Charles Holcombe
University of Northern Iowa
TRƯỚC VIỆT NAM
Ngô Bắc dịch
*****
Lời Người Dịch:
Duới đây là bản dịch lời Đề Tựa và chương viết về thời trước khi có sự h́nh thành một nước Việt Nam độc lập trong một tác phẩm đáng chú ư nhan đê The Genesis of East Asia, 221 BC. – AD. 907 (Khởi Nguyên Của Đông Á Châu, 221 trước Công Nguyên – 907 sau Công Nguyên) của tác giả Charles Holcombe, một giáo sư sử học tại Đai Học University of Northern Iowa. Tác phẩm này đă gồm chứa một số đặc điểm như sau:
1. Có thể xem đây là một tác phẩm đầu tiên theo khảo hướng đối chiếu để nghiên cứu về lich sử Đông Á, lấy Trung Hoa làm trung tâm, theo nghĩa rằng “đế quốc Trung Hoa vĩ đại tạo thành một hạt nhân [văn minh] mà chung quanh đó các giới tinh hoa của Nhật Bản, Hàn Quốc, và Việt Nam đă tôi rèn ra các căn cước của ḿnh”, như lời đề tựa của chủ biên loạt sách,
2. Có thể xem đây là một sách giáo khoa mới đang cần thiết để thay thế cho quyển sách tiêu chuẩn nay đă lỗi thời về Đông Á, tức quyển East Asia: Tradition and Transformation của các tác giả John Fairbank, Edwin O. Reischauer và Albert M. Craig, một quyển sách giáo khoa mà mọi người theo học về Đông Á học tại các đại học Tây Phương đều lấy làm kinh điển trong vài thập niên vừa qua.
3. Khảo hướng đôi chiếu lịch sử của tác giả đặt Việt Nam vào khối Đông Á, cùng với các nước Trung Hoa, Nhật Bản và Hàn Quốc, để khảo sát lịch sử h́nh thành của quốc gia Việt Nam đối chiếu với Trung Hoa. Chúng ta thấy một sự nghiên cứu tương tự qua loạt bài về sự bành trướng của Trung Hoa xuống phía nam, trong đó Việt Nam là một trường hợp điển h́nh, của tác giả C. P. Fitzgerald, mà người dịch đă giới thiệu trước đây trên cùng trên gio-o.com này.
Phần viết về Việt Nam cũng chứa đựng ít nhiều ư kiến mới, như sự thừa nhận địa bàn tranh đấu của Hai Bà Trưng không thể chỉ bị giới hạn ở bắc phần Việt Nam, “mà thay vào đó trải dài theo biên giới Trung Hoa – Việt Nam ngày nay – điều hoàn toàn tự nhiên bởi “các người dân bản địa” thời tiền Trung Hoa đă sinh sống ở cả hai bên của một biên giới quốc gia hiện đại đơn giản đă không hiện hữu vào thời điểm đó”, như tác giả đă viết trong tác phẩm./-
ĐỀ TỰA CỦA CHỦ BIÊN
LOẠT SÁCH CÙNG CHỦ ĐỀ
Chúng tôi cực kỳ vui sướng để giới thiệu tác phẩm của Charles Holcombe, The Genesis of East Asia, 221 BC. – AD. 907 (Khởi Nguyên Của Đông Á, 221 trước Công Nguyên – 907 sau Công Nguyên), quyển thứ ba trong loạt sách của chúng ta với chủ đề Asian Interactions and Comparisons (Các Sự Tương Tác và Đối Chiếu tại Á Châu). Tác phẩm của Holcombe không phải là một tập chuyên khảo nguyên thủy hay một quyển sách giáo khoa theo ư nghĩa truyền thống của từ ngữ, mà đúng hơn một lịch sử khái quát của thiên niên kỷ đầu tiên của lịch sử vùng Đông Á Châu, tương ứng với thiên niên kỷ đầu tiên của lịch sử đế triều Trung Hoa. Đông Á ở đây bao gồm phần đất ngày nay chúng ta gán cho Trung Hoa, Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam – mọi địa danh đều thuộc đợt khá lâu sau này. Đây là một lịch sử lấy Trung Hoa làm trung tâm (Sinocentric), nhưng chỉ với ư nghĩa rằng đế quốc Trung Hoa vĩ đại đă tạo thành hạt nhân chung quanh đó các giới tinh hoa của Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam đă rèn luyện ra các căn cước của ḿnh.
