được gặt hái từ Tháng Mười Hai đến Tháng Ba. Số thu hoạch 1915-1916 kém hơn số thu hoạch năm 1914-1915 gần 20 phần trăm. Số thu hoạch 1916-1917, vừa gặt hái xong, có lẽ sẽ đặt ra một kỷ lục mới, tối thiểu nhiều hơn 10 phần trăm số thu hoạch năm 1914-1915, vốn đă vượt qua mọi số thu hoạch trước đó. Tổng số sản lượng của Nam Kỳ và Căm Bốt lên tới gần 3,000,000 triệu tấn thập phân.
Bắc Kỳ có hai vụ thu hoạch mỗi năm. Vụ thứ nhất và ít hơn được gặt hái trong Tháng Năm và Tháng Sáu; vụ thứ nh́ trong Tháng Mười Một và Mười Hai. Vụ đầu năm 1916 th́ rất ít bởi có sự chậm trễ của “crachin: mưa phùn, mưa bụi” hay mưa xuân. Vụ mùa thu hoạch trong Tháng Mười Một, 1916, được nói phần nào lớn hơn cùng vụ của năm 1915, nhưng ít hơn số thu hoạch bất thường của năm 1914.
Số thu hoạch lúa gạo của Trung Kỳ và An Nam hiếm khi nhiều hơn mức vừa đủ cho sự tiêu dùng bản địa.
Sụt Giảm Trong Sản Lượng Ngô và Sắn.
Ngô (bắp) là nông phẩm chịu ảnh huởng nhiều nhất từ các giá biểu chuyên chở lên cao do chiến tranh Âu Châu. Trong khoảng 10 năm qua hay lâu hơn, ngô đứng thứ nh́ sau gạo tại Đông Dương thuộc Pháp.trong suốt thời kỳ 1906-1915, số thu hoạch hàng năm tại vùng đất này trung b́nh khoảng 100,000 tấn. Các điều kiện đều khá thuận lợi cho việc trồng ngô, bởi nó có thể được trồng tại bất kỳ nơi đâu vào bất kỳ mùa nào ngoại trừ những vùng hay thời khoảng cực kỳ khô khan hay ẩm ướt. Mặc dù mẫu quốc cung cấp một thị trường tuyệt hảo, thể tích cồng kềnh và trị giá thấp kém của mặt hàng này khiến nó bị ảnh hưởng ngay từ đợt gia tăng đầu tiên trong các giá biểu chuyên chở; và sản lượng sụt giảm từ khoảng 120,000 tấn trong năm 1914 xuống c̣n 85,000 tấn trong năm 1915 và 60,000 tấn trong năm 1916, nhiều phần sẽ không gia tăng một khi các giá biểu chuyên chở vẫn c̣n quá cao.
Sự sụt giảm trầm trọng nhất tại Bắc Kỳ, nơi trong thực tế tất cả số ngô sản xuất để xuất cảng đă gia tăng cho đến năm 1913, lúc mà Nam Kỳ chiếm mất vị trí hàng đầu; kể từ đó hơn phân nửa các chuyến hàng đă xuất phát từ Sàig̣n. Hơn 80 phần trăm số thu hoạch năm 1916 được tăng trưởng tại Nam Kỳ và Căm Bốt. Sự khô ráo của mùa màng đă làm gia tăng ngoài các khó khăn khác cho các nhà trồng trọt Bắc Kỳ.
Sản lượng của sắn, lên tới khoảng 150 tấn trong năm 1914, giảm xuống c̣n độ 60 tấn trong năm 1915 và trong thực tế đă biến mất ngoại trừ cho sự tiêu thụ địa phương; phần lớn sản lượng sắn đến từ Bắc Kỳ và Trung Kỳ.
Số Thu Hoạch Bông Vải, Hạt Tiêu và Cùi Dừa Khô.
Bông vải, hạt tiêu, và cùi dừa khô là các nông phẩm quan trọng kế đó của Nam Kỳ và Căm Bốt; một số bông vải cũng được sản xuất tại miền bắc Trung Kỳ. Chiến tranh đă ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự trồng trọt các sản phẩm này. Hạt tiêu và cùi dừa khô được tiếp thị tại Pháp và bông vải Căm Bốt được chở sang Nhật Bản. Các giá biểu chuyên chở đă cản trở sự xuất cảng và các giá cả bị xuống thấp.
Vụ thu hoạch bông vải Căm Bốt được hái trong Tháng Ba, 1916, lên tới khoảng 4,000 tấn thập phân, so với 10,000 tấn trong năm 1915, và 12,000 tấn trong năm 1914. Vụ mùa thu hái trong Tháng Ba 1917, được ước lượng bằng với số thu hoạch của vụ đó trong năm 1916. Ngoài ra, số lượng nêu trên có thể được bổ túc mỗi năm khoảng 1,000 tấn từ vùng Thanh Hóa thuộc miền bắc Trung Kỳ và khoảng 200 tấn từ miền nam Trung Kỳ và miền Đông Nam Kỳ. [Xem báo cáo về sản lượng bông vải tại Đông Dương thuộc Pháp được ấn hành trong Các Báo Cáo Thương Mại ngày 16 Tháng Tư, 1917.]
Sản lượng hạt tiêu bị giảm sút bởi nạn hạn hán bất thường của hai mùa qua. Vụ mùa thu hoạch trong Tháng Ba, 1916 ít hơn 3,000 tấn, so với 3,600 tấn trong năm 1915 và hơn 4,000 tấn cho năm 1914. Số thu hoạch năm 1917 được ước lượng là 4,000 tấn. Một sắc lệnh hôm 17 Tháng Hai, 1916, cắt giảm xuống c̣n 1,600 tấn từ Căm Bốt và 400 tấn từ Nam Kỳ khối lượng hàng năm của hạt tiêu được nhập vào nước Pháp được hưởng phân nửa thuế quan, trong các năm 1916, 1917, và 1918. Các con số của ba năm trước đó là 2,000 tấn cho Căm Bốt và 500 tấn cho Nam Kỳ.
Sản lượng cùi dừa khô đang sụt giảm. Marseille, nguyên là thị trường của thế giới về sự rao bán cùi dừa khô cũng như là một trung tâm quan trọng của sự chế tạo xà pḥng, bị xáo trộn bởi chiến tranh và sản lượng của các nhà máy xà-pḥng bị sụt giảm bởi có sự động viên nhân công của chúng. Cây dừa tăng trưởng tràn đầy tại mọi phần của bờ biển và châu thổ của Đông Dương phía nam miền trung Trung Kỳ, nhưng sự sản xuất cùi dừa khô trong thực tế được hạn chế vào các tỉnh Mỹ Tho và Bến Tre tại vùng hạ lưu sông Mekong thuộc Nam Kỳ. Sản lượng cho các năm 1914, 1915và 1916 lần lượt vào khoảng 8,500, 7,500, và 4,500 tấn; cho năm 1917 có lẽ sẽ không nhiều hơn năm 1916. Việc trồng cây dừa không được mở rộng và dừa được tiêu thụ bởi dân bản xứ hay được chế biến thành dầu dừa.
Quảng Cáo Sản Phẩm Xà Pḥng
Các Sự Xuất Cảng Quế, Đường, và Trà.