Loại tác phẩm này được mong muốn từ lâu – và chúng ta vẫn c̣n cần một loạt sách nữa cho thiên nhiên kỷ thứ nh́ – bởi giờ đây, quyển sách tiêu chuẩn cũ, East Asia: Tradition and Transformation (Đông Á: Truyền Thống và Sự Biến Thể) của các tác giả John Fairbank, Edwin O. Reischauer, và Albert M. Craig, đă trở thành lỗi thời trước các bộ sách đồ sộ của giới học thuật được sản xuất khắp nơi trên thế giới kể từ khi có sự ấn hành của nó. Trong khi không phải là một quyển sách giáo khoa theo khuôn mẫu của quyển East Asia: Tradition and Transformation, tác phẩm của Holcombe có thể được dùng trong khả tính đó.
Tuy thế, quan trọng hơn , tác giả Holcombe tŕnh bày cho chúng ta thấy rằng đă có nhiều điều có thể được học hỏi ở tất cả mọi tŕnh độ bằng cách chấp nhận một khảo hướng đối chiếu trong lịch sử vùng Đông Á. Bất luận chúng ta có đồng ư hay không, thí dụ, rằng lịch sử ban đầu của Nhật Bản tương đồng với lịch sử Trung Hoa, là điều nằm ngoài tiêu điểm; điều không thể tranh căi được là sự kiện rằng chúng ta học hỏi được nhiều về cả hai lịch sử xuyên qua một sự so sánh như thế.
Trong khi nhạy cảm với các sự khiếu nại và các nguyên do nền tảng của chủ nghĩa dân tộc hiện đại, tác giả Holcombe đă không cho phép điều này xác định các sự giải thích của ông về lịch sử thời tiền hiện đại. Chính v́ thế, nhiều độc giả có thể chưa hoàn toàn chuẩn bị, thí dụ, trước sự tŕnh bày của ông về sự xuất hiện của quốc gia Việt Nam đầu tiên trong năm 939. Trong khi cái nh́n của ông phù hợp với giới học thuật gần đây về đề tài này, nó ngược lại với sự tường thuật của người Việt Nam theo chủ nghĩa dân tộc về 1000 năm đàn áp của Trung Hoa. Chúng tôi xin dành lại cho độc giả rút ra phán đóan của ḿnh trên đề tài gây tranh luận đặc biệt này cũng như trên các đề tài khác được tŕnh bày trong quyển sách này.
Joshua A. Fogel, Chủ Biên Loạt Sách Chủ Đề
***
TRƯỚC VIỆT NAM
---
Đông Á Thời Hán Sơ
NAM VIỆT
H́nh thể hiện tại của xứ sở chúng ta gọi là Việt Nam sẽ là điều không thể tưởng tượng nổi với bất kỳ ai sống trong thời khoảng được nói đến trong quyển sách này. Không chỉ toàn thể phân nửa phía nam của đất nước giờ đây là Việt nam mới được sáp nhập vào xứ sở sau này, mà ngay cả tên gọi Việt Nam hay bất kỳ căn cước Việt Nam khả dĩ nhận diện được đề cập bởi một số danh xưng nào khác cũng sẽ không thể được nhận biết đối với người dân của kỷ nguyên này. Việt Nam đơn thuần chưa hiện hữu. Thay vào đó, những ǵ ngày nay là miền bắc Việt Nam – miền tập trung quanh thung lũng sông Hồng – là một phần của đế quốc Trung Hoa. Nó là một phần ngoại vi, chắc hẳn là thế, nhưng không có biên cương văn hóa hay chủng tộc rơ rệt chia cắt những ǵ ngày nay là Việt Nam với các phần khác của khu vực hành chánh cực đông nam của đế quốc, Lĩnh Nam (Lingnan) – một vùng bao gồm các tỉnh hiện đại của Trung Hoa gồm Quảng Đông (Quảng Châu) và Quảng tây cũng như Bắc Việt. 1
Lĩnh Nam (có nghĩa phía ”nam của đỉnh núi”), mặt khác, th́ cách biệt về mặt địa h́nh với phần c̣n lại của đế quốc Trung Hoa bởi một ṿng cung các ngọn núi thấp. Từ lâu trước khi Lĩnh Nam bị sáp nhập vĩnh viễn vào Trung Hoa, nó đă là quê hương của các cộng đồng thời tiền lịch sử với một số tŕnh độ tinh vi, đă nắm vững việc canh tác lúa gạo bắt đầu không muộn hơn năm 2000 trước Công Nguyên, và sự sản xuất các đồ đồng ngay từ năm 1500 trước Công Nguyên. Vào thời khoảng có giai đoạn khảo cổ được gọi là Đông Sơn, đă phát triển từ khoảng 500 đến 300 năm trước Công Nguyên, dân chúng tại vùng phụ cận của Bắc Việt hiện đại đă làm quen với kỹ thuật đồ sắt và sản xuất ra một loại có đặc tính đáng kể nhất của trống đồng. Nền văn hóa Đông Sơn huy hoàng này có tính cách độc đáo, nhưng nó có một sự tương quan hiển nhiên với giải đất rộng lớn của phần mà giờ đây chúng ta gọi là Đông Nam Á. Nhiều kỹ thuật khai phá mới, kể cả việc trồng lúa gạo, được xem là đă thẩm nhập vào vùng này từ người Việt hay, trong một vài trường hợp, có thể từ các người vùng Trung Nguyên Trung Hoa sinh sống xa hơn về phía bắc. 2
Các sử kư Việt Nam bản xứ cổ xưa nhất, có niên đại từ thế kỷ thứ mười bốn, nói về một vương quốc Văn Lang độc lập được thành lập tại vùng tổng quát của Việt Nam trong khoảng thế kỷ thứ bẩy trước Công Nguyên và đă tồn tại qua mười tám đời vua. Hơn nữa, thần thoại này có thể nói gần như trùng hợp với nền văn hóa Đông Sơn được khám phá về mặt khảo cổ học. Các học giả Việt Nam hiện đại đă mau chóng xác định nước Văn Lang này với các nguồn gốc của một “dân tộc” Việt Nam. 3
Như tài liệu khảo cổ đă chứng thực một cách rơ ràng, không có ǵ nghi ngờ rằng đă có một nền văn hóa địa phương độc lập và sinh động trong vùng trong suốt thời kỳ này, nhưng các truyền thuyết Việt Nam cổ xưa sơ sài này thu thập từ các nguồn tài liệu Trung Hoa mơ hồ, cổ xưa hơn nữa, được biên soạn phần lớn trong các thế kỷ thứ sáu và thứ bẩy, và có thể không đáng tin cậy nhiều. Có lẽ công b́nh nhất để nói rằng nền văn hóa Đông Sơn được xác định về mặt khảo cổ học này không chính xác hoặc là của Trung Hoa hay Việt Nam theo nghĩa dân tộc chủ nghĩa hiện đại, mà đúng hơn của một xă hội Việt tộc (Yue: Việt) địa phương thời tiền lịch sử ngày càng trở nên tinh tế, xuyên qua sự tương tác với quốc gia Việt phát triển sớm hơn và với các quốc gia Trung Nguyên xa hơn về phía bắc. 4
Các truyền thuyết sớm nhất cũng tiếp tục nhấn mạnh rằng, trong bất kỳ trường hợp nào, vương quốc Văn Lang đă “bị đánh đuổi” và thay thế bởi một ông hoàng xâm nhập từ (một địa danh thường đi liền với) phần đất mà giờ đây thuộc Tỉnh Tứ Xuyên trong năm 257 trước Công Nguyên, là kẻ đă sáng lập một vương quốc mới ở đó gọi là Âu Lạc. “Thành phố theo trôn ốc tinh thần” vĩ đại được gán cho ông hoàng này tại Cổ Loa đă được nghĩ là thành phố vĩ đại đầu tiiên trong toàn vùng Lĩnh Nam cũng như trên toàn cơi Đông Dương. Mặc dù diễn biến truyền thuyết này không nên được nghĩ như bất kỳ một sự tiêu diệt toàn diện và thay thế cho dân số đă hiện hữu trước đây, cả truyền thuyết lẫn bằng cớ khảo cổ từ các di tích của thành phố làm liên tưởng đến một số sự gián đoạn trong văn hóa địa phương, với một tŕnh độ mới của ảnh hưởng phương bắc trên khu vực thuộc miền bắc Việt Nam ngày nay. 5 Điều này phù hợp với bức tranh tổng quát của chúng ta về nhiều nền văn hóa tiền lịch sử địa phương khác nhau dần dần bị biến thể xuyên qua sự tương tác với văn minh hạt nhân vùng Trung Nguyên.