Quế, đường, và trà là các nông phẩm xuất cảng chính của Trung Kỳ; nhưng, ngoại trừ một số ít trà của Bắc Kỳ, các sản phẩm này đă không được xuất cảng từ bất kỳ phần đất nào khác của Đông Dương. Phần lớn quế, đến từ vùng tây nam của Hội An (Faifo), thuộc miền trung Trung Kỳ, được mua bởi các thương nhân Trung Hoa tại Hội An và được chở bằng tàu từ Đà Nẵng sang Trung Hoa. Một số quế từ Thanh Hóa, miền bắc Trung Kỳ, được xuất cảng mỗi năm từ Hải Pḥng. Trước đây các khu rừng đă sản xuất ra phần lớn sản phẩm này, nhưng đồn điền quế đang gia tăng tầm quan trọng. Năm qua đă là một năm tốt đẹp trong mậu dịch quế, nhưng các dấu hiệu cho năm 1917 không mấy hứa hẹn.
Mặc dù đường được sản xuất tại mọi phần của Đông Dương thuộc Pháp, nó chỉ được xuất cảng từ miền trung Trung Kỳ. Khối lượng đang gia tăng mỗi năm, nhưng cần có các phương pháp hữu hiệu hơn của sự trồng trọt và chế biến. Xứ sở thích nghi một cách tốt đẹp cho việc trồng cây mía và đường sẽ phải là một mặt hàng xuất cảng hàng đầu từ mọi miền của thuộc địa này. Sản lượng cho năm 1916 th́ lớn hơn một cách đáng kể so với sản lượng của năm trước và có mọi chỉ dấu rằng số thu hoạch mía năm 1917 sẽ lớn lao. [Xem Các Báo Cáo Thương Mai ngày 12 Tháng Tư, 1917.]
Phần lớn trà bản xứ đến từ miền trung Trung Kỳ và Bắc Kỳ, nhưng hầu hết số xuất cảng lại được chế biến gần Đà Nẵng. Hiện có vài đồn điền của người Âu Châu tại vùng phụ cận này và một hay hai đồn điền tại Bắc Kỳ. Sự trồng trà dần dần được mở rộng và có sự chú ư hơn đến phẩm chất. Một trận băo trong Tháng Chín 1915, đă gây tổn hại cho các đồn điền ở Đà Nẵng và ảnh hưởng nghiêm trọng đến số thu hoạch của năm 1916, nếu không nó sẽ là số thu hoạch lớn nhất được ghi nhận. Sản lượng cho các năm 1914, 1915, và 1916 lần lượt vào khoảng 700, 1,100 và 1,600 tấn. Như trong trường hợp của quế, trị giá xuất cảng gia tăng trong năm 1916 là v́ có một sự thay đổi của trị giá quan thuế. Sản lượng năm 1917 có lẽ sẽ vượt quá sản lượng của năm 1916.
Sự Quảng Canh Cà Phê và Cao Su.
Cà phê và cao su, các sản phẩm đồn điền chính của Đông Dương thuộc Pháp, trước đây bị giới hạn vào Bắc Kỳ và miền bắc Trung Kỳ; nhưng gần đây, các đồn điền cao su của Nam Kỳ đă bắt đầu trồng cà phê trên một quy mô lớn hơn các đồn điền cà phê cỡ nhỏ của miền bắc và trong ít năm, Nam Kỳ có lẽ sẽ qua mặt Bắc Kỳ về sản lượng cà phê. Số thu hoạch năm 1916 của Bắc Kỳ và miền bắc Trung Kỳ phải gánh chịu sự khô hạn và vào khoảng cùng sản lượng của năm 1915, vốn độ 530 tấn. Số thu hoạch của Nam Kỳ lên tới khoảng 25 tấn trong năm 1916 so với 5 tấn trong năm 1915. Miền trung Trung Kỳ sản xuất khoảng 10 tấn hàng năm.
Các đồn điền cao su của Nam Kỳ thụ hưởng một mùa khá tốt trong năm 1916, nhưng phần nào phải gánh chịu nạn hạn hán vào lúc đầu năm. Số lượng sản xuất trong năm 1916 đă không đạt tới số gia tăng ước lượng là 100 phần trăm sản lượng của năm trước; nhưng sự cải thiện về phẩm chất và sự gia tăng giá cả giúp cho lợi nhuận lớn hơn hai lần so với năm 1915. Các điều kiện thời tiết trong năm 1917 cho đến nay thuận lợi hơn và sản phẩm được ước định ít nhất sẽ gấp đôi sản lượng của năm 1916. Cao su hoang dại, trước đây thu lượm được với sự phong phú đáng kể từ các khu rừng của Bắc Kỳ và Lào, không c̣n là một sản phẩm xuất cảng hàng đầu. [Xem báo cáo về cao su đồn điền và hoang dại tại Đông Dương thuộc Pháp, được ấn hành trong Các Báo Cáo Thương Mại ngày 6 Tháng Sáu, 1917.]
Các Sản Phẩm Quan Trọng
Về Dầu Thực Vật.
Phần lớn các đồn điền dầu sơn mài tại Bắc Kỳ nằm ở vùng phụ cận của Phú Thọ, giữa sông Hồng và sông Thương (Clear River) bên trên Việt Tŕ. Sản lượng cho các năm 1913, 1914, và 1915 lần lượt quăng 600, 800, và 1,600 tấn. Mặc dù con số chính xác không được cung ứng, điều được hay biết rằng số thu hoạch đă giảm sút lớn lao trong năm qua. Phần lớn sản phẩm này được xuất cảng sang Nhật Bản.
Vùng chung quanh Lạng Sơn gần biên giới Trung Hoa tại miền đông bắc Bắc Kỳ, với Tỉnh Trung Hoa kề cận, được nói là trung tâm chính yếu của sự sản xuất cánh hồi h́nh sao hay badian [tên gọi cánh hồi tại Ấn Độ và Pakistan, chú của người dịch] của thế giới, được chở sang Pháp và từ đó được tái xuất cảng hay sử dụng trong sự chế tạo rượu khổ ngăi (absinthe), rượu hồi hương (anisette), và một số hỗn hợp dược liệu nào đó. Điều được nghĩ rằng ngành này sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi lệnh cấm chế tạo và mua bán rượu khổ ngăi, nhưng các sự sử dụng khác được t́m thấy cho dầu thực vật.
Thầu dầu hay dầu xổ (castor), lạc (đậu phọng) và dừa là các sản phẩm quan trọng của quản hạt này. Giá cao của dầu hỏa và dầu nhờn (nhớt) đă kích thích sự chế tạo dầu thầu dầu và dầu lạc tại Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Dầu dừa có nhiều sự sử dụng, từ nấu ăn đến việc chế tạo xà pḥng và dầu chải tóc của dân bản xứ. Bồng Sơn, tại nam trung phần Trung Kỳ, đă là trung tâm chế tạo của nó, nhưng trong năm qua giá hạ của cùi dừa khô khiến cho nhiều dân bản xứ tại Mỹ Tho, Bến Tre, và các nơi kkác tại Nam Kỳ biến đổi sản phẩm đó thành dầu dừa.
Sự Phát Triển Của Ngành Chăn Nuôi Gia Súc –
Ḷ Mổ Mới
Chăn nuôi súc vật, như một công việc phụ của nông nghiệp, đáng có sự chú ư nhiều hơn những ǵ nó nhận được tại quản hạt này và đang có các dấu hiệu của sự quan tâm gia tăng. Đông Dương thuộc Pháp tọa lạc một cách thuận lợi để cung cấp cho ba thị trường lớn của Phương Đông – Phi Luật Tân, Hồng Kông và Singapore. Số xuất cảng heo thiến (hogs) từ Sàig̣n sang Singapore trong năm năm qua trung b́nh khoảng 40,000 con mỗi năm; ḅ và trâu nước (carabao) được gửi từ Pnompenh sang Phi Luật Tân trong năm 1914 và 1915 lần lượt lên đến con số 4,154 và 5,200 con.