Chúng ta có thể bổ túc rằng trong khi thành phần “chủng tộc” hay khởi sinh của các xă hội này có thể thường đă phô bày một mức độ khá cao của sự liên tục địa phương trên các thời khoảng kéo dài, sự đóng góp chủng tộc hay nguồn khởi sinh cho văn hóa hay văn minh bị giả định đúng ra chỉ ở mức tối thiểu. Các thuộc tính vật lư chẳng hạn như màu da đă không được xem là có nhiều ư nghĩa về mặt văn hóa, ngoại trừ khi chính thành kiến chủng tộc trở thành một yếu tố, điều không phải là trường hợp thường xẩy ra tại vùng Đông Á cổ thời (mặc dù các thí dụ biệt lập của sự cuồng tín chắc chắn có thể được dẫn chứng).
Trong thời thuợng cổ, toàn thể vùng Lĩnh Nam, Quảng Đông, và Quảng Tây cũng như Việt Nam, hoàn toàn nằm bên ngoài phạm vi của văn minh Trung Hoa Thời Đồ Đồng. Tuy nhiên, Hoàng Đế Đầu Tiên nhà Tần, bị thúc đẩy bởi một khát vọng về các sản phẩm hương xa giá trị của vùng đất này, đă ra lệnh cho một cuộc xâm lăng ồ ạt vào Lĩnh Nam trong năm 214 trước Công Nguyên, được nói đă trưng tập đến nửa triệu các thương nhân và các phần tử “vô dụng” khác sang đồn trú lănh thổ mới chính phục được và đào các con kinh để tiếp tế cho các di dân. Trong phạm vi Việt Nam ngày nay, đặc biệt, một vài mức độ tự trị địa phương dường như vẫn tiếp tục lâu dài như là một thể chế thông thường. Tuy nhiên, Lĩnh Nam, một cách khá đột ngột, giờ đây là một phần của đế quốc Trung Hoa. 6
Nhà Tần đă đạt được một định cao sớm sửa của sự bành trướng địa dư đế quốc. Chính quyền đế quốc nhà Tần tập tung hóa tại phần giờ đây là tỉnh Vân Nam, tại phía tây nam, chỉ tồn tại có mỗi một thập kỷ. Tại vùng đông nam, ba vương quốc khác biệt của Việt tộc được phục hưng giữa các phế tích của đế quốc nhà Tần tan nát: Đông Âu (Eastern Ou) tại vùng nay là phía nam của Tỉnh Triết Giang, Mân Việt (Min-Yue) tại Tỉnh Phúc Kiến, và Nam Việt (Southern Yue) tại Quảng Đông, Quảng Tây, và miền bắc Việt Nam. 7
Các vị vua của Mân Việt tự nhận là hậu duệ của hoàng triều Việt bản xứ cổ xưa. Dưới sự cai trị của nhà Tần, các thủ lĩnh toàn quyền bản xứ này bị giáng xuống vị thế các nhà quản trị một bộ chỉ huy [chỉ huy sứ?], nhưng nhờ ở sự hậu thuẫn của họ cho vị sáng lập thành công triều đại nhà Hán trong các cuộc nội chiến liên tiếp, họ đă được tái tấn phong như các ông hoàng tự trị trong năm 201 trước Công Nguyên. Trong năm 138 trước Công Nguyên, Mân Việt đă tấn công nước láng giềng phương bắc của nó, Đông Âu, thúc đẩy một sự cầu cứu từ Đông Âu lên vị Thiên Tử nhà Hán. Vị tư lệnh pḥng vệ nhà Hán cố vấn rằng kể từ khi có sự từ bỏ chúng sau thời nhà Tần, các vương quốc này chưa bao giờ thần phục đế quốc và rằng, bởi chỉ là việc b́nh thường khi Việt tộc tham gia vào chiến tranh tương tàn thường xuyên, việc này phải xem là không liên can ǵ đến Vương Quốc Trung Tâm Nhà Hán. Tuy nhiên, một lập luận phản biện thắng thế cho rằng nếu vị Thiên Tử không đến trợ giúp các nước chư hầu trong giờ phút cần thiết của chúng, “làm sao chúng ta lại có thể xem vô số vương quốc như con cháu chúng ta được?” Một đội quân nhà Hán được phái đi bằng đường biển, phát xuất từ vùng ngày nay là Shaoxing [Thiệu Hưng?] tại miền bắc Triết Giang, và các binh sĩ của Mân Việt đă rút lui. 8
Bất kể sự hoăn binh tạm thời này, vương quốc Đông Âu (Eastern Ou) độc lập sau rốt đă bị thanh toán vào năm 110 trước Công Nguyên, và hoàng đế nhà Hán bị cáo giác là đă chuyển vận toàn thể dân Việt của Đông Âu về phương bắc đến các vùng đất nằm giữa các con sông Hoài (Huai) và sông Dương Tử (Yangzi), bỏ trống vùng đất của Đông Âu trước đây. 9 Lănh thổ cổ xưa của họ tại tỉnh Triết Giang ngày nay sau này trở thành trung tâm dân cư và kinh tế của Trung Hoa hiện đại, mặc dù nó đă từng có thời là vùng đất rất xa lạ.