Điều được ước lượng hiện có tại Đông Dương thuộc Pháp 3,200,000 ḅ và trâu nước và 2,700,000 heo thịt, và rằng dưới các điều kiện hiên nay, tỷ số xuất cảng hiện thời có thể được duy tŕ hay ngay cả gia tăng. Cho đến nay, việc chăn nuôi súc vật là một công việc bản xứ; nhưng sự tăng trưởng của các đồn điền cao su và cà phê của người Âu Châu đang đ̣i hỏi các đàn đông đảo súc vật tốt giống hơn. Một số ḅ Ấn Độ đă được du nhập vào Nam Kỳ, và Chính Quyền hồi gần đây đă thiết lập một trạm chăn nuôi tại một nông trại thử nghiệm tại phía nam trung phần Trung Kỳ nhắm vào sự sản xuất các súc vật mang lại thực phẩm và sữa tốt hơn. Trâu nước là con vật kéo lư tưởng cho loại đất ướt, nhưng thịt của nó th́ dai. Ḅ bản xứ th́ nhỏ và chỉ mang lại ít sữa hay không có sữa.
Một sự phát triển đáng chú ư khác trong năm 1916 là sự thiết lập tại Bến Thủy và Vinh miền bắc Trung Kỳ một ḷ sát sinh lớn và nhà máy đông lạnh với dịch vụ chở bằng tàu hơi nước thường xuyên đến Hồng Kông và Manila. Công ty này dự trù chi tiêu khoảng $125,000 cho các cơ sở sẽ mang lại một năng suất 250 tấn thịt. Một chủ tàu người Pháp tại Hồng Kông đă trù liệu dành cho dịch vụ này một chiếc tàu nhỏ, chiếc Cavanba, với khoang chở hàng hóa cho 125 tấn thịt đông lạnh. Đây sẽ là nỗ lực đầu tiên của Đông Dương để mổ các súc vật cung cấp thực phẩm mà từ lâu đă được chở sang Manila, Hồng Kông và Singapore.
Da Sống, Lụa, và Cá
Bị Ảnh Hưởng Bởi Chiến Tranh.
Mậu dịch da sống có lẽ đă gánh chịu ảnh hưởng từ các giá biểu chuyên chở gây ra bởi chiến tranh Âu Châu nhiều hơn bất kỳ sản phẩm nào khác của Đông Dương thuộc Pháp. Sự sụt giảm ghi nhận trong báo cáo năm vừa qua c̣n lớn hơn nữa trong năm 1916. Gần như tất cả các nhà xuất cảng Âu Châu đều đă ngưng giao dịch về da sống, v́ thế chỉ có hàng da thuộc và một ít hàng của Trung Hoa là có mặt trên thị trường.
Mậu dịch hàng lụa cũng bị ảnh hưởng bởi chiến tranh và bởi các trận lụt tại Bắc Kỳ trong năm 1915. Sản lượng ổ kén tằm tại Bắc Kỳ ít hơn b́nh thường một cách đáng kể, nhưng tại Trung Kỳ lại nhiều hơn b́nh thường một chút.
Cá và các sản phẩm của cá cấu thành, sau gạo, sản phẩm quan trọng nhất của Đông Dương. Ngành này, hoàn toàn bị kiểm soát bởi người Trung Hoa, gặp trở ngại trong năm 1916 bởi các giá biểu chuyên chở lên cao và thiếu số trọng tải.
Các Nhà Máy Xay Lúa,
Các Nhà Máy Cất Rượu và Sản Xuất Thức Uống
Hoạt Động Tích Cực.
Các nhà máy xay lúa bận rộn trong năm 1916. 10 nhà máy xay lúa tại Chợ Lớn, gần Sàig̣n, đều hoạt động và và sản xuất 1,250,000 tấn gạo, gia tăng 15 phần trăm so với sản lượng của năm 1915 và gần bằng với sản lượng của năm 1914. Ba nhà máy xay lúa nhỏ tại Hải Pḥng ít bân rộn hơn, bởi số thu hoạch ít hơn và có nhiều hoạt động hơn của các nhà máy cất rượu từ gạo. Sản lượng của chúng chỉ vào khoảng 100,000 tấn trong năm 1916, so với 200,000 tấn trong năm 1915. Một số lượng gia tăng thường trực các nhà máy xay gạo tại nhiều nơi khác nhau của Nam Kỳ chà xát lúa cho sự tiêu thụ địa phương.
Vào lúc khởi đầu của năm 1917, các triển vọng th́ tốt cho ngành xay gạo của Chợ Lớn. Trị giá vào khoảng $400,000 đến $500,000 đồng lúa c̣n lại của năm vừa qua, và của vụ thu hoạch được gặt hái khi đó trị giá vào khoảng $1,400,000 sẽ được cung ứng cho sự xuất cảng. Các nhà máy xay lúa th́ tích cực và giá cả th́ tốt. Sự xuất cảng gạo từ Sàig̣n trong hai tháng đầu tiên của năm 1917 nhiều hơn 20 phần trăm so với thời khoảng tương ứng của năm 1915. Các giá biểu chuyên chở lên cao và việc thiếu trọng tải sẽ sớm được cảm nhận, và trong Tháng Ba hơn một nửa các nhà máy xay gạo của Chợ Lớn bị đóng cửa và số c̣n lại hoạt động chính yếu cho trương mục của Chính Quyền. Giá gạo chở bằng tàu giảm từ $3.50 đồng mỗi tạ 60.7 kí-lô vào ngày 1 Tháng Một, 1917 xuống c̣n $2.75 đồng mỗi tạ vào ngày 1 Tháng Ba, và các sự vận tải thực sự bị đ́nh chỉ bởi thiếu chỗ chở hàng.
Bốn nhà máy lớn của Công Ty Cất Rượu Của Pháp Tại Đông Dương (La Société Française des Distilleries de l’Indochine) hoạt động ngày đêm trong thực tế toàn thể năm qua để cung cấp rượu cho các xưởng đạn dược của mẫu quốc. Với các nhà máy lớn hơn chở hàng của chúng sang Pháp, các nhà máy cất rượu nhỏ hơn rất bận rộn để cung cấp cho mậu dịch địa phương. Tổng số sản lượng của các nhà máy cất rượu của Đông Dương lên tới gần 2,000,000 gallons [1 gallon = 3,78 lit tại Mỹ, chú của người dịch] rượu nguyên chất, trị giá khoảng $8,000,000, gia tăng 100 phần trăm so với các số kỷ lục của năm 1915.
Các nhà máy sản xuất thức uống của Chợ Lớn và Hà Nội thụ hưởng một năm rất tốt đẹp. Sự cạnh tranh của Âu Châu thực tế đă bị ngừng lại, và các thương nghiệp địa phương chia nhau thị trường Đông Dương thuộc Pháp.
Các Nhà Máy Dệt – Sản Xuất Bông Vải
Hoạt Động Bận Rộn.
Ngành dệt của Đông Dương thuộc Pháp bao gồm sự chế tạo sợi và vải bằng bông và lụa cùng sự sản xuất thảm và vật liệu làm thảm. Ba nhà máy se bông vải của Công Ty Bông Vải Bắc Kỳ (La Société Cotonnière du Tonkin) đă bận rộn suốt năm để cung cấp cho nhu cầu địa phương và cung cấp len cho xưởng dệt quần áo của cùng công ty tại Nam Định, hoạt động theo khế ước của chính phủ. Trị giá sản phẩm năm 1916 của các nhà máy này lớn hơn một cách đáng kể so với sản lượng của năm 1915, vốn đă qua mặt tất cả các năm trước đó.
Usine de Nam Dinh vue du Boulevard Armand Rousseau – Photo non datée (Début 1900?)
Nhà máy Nam Định, nh́n từ Đại Lộ Armand Rousseau, không ghi ngày (Đầu 1900?)
Ngành lụa không được may mắn như thế. Sự thiệt hại của các nhà máy dâu tằm và kén tơ bởi các trận lut năm 1915 và việc mất thị trường Âu Châu về tơ sống đă ảnh hưởng nghiêm trọng đến các nhà máy se lụa Bắc Kỳ. Các xưởng sản xuất hàng lụa của Nam Định và Quy Nhơn đă bất động, hầu như suốt năm.
Sự chế tạo thảm Bắc Kỳ đă sụt giảm trong vài năm gần đây. Tại phần đất Bảo Hộ này cũng như tại Nam Kỳ, phần lớn hơn của sản phẩm của lau sậy được xuất cảng như vật liệu làm thảm hay như các chất sợi (fibers).
Da Thuộc, Giấy, và Các Chế Tạo Phẩm Khác.
Giá thấp của da sống đă trợ lực cho các nhà máy thuộc da của Trung Hoa tại Hải Pḥng và Chợ Lớn và phần lớn các sản phẩm của chúng được xuất cảng từ Hải Pḥng và Saig̣n là các chuyến hàng da đă thuộc hay nấu đến Trung Hoa. Nhà máy của Công Ty Da Thuộc Đông Dương (La Société des Tanneries de l’Indochine) tại Hà Nội, giờ đây được mở rộng với sự bổ túc một xưởng đóng giầy và giầy cao cổ, đă gia tăng lớn lao sản lượng của nó trong năm 1916.
Máy nhà giấy tại Đáp Cầu cung cấp cho thị trường địa phương. Nhà máy bột giấy tại Việt Tŕ vẫn c̣n bất động.
Các xưởng xà pḥng và dầu thực vật tại Hải Pḥng và Sàig̣n đă có một năm phát đạt nhờ sự gỡ bỏ sự cạnh tranh của Âu Châu khỏi thị trường xà pḥng, giá thấp của cùi dừa khô, và số cầu gia tăng về dầu thực vật.
Sản lượng của các xưởng albumen (phôi nhũ) tại Huế và Qui Nhơn phần nào ít hơn sản lượng của năm 1915 bởi việc mất thị trường, giá biểu chuyên chở lên cao và thiếu trọng tải.
Ba nhà máy diêm của Bắc Kỳ và miền bắc Trung Kỳ, trong thực tế, chiếm giữ mậu dịch địa phương, đă có một năm tốt đẹp thường lệ của chúng trong năm 1916. [Xem Các Báo Cáo Thương Mại, ngày 17 Tháng Tám, 1916.] Các nhà máy cưa và các xưởng làm đồ gỗ bị trở ngại đôi chút bởi các giá biểu chuyên chở lên cao và thiếu công việc xây cất trong nước. Sản lượng của nhà máy gỗ teak gần Sàig̣n phần nào nhiều hơn sản lượng của năm 1915, vốn đă là một năm phá kỷ lục. Mặt khác, xưởng cưa gỗ lớn gần Pnompenh gần như bất động, chính yếu bởi các sự sửa chữa và sự động viên vào quân đội các nhân viên điều hành gốc Âu Châu.
[Muốn có một cuộc khảo sát sâu rộng hơn về các ngành kỹ nghệ của Đông Dương thuộc Pháp, xem phần Bổ Túc Các Báo Cáo Thương Mại, Số 54a, ấn hành hôm 16 Tháng Mười, 1916.]
Bích Chương Quảng Cáo Diêm
Khoáng Sản Gia Tăng
Bích Chương Quảng Cáo Than Đá Đông Dương
Sản lượng hầm mỏ năm 1916 th́ lớn hơn sản lượng của năm trước. Bắc Kỳ là khu hầm mỏ của Đông Dương thuộc Pháp, và trong năm 1916 khoáng sản đă giữ vị trí hàng đầu trong số xuất cảng từ Hải Pḥng. Than đá là khoáng sản chính yếu của Đông Dương và sản lượng năm 1916 là 800,000 tấn, gia tăng hơn 200,000 tấn so với năm 1915. Một số lượng lớn lao bất thường được tiêu thụ tại Bắc Kỳ và tại các phần khác của thuộc địa. Sản lượng kẽm nhiều hơn năm 1915 từ 10 đến 15 phần trăm; chất antimony [khoáng chất kim loại màu xám, được dùng trong các hợp kim và dược phẩm, kư hiệu hóa học là Sb, chú của người dịch], nhiều hơn từ 20 đến 30 phần trăm; thiếc và wolfram [tên gọi khác của chất tungsten, dùng làm tim bóng đèn điện, chú của người dịch] hơi ít hơn; Một mỏ nhỏ, Bồng Miêu, tại miền trung Trung Kỳ, sản xuất hàng năm trị giá từ $50,000 đến $100,000 vàng và bạc.
[Về ngành hầm mỏ của Đông Dương, xem các báo cáo được ấn hành trong Các Báo Cáo Thương Mại về các mỏ kẽm tại Bắc Kỳ, ngày 30 Tháng Chín, 1916; sự sản xuất vàng và bạc tại Trung Kỳ, 28 Tháng Chin, 1916; thiếc và chất wolfram tại Bắc Kỳ, 12 Tháng Mười Hai, 1916; và các mỏ than đá của Bắc Kỳ, 14 Tháng Tư, 1917.]
Ngoại Thương
Ngoại thương của Đông Dương thuộc Pháp th́ b́nh thường trong năm 1916. Mặc dù các thống kê chính xác không được cung ứng, có lẽ số xuất cảng vẫn giữ cùng khối lượng, nhưng đă gia tăng khoảng $1,000,000 trong trị giá quan thuế, tạo thành một trị giá kỷ lục hơn $57,000,000 . Trị giá quan thuế các hàng nhập cảng có thể nhiều hơn trị giá của năm 1915 khoảng $3,500,000, nhưng ít hơn năm 1914 một cách đáng kể. Một sự ước lượng dè dặt trị giá hàng nhập cảng của năm 1916 là $34,600,000, so với $31,284,000 cho năm 1915, và $40,675,000 cho năm 1914.
Các số xuất cảng từ Sàig̣n đă gia tăng gần $3,000,000 so với năm 1915, nhưng phần nào kém hơn năm 1913 và 1914. Sự gia tăng này nhiều phần là v́ trị giá tăng cao của các sự xuất cảng gạo, mặc dù các chuyến chỏ bông vải và cao su có gia tăng một cách mạnh mẽ. Cá, da sống, hạt tiêu, cùi dừa khô, và các hàng xuất cảng khác từ Sàig̣n cho thấy một sự sút giảm rơ rệt so với năm trước.
Trị giá gia tăng các hàng xuất cảng từ Sàig̣n đă gần như bị bù trừ bởi một sự sút giảm gần $2,500,000 tại Hải Pḥng. Gạo không thôi cho thấy một sự sụt giảm không đủ để bao hàm ngạch số này; các sản phẩm khác, đặc biệt là ngô, cũng sụt giảm. Ngược lại, số xuất cảng các khoáng sản, xi măng, vải cuộn, và rượu trắng đă gia tăng một cách đáng kể.
Trị giá các hàng xuất cảng từ Đà Nẵng gia tăng khoảng $600,000, là con số lớn nhất chưa từng ghi nhận được tại hải cảng đó. Số gia tăng gần như hoàn toàn nằm nơi quế và đường, các mặt hàng cho sự tiêu thụ và xuất cảng sang Trung Hoa, và chính yếu do sự thay đổi trong trị giá quan thuế. Các số xuất cảng từ Pnompenh khoảng giống như các số xuất cảng của năm 1915.
Các Số Xuất Cảng Gạo Duy Tŕ Mức Độ Cao –
Ngô Và Sắn Bị Sụt Giảm.
Trị giá của gạo và thóc chở đi từ tất cả các hải cảng của Đông Dương thuộc Pháp trong năm 1916 là $36,000,000, tương đương với tổng số của năm 1915, và kém hơn năm 1914 khoảng $700,000. Tuy nhiên, trị giá này vượt xa mức trung b́nh và lớn hơn trị giá của bất kỳ năm trước nào cho tới 1914. Sàig̣n sẽ có trị giá khoảng $55,000,000 số gạo khả cung cho các sự xuất cảng trong năm 1917, và Bắc Kỳ cung ứng ít nhất $6,000,000, nhưng các khó khăn vận tải đang can thiệp một cách nghiêm trọng cho các chuyến chở hàng.
Các số xuất cảng ngô từ Đông Dương đă sụt giảm trong trị giá từ $2,300,000 trong năm 1914 xuống c̣n $1,460,000 trong năm 1915, và c̣n khoảng $900,000 trong năm 1916. Sự sụt giảm chính yếu từ Hải Pḥng, nơi sự suy giảm là từ $1,350,000 trong năm 1914 và gần $600,000 trong năm 1915 xuống ít hơn $100,000 trong năm 1916. Các số xuất cảng [ngô] từ Đà Nẵng đă sụt giảm từ $232,600 trong năm 1914 xuống $114,000 năm 1915 và c̣n khoảng $60,000 trong năm 1916. Các số xuất cảng từ Saig̣n cho ba năm này lần lượt là $716,500, $648,000, và khoảng $757,000.
Số xuất cảng sắn từ Đà Nẵng sang Pháp, có trị giá lên tới khoảng $120,000 trong năm 1914 và $24,000 trong năm 1915, tụt xuống c̣n khoảng $2,000 năm 1916. Các giá biểu chuyên chở lên cao và sự tŕ hoăn lâu dài đă gây ra một sự tạm đ́nh chỉ mậu dịch này.
Đường, xuất cảng từ Đà Nẵng, trước đây bị kiểm soát bởi người Trung Hoa, và được chở tới Hồng Kông và Trung Hoa. Trong năm 1916, trị giá khoảng $235,000 đường Trung Kỳ đă được gửi sang Pháp. Trị giá xuất cảng đường trong các năm 1914, 1915, và 1916 lần lượt là $153,400, $250,000, và khoảng $475,000.
Các Số Xuất Cảng Cao Su,
Trà, Cà Phê và Hạt Tiêu.
Số xuất cảng cao su, trà, và cà phê cho thấy một sự phát triển dần dần các đồn điền của vùng đất này. Các chuyến hàng cao su đồn điền đă gia tăng từ $152,000 trong năm 1914 lên $310,000 tnăm 1915 và khoảng $650,000 năm 1916, trong thực tế tất cả đều xuất từ Sàig̣n.
Trị giá số xuất cảng trà, tính tṛn các con số, là $165,000 năm 1914, $325,000 năm 1915, và khoảng $360,000 năm 1916. Sự gia tăng trong trị giá quan thuế trong năm qua có tính chất tài định, số lượng cho thấy một sự sụt giảm nhẹ.
Các thống kê về sự xuất cảng cà phê trong năm 1916 chưa được cung ứng; các con số của năm 1914 và 1915 lần lượt là $94,000 và $140,000. Các con số năm 1916 có lẽ sẽ lớn hơn một chút so với con số của năm 1915. Gần như tất cả cà phê đều được xuất cảng từ Hải Pḥng, nhưng trong năm vừa qua, một số được chở tàu từ Saig̣n.
Các số xuất cảng hạt tiêu của Căm Bốt từ Sàig̣n là $564,000 trong năm 1914, $749,000 năm 1915, và khoảng $560,000 năm 1916.
Sự Suy Giảm Tổng Quát Trong Lâm Sản
Đă có một sự suy giảm tổng quát trong các chuyến chở sản phẩm lâm nghiệp và các đồn bản xứ, đặc biệt sơn (cánh kiến đỏ), nhựa cây, và cao su hoang dại, vốn được xuất cảng bởi các nhà buôn Âu Châu. Các nguyên do là v́ thị trường Âu Châu xáo trộn và các hoạt động sụt giảm của các nhà xuất cảng Âu Châu tại Đông Dương.
Quế, bạch đậu khấu (cardamom), và cunao [? củ nâu], được xuất cảng bởi người Trung Hoa, chỉ bị ảnh hưởng bởi t́nh h́nh Âu Châu một cách gián tiếp xuyên qua các giá biểu chuyên chở tăng cao, các sự tŕ hoăn, và thiếu các cơ sở hải vận. Mậu dịch quế phát triển, mặc dù sự phát đạt bất thường của nó trong năm 1916 có phần bề ngoài nhiều hơn thực chất. Các số xuất cảng quế hoang dại và đồn điền đang sút giảm.
Hạt bạch đấu khấu từ các khu rừng của Căm Bốt, Lào, và thượng du Bắc Kỳ được chở sang Trung Hoa, nơi chúng được sử dụng cho mục đích y khoa. Trị giá xuất cảng của sản vật này là $101,363 trong năm 1914 và $190,700 năm 1915. Các con số không được cung ứng cho năm 1916, nhưng chúng sẽ không khác biệt lớn lao so với các con số của năm trước. Phần lớn hạt bạch đậu khấu được xuất đi từ Sàig̣n, và từ 25 đến 40 phần trăm từ Hải Pḥng.
Củ nâu [?], từ Bắc Kỳ và Vân Nam, là chất nhuộm màu được dùng cho quần áo màu nâu đậm được mặc bởi dân bản xứ tại khu vực châu thổ Bắc Kỳ và được chuyên chở bởi người Trung Hoa đến Hồng Kông, từ đó nó được chuyển tới các nhà máy sản xuất lụa của Quảng Châu (Canton). Các số xuất cảng là $154,600 trong năm 1914 và $143,000 trong năm 1915; các con số cho năm 1916 chưa được cung ứng, nhưng sẽ không biến đổi mấy so với các năm trước.
Cùi dừa khô một phần tự nhiên và một phần là một sản phẩm do trồng trọt lệ thuộc vào một thị trường Âu Châu. Trị giá xuất cảng cho các năm 1914, 1915, và 1916 lần lượt là $487,100, $455,000, và khoảng $350,000. Việc mất thị trường, các giá biểu chuyên chở lên cao, và thiếu trọng tải vận chuyển là nguyên do cho sự suy giảm này.
Số xuất cảng giảm sút về cao su hoang dại, nhựa cây, và sơn trong ít năm qua th́ rơ rệt trong thương mại của Đông Dương thuộc Pháp. Các con số cho cao su hoang dại là $175,700 năm 1912, $107,655 năm 1913, $11,764 năm 1914, $5,711 năm 1915, và thực sự là số không năm 1916. Sản lượng chất benzoin, hay nhựa Benjamin, sụt giảm từ 134 tấn, trị giá $40,000 năm 1913 xuống c̣n 16 tấn, trị giá $5,000 năm 1914; kể từ đó là số 0. Sơn và bút (que) sơn (stick lac), số xuất cảng lên tới hơn $200,000 năm 1908, tụt từ 807 tấn, trị giá $125,000 năm 1913, xuống 235 tấn, trị giá $35,000, trong năm 1914 và 100 tấn, trị giá $15,000 năm 1915.
Dầu sơn mài được sản xuất tại các đồn điền bản xứ ở Bắc Kỳ, nơi cây sơn được trồng và lấy nhựa gần như cùng cung cách đối với cao su đồn điền tại Nam Kỳ. Trong 10 năm qua, số xuất cảng trung b́nh từ 400 đến 500 tấn, trị giá từ $60,000 đến $90,000; trong năm 1915, là 1,518 tấn, trị giá $264,000; trong năm 1916, nhiều hơn 300 tấn một chút, trị giá $55,000.
Các lâm sản khác xuất cảng từ Đông Dương là gỗ làm nhà, chính yếu là gỗ teak, từ Sàig̣n, trị giá từ $125,000 đến $150,000 mỗi năm; các sản phẩm bằng gỗ, có khoảng cùng trị giá; mây, $100,000, và một số lượng ít hơn về tre, được chở từ Hải Pḥng và Đà Nẵng; và các vị thuốc y khoa, $120,000.
Dầu Thực Vật B́nh Thường –
Hạt Mè (Vừng) Cho Thấy Gia Tăng.
Số xuất cảng badian, hay dầu cánh hồi, trong thập niên qua nói chung từ 40 tấn đến 100 tấn về khối lượng và từ $90,000 đến $215,000 về trị giá. Trong năm 1913, đă có một sự tăng trọng lên 230 tấn, trị giá gần $500,000. Các số xuất cảng cho các năm 1914, 1915, và 1916 lần lượt là 48, 74, và quăng 50 tấn, trị giá $113,800, $158,450, và độ $125,000.
Bởi có nhu cầu địa phương gia tăng về dầu thầu dầu và dầu lạc (đậu phọng) trong hai năm vừa qua, các số xuất cảng đă sụt giảm. Trong các năm 1912, 1913, 1914, và 1915, Hải Pḥng đă xuất cảng 394, 593, 900, và 499 tấn dầu thầu dầu, trị giá $39,000, $59,000, $87,000, và $47,000. Các chuyến hàng cho năm 1916 có lẽ sẽ không vượt quá các con số năm 1915. Một số lượng nhỏ hạt dầu thầu dầu (castor beans) được chở đi từ Đà Nẵng. Số xuất cảng dầu lạc, phần lớn từ Qui Nhơn, trong khoảng từ $20,000 đến $40,000; kể từ 1914, nó gần con số thấp hơn. Trị giá đậu phọng từ $15,000 đến $30,000 đă được xuất cảng mỗi năm từ Hải Pḥng, Qui Nhơn, và Sàig̣n.
Đă có một sự gia tăng thường trực trong số xuất cảng hạt vừng (mè) – 860 tấn, $43,000, trong năm 1912; 1,200 tấn, $60,200, năm 1913; 1,600 tấn, $79,500, năm 1914; và 3,020 tấn, $150,700, năm 1915, với một sự ước lượng gia tăng cho năm 1916. Sản phẩm này được xuất đi từ Hải Pḥng và các hải cảng khác của Đông Dương.
Các Số Xuất Cảng Giảm Sút Về Gia Súc Sống,
Các Súc Sản, và Cá.
Số xuất cảng da sống và da thuộc giảm từ khoảng $2,140,000 năm 1915 xuống khoảng $1,350,000 năm 1916, số thấp nhất kể từ 1908. Sự giảm sụt chính yếu từ Sàig̣n, từ $1,441,500 xuống c̣n $819,500; giảm 30 phần trăm tại Hải Pḥng và ít hơn từ Đà Nẵng.
Các giá biểu chuyên chở tăng cao và thiếu chồ dành cho hàng hóa khiến cho các chuyến hàng chở lợn thịt từ Hồng Kông đến Singapore giảm từ $319,000 năm 1915 xuống $261,000 năm 1916; nhưng từ Đà Nẵng, các chuyến hàng đă gia tăng từ $4,300 lên $42,000, và các chuyến hàng mỡ động vật từ ít hơn $600 lên gần $20,000. Số xuất cảng ḅ và trâu nước từ Pnompenh sang Phi Luật Tân, vốn vào khoảng $200,000 năm 1915, có lẽ đă giảm sụt đôi chút trong năm 1916 v́ thiếu trọng tải vận chuyển.
Sự sụt giảm trong các số xuất cảng cá, từ gần $3,500,000 xuống ít hơn $3,000,000, là do t́nh trạng chiến tranh. Cá và các sản phẩm từ cá được xuất từ Sàig̣n và các hải cảng khác. Số xuất cảng vỏ (mu) rùa từ Sàig̣n lên đến $248,750 năm 1915 và khoảng tương đương với các con số này trong năm 1916.
Vải Cuộn Gia Tăng – Lụa và Chiếu Cói Sút Giảm.
Các chuyến hàng vải cuộn, hay len, đă gia tăng từ ít hơn $700,000 trong năm 1915 lên gần $1,000,000 năm 1916. Phần lớn số này được chở sang Vân Nam. Một số được nhập cảng vào Hải Pḥng và được tái xuất cảng, nhưng phần lớn được sản xuất tại các nhà máy bông vải tại Bắc Kỳ.
Các số xuất cảng lụa sống và các sản phẩm từ lụa sụt giảm từ $378,250 năm 1915 xuống khoảng $200,000 năm 1916; tại Hải Pḥng, từ $225,000 xuống khoảng $36,000. Các chuyến hàng từ Đà Nẵng và Qui Nhơn đă gia tăng từ $115,400 lên $136,550. Sản lượng nhiễu lụa và lụa mộc (pongee) của nhà máy Qui Nhơn đă tăng từ $10,400 lên $64,000.
Số xuất cảng thảm và chiếu rơm của Bắc Kỳ, trước đây từ $300,000 đến $450,000, đă giảm xuống quăng $100,000.
Khối Lượng Lớn Hơn Các Khoáng Sản
Năm 1916 thuận lợi cho ngành khai mỏ của Bắc Kỳ. Bất kể một sự tiêu thụ địa phương gia tăng, số xuất cảng than đá có lẽ ngang bằng với các con số năm 1915 – độ $1,850,000. Than đá hiện giờ chiếm hàng thứ ba trị giá hàng xuất cảng từ Đông Dương, đă qua mặt ngô trong năm 1914 và da so6ng’ cùng da thuo6.c trong năm 1915.
Trị giá số xuất cảng kẽm từ $463,000 năm 1914 và $836,500 năm 1915 lên khoảng $1,000,000 năm 1916. Kẽm đang gia tăng tầm quan trọng trong số xuất cảng từ lănh địa này. Trong năm 1916, phần lớn kẽm xuất sang Nhật Bản. Quàng 12,125 tấn đă được xuất sang Hoa Kỳ.
Các số xuất cảng xi-măng, lên đến $174,000 năm 1914 và $614,000 năm 1915, có lẽ đă vượt quá $750,000 năm 1916.
Khó để ước lượng trị giá quặng thiếc và tungsten được chở đi từ Sàig̣n. Các con số quan thuế đưa ra số lượng xuất cảng các năm 1914, 1915, và 1916 lần lượt là 216, 397, và 331 tấn. Ngay dù các con số này là xác thực, trị giá xuất cảng không thể tính toán một cách chính xác bởi phẩm chất biến đổi của quặng. Trị giá quan thuế của quặng này được định là 600 Phật lăng một tấn – rất thấp so với giá hiện tại của kim loại này. Có lẽ $175,000 sẽ là một số ước lượng hợp lư của trị giá thị trường trong năm 1916.
Khối lượng chấ antimony đă xuất cảng trong năm 1916 là 785 tấn, so với 630 tấn trong năm 1915 và 883 tấn năm 1914. Trị giá quan thuế năm 1916 vào khoảng $30,000.
Muối, cùng quặng vàng và bạc được xuất cảng từ Đà Nẵng. Trị giá các chuyến hàng muối sụt giảm từ $93,460 năm 1915 xuống c̣n $59,393 năm 1916. Số xuất cảng quặng vàng và bạc hàng năm lên tới quàng từ $50,000 đến $100,000.
Các Số Nhập Cảng Hàng Dệt – Bông Sống.
Các số thống kê nhập cảng duy nhất cho năm 1916 đă xuất hiện cho một số mặt hàng nào đó trong ba quư đầu tiên của năm. Các con số này cho thấy một sự gia tăng rơ rệt trong trị giá các tấm hàng dệt và các cuộn vải hay len. Các tấm hàng vải đứng đầu các hàng nhập cảng khác của Đông Dương thuộc Pháp. Trong các năm 1913, 1914, và 1915, trị giá của chúng lần lượt là $7,083,000, $5,359,000, và $3,142,800. Tổng số năm 1916 sẽ vào khoảng các con số của năm 1913. Một sự thay đổi trong các trị giá quan thuế của hàng bông vải là nguyên do cho phần lớn sự gia tăng này, nhưng khối lượng các số nhập cảng này của năm 1916 th́ nhiều hơn năm 1915 và ít nhất có lẽ bằng với năm 1914. Số hàng thời trước chiến tranh đă bán hết và doanh nghiệp đang bắt đầu tự thích nghi với t́nh trạng mới. Phần lớn hàng bông vải có nguồn gốc từ Anh Quốc. Lần đầu tiên trong nhiều năm, một số lượng nhỏ sản phẩm của Mỹ đă xuất hiện tại thị trường này trong năm 1916.
Hàng lụa thường đứng hàng thứ nh́ sau hàng bông vải trong các số nhập cảng của lănh địa này; trong suốt ba năm qua, trị giá của chúng không thay đổi nhiều từ $2,400,000 và gần ngạch số này cho năm 1916. Phần lớn trong chúng là các tấm hàng lụa có nguyên gốc của Trung Hoa.
Số nhập cảng len cuộn lên tới $900,000 trong năm 1913, $1,136,000 năm 1914, và $1,482,800 năm 1915. Trong năm 1916, trị giá vào khoảng trị giá năm 1915, nhưng khối lượng ít hơn. Sản phẩm này chính yếu đến từ Pondicherry, và một số được tái xuất cảng sang Vân Nam.
Một sự gia tăng gây ngạc nhiên nhất là số nhập cảng bông sống, vốn có trị giá giảm từ $895,000 năm 1913 xuống c̣n $715,000 năm 1914 và $490,000 năm 1915; tổng số năm 1916 là gần $1,700,000. Sự gia tăng này một phần là v́ có sự thay đổi trong trị giá quan thuế, tăng gần 100 phần trăm, nhưng khối lượng bằng khoảng khối lượng của năm 1913. Bông vải chính yếu nhập từ Ấn Dộ và được dùng bởi các nhà máy bông vải tại Bắc Kỳ.
Bao (Bị, Túi) Đay và Vàng Lá
Phản Ảnh Sự Thịnh Vượng –
Thị Trường Độc Quyền Thuốc Phiện
Sự nhập cảng các bao (bị. túi) đay và vàng lá là một thước đo sự thịnh vượng bản địa của Đông Dương. Một cách tổng quát, sự nhập cảng các bao đay thay đổi theo sự xuất cảng gạo; các số xuất cảng mạnh mẽ của hai năm qua và triển vọng một số thu hoạch tốt trong vụ mùa 1916-1917 đă dẫn đến một sự gia tăng lớn lao trong năm 1915. Các số nhập cảng các bao đay trong các năm 1913, 1914, và 1915 lần lượt là $2,140,000, $3,200,000, và $1,673,000; các con số năm 1916 tương đương với các con số của năm 1914. Phần lớn các bao đay này, từ Calcutta, được nhập vào Saig̣n.
Vàng lá được nhập cảng từ Hồng Kông và Trung Hoa và được chế tạo thành nhiều mặt hàng trang sức khác nhau, là h́nh thức chính yếu trong tài sản cá nhân của dân bản xứ, và ngạch số nhập cảng là một chỉ số về măi lực địa phương trong năm. Các biên nhận cho các năm 1913, 1914, và 1915 lần lượt là $1,637,500, $1,360,000, và $1,205,000; trong năm 1916, vào khoảng $1,300,000.
Sự nhập cảng, điều chế, và rao bán thuốc phiện là một độc quyền của Chính Quyền. Khối lượng nhận được biến đổi lớn lao; trong các năm thuận lợi, nói chung vào khoảng $1,300,000. Các con số cho năm 1916 chưa được cung ứng.
Dầu Hỏa, Giấy, Đồ Sứ, và Đồ Thủy Tinh.
Trị giá quan thuế của dầu hỏa được nâng cao khoảng 150 phần trăm trong năm qua và trị giá số nhập cảng sản phẩm này bằng $1,205,000, $1,050,000, và $1,000,000 lần lượt trong các năm 1913, 1914, và 1915, đă lên tới $1,800,000 trong năm 1916. Số nhập cảng thực sự sản phẩm này ít hơn nhiều trong vài năm [trước đây].
Mậu dịch giấy phô bày một sự gia tăng nhỏ trong cả trị giá lẫn số lượng. Trị giá vào quăng $1,700,000 trong năm 1916, so với $1,600,000 năm 1915, $1,500,000 trong năm 1914 và $1,709,000 năm 1913. [Về loại giấy nhập cảng, xem báo cáo về mậu dịch giấy và sản phẩm từ giấy tại Đông Dương thuộc Pháp trong Các Báo Cáo Thương Mại ngày 11 Tháng Tám, 1916.]
Đồ sứ và đồ gốm nhập cảng, trị giá gần $1,600,000 năm 1913, và $1,200,000 cho các năm 1914 và 1915, có lẽ sẽ ít hơn $1,000,000 trong năm 1916, bao gồm phần lớn các đồ sứ có trang trí của Trung Hoa và Nhật Bản.
Đồ thủy tinh các loại, kể cả các chai lọ và đèn nhiệt quang (incandescent) đă hạ xuống $226,000 năm 1915, lại tăng trong năm 1916 tới khoảng $460,000, tương đương với các con số của các năm 1913 và 1914. Tuy nhiên, sự gia tăng nhiều phần là do sự gia tăng tài định trong các trị giá quan thuế của các mặt hàng này.
Các Số Nhập Cảng Sắt và
Thép B́nh Thường Trở Lại –
Đồ Kim Khí Nặng và Máy Móc.
Trị gia tăng cao của các sản phẩm sắt và thép nhập cảng trong năm 1916 một phần là v́ có sự thay đổi tài định trong các giá trị quan thuế, nhưng chính yếu là do các sự điều chỉnh với t́nh h́nh mới. Các số nhập cảng của các sản phẩm này đột nhiên ngưng lại vào lúc khởi đầu chiến tranh. Đă có sự ngần ngại và khó khăn trong việc thiết lập các quan hệ mậu dịch mới, và các sự tŕ hoăn bất thường trong việc cung cấp theo các lệnh mua hàng đă đặt. Gần như tất cả số nhập cảng sắt và thép năm 1915 bao gồm số hàng có trong tay tại các hải cảng lân cận ở Singapore và Hồng Kông, nhưng các đơn mua hàng năm 1915 đă bắt đầu nhập bến trong năm 1916 và hiện giờ là một mậu dịch ổn định, được hạn chế vào các nhu cầu tuyệt đối của thị trường, theo các điều kiện mới về giá cả và các điều khoản giao dịch.
Mậu dịch đồ nặng bằng kim khí của Đông Dương lên tới khoảng $1,724,000 năm 1913, $1,640,000 năm 1914, $930,000 năm 1915, và có lẽ $1,400,000 năm 1916. Tương tự, số nhập cảng máy móc, trung b́nh khoảng $900,000 năm 1913 và 1914, và đă giảm xuống ít hơn $400,000 trong năm 1915, lại tăng tới quăng $1,000,000 năm 1916. Các số nhập cảng sắt và thép là $1,038,000 năm 1913, $633,000 năm 1914, $505,600 năm 1915, và độ $1,000,000 năm 1916. Phần lớn đồ kim khí nặng và sắt và thép có nguồn gốc Mỹ, được nhập cảng qua ngả Hồng Kông.
Số Nhập Cảng Sụt Giảm về Rượu Vang,
Thuốc Lá, và Thực Phẩm.
Quảng Cáo Thuốc Lá
Số tiêu thụ rượu vang (rượu nho), thuốc lá, x́ gà, và thuốc lá điếu đă sụt giảm do hậu quả của nền kinh tế chiến tranh và thuộc địa Âu Châu bị cắt giảm. Sự khó khăn trong việc tiếp nhận đồ tiếp liệu từ Âu Châu và hoạt động gia tăng của các nhà máy sản xuất thức uống và các cơ xưởng thuốc lá địa phương đă hạn chế sự nhập cảng các mặt hàng này. Trị giá rượu vang và rượu mạnh nhập cảng là $1,400,000 năm 1913, $1,030,000 năm 1914, $830,000 năm 1915, và quăng $650,000 năm 1916; thuốc lá mọi loại nhập cảng, $800,000 năm 1913, $1,000,000 năm 1914, $660,000 năm 1915, và độ $650,000 năm 1916.
Tuy nhiên, dân bản xứ sẽ không từ bỏ các xa xỉ phẩm của ḿnh bởi các t́nh trạnh xáo trộn tại Âu Châu. Thói quen vững chắc nhất của người đó là nhai “trầu”, bao gồm một miếng hạt cau, cuốn trong lá trầu, tẩm ướt bằng chất vôi mịn, và pha màu đỏ son. Mặc dù cây cau được trồng khắp miền nam Đông Dương, nhu cầu th́ quá lớn đến nỗi hạt cau được nhập cảng với số lượng lớn lao từ Singapore, trị giá tới $876,000 năm 1913, $641,500 năm 1914, $658,500 năm 1915, và hơn $1,000,000 năm 1916.
Như một quy luật, các số nhập cảng thực phẩm đă sụt giảm với dân số Âu Châu ít đi, nhưng bột ḿ, hạ từ $950,000 năm 1913 xuống c̣n $673,000 năm 1914 và $456,000 năm 1915, lại tăng lên có lẽ tới $550,000 trong năm 1916. Các số nhập cảng về đường, kẹo, và si-rô (sirup), tới khoảng $1,219,000 năm 1913 và trung b́nh độ $900,000 trong các năm 1914 và 1915, đă sút giảm xuống ít hơn $700,000 năm 1916. Không cứu xét đến các con số hoàn toàn bất thường là $1,164,000 năm 1913, các số nhập cảng trà đă sụt giảm dần dần từ $576,300 năm 1914, xuống c̣n $470,000 năm 1915 và $425,000 năm 1916. Gần như tất cả bột ḿ nhập cảng đến từ Hoa Kỳ, phần lớn đường nhập từ Java, và trà từ Trung Hoa.
Bích Chương Quảng Cáo Rượu, Hà Nội
Mậu Dịch Với Hoa Kỳ.
Các số nhập cảng trực tiếp từ Hoa Kỳ đến Đông Dương thuộc Pháp nói chung bao gồm chính yêu dầu hỏa, nhưng một số lượng lớn lao các sản phẩm Mỹ nhập vào các thuộc địa này xuyên qua Hồng Kông, Singapore, Manila, và các hải cảng của Pháp. Trong số sản phẩm Mỹ được nhập cảng trong năm 1916, có ít nhất trị giá $1,000,000 các sản phẩm sắt và thép, $800,000 trị giá các sản phẩm dầu hỏa, $500,000 trị giá bột ḿ, $100,000 trị giá báo đóng thành kiện, và $50,000 trị giá xe hơi và đồ phụ tùng. Các sản phẩm Mỳ khác được bán tại lănh địa này là các máy may, máy đánh chữ, các dụng cụ nông nghiệp, các đồ làm bếp, đồ hộp, và vật liệu lợp mái nhà.
Các số xuất cảng khai báo từ Sàig̣n sang Hoa Kỳ năm 1916 có trị giá là $704,731. Tổng số này được tạo thành chính yếu là từ 12,125 tấn thập phân quặng kẽm, $702,038, được chở từ hải cảng Hải Pḥng; 7,825 tấn khoáng sản này, trị giá $453,068, được chuyển giao từ năm 1915, nhưng không được lập hóa đơn măi cho đến năm 1916. Các mặt hàng khác là 4,990 cân Anh (pounds) lông vịt, $814, và 205 súc vật, $1,879. Không có các chuyến hàng được lập hóa đơn sang Hoa kỳ trong năm 1915.
Mặt hàng chính xuất cảng sang Phi Luật Tân trong hai năm vừa qua là gạo – 1,796,442 tạ (1 picul = 140 cân Anh), trị giá $3,198,228 trong năm 1915, và 2,019,387 tạ, trị giá $4,574,198 trong năm 1916. Đă có các chuyến hàng nhỏ chở huyết thanh khử trùng (antiseptic serum), trâu ḅ, rượu champagne, đồ khô, cám gạo, và các sản vật khác./-
_____
Nguồn: Lawrence P. Briggs, Consul Saigon, Cochin China, Supplement to Commerce Reports, Daily Consular and Trade Reports, Issued by The Bureau of Foreign and Domestic Commerce, Department of Commerce, Washington, D. C., Annual Series, No. 54a, July 25, 1917, 15 trang.
Ngô Bắc dịch và phụ chú
31.08.2015
http://www.gio-o.com/NgoBac.html
© gio-o.com 2015