Trong khi đó, trong năm 135 trước Công Nguyên, vương quốc Mân Việt có khuynh hướng bành trướng đă hướng sự chú ư của nó xuống phía nam và xâm lăng Nam Việt. Một ông hoàng gốc Hán bán tự trị tại vùng giờ đây là tỉnh An Huy đă viết thư cho hoàng đế nhà Hán (cháu trai của ông ta), đă cố gắng một cách mạnh mẽ để can ngăn đế quốc khỏi sự can thiệp quân sự vào cuộc chiến tranh này bằng việc đưa ra lập luận rằng “Việt là vùng đất nằm ngoài thế giới này, với một sắc dân xén tóc và xâm ḿnh. Nó không có thể được điều hành bởi các luật lệ của các nước văn hiên.” 10 Mặc dù tác giả của văn thư này có các hậu ư – nhằm ngăn cản sự can thiệp quân sự của đế quốc Hán tại lănh địa riêng của ông ta – điều thật rơ ràng là các lănh thổ đế quốc nhà Tần xưa kia tại vùng giờ đây là miền đông nam Trung Hoa vẫn c̣n bị xem là các vùng đất hoàn toàn xa lạ trong thời nhà Hán ban sơ. Song vùng cực nam của các vương quốc Việt độc lập này, Nam Việt, với kinh đô của nó tại Quảng Châu (Canton) ngày nay, thực sự không phải là một vương quốc “bản thổ” ǵ cả. Vương quốc Nam Việt đă được thành lập bởi một quan chức nhà Tần cũ bản thân có nguồn gốc tại vùng Trung Nguyên.
Khi thế giới đế quốc nhà Tần khởi sự tan ră vào cuối thế kỷ thứ ba trước Công Nguyên, viên chỉ huy quân sự nhà Tần bị bệnh vô phương cứu chữa tại Quảng Châu (Canton, khi đó gọi là Panyu (Phiên Ngung, có khi dịch là Phan Ngu [?]) ủy thác cho thuộc cấp của ông là Triệu Đà (Zhao Tuo) (mất năm 137 trước Công Nguyên) rằng:
Trung Quốc đang trong cơn hỗn loạn và chúng ta không biết ḥa b́nh sẽ đến từ nơi đâu. Các vị anh hùng, nổi dậy chống lại nhà Tần, tự xưng ḱnh chống lại nhau. Nam Hải [miền có kinh đô là Panyu] th́ xa xôi, nhưng tôi lo sợ rằng các quân thổ phí sẽ đột kích đến tận nơi xa xôi này. Tôi muốn lập ra quân đội và ngăn chặn các con lộ mới để chuẩn bị …Hơn nữa Phiên Ngung (Canton) chiếm giữ một vị trí đồi núi chiến lược. Dựa vào Nam Hải, cả bên phía đông và tây trải dài hàng ngàn dậm (li) chúng ta có sự ủng hộ của nhiều người từ Vương Quốc Trung Tâm. Địa điểm này cũng là chủ tể của một miền, và có thể được dùng để thiết lập một vương quốc [độc lập]. 11
Triệu Đà đă nghe theo lời cố vấn này và tiếp theo sau sự từ trần của kẻ đỡ đầu, trong năm 208 trước Công Nguyên, đă thiết lập vương quốc độc lập Nam Việt (Nan Yue, trong tiếng Hán, Nam Việt, trong tiếng Việt), tồn tại trong gần một thế kỷ, mặc dù thường như một chư hầu trên danh nghĩa của đế quốc nhà Hán. Triệu Đà là dân bản gốc tại Trung Nguyên, và ông được giả định đă khuyến dụ các thần dân của ḿnh bằng các sự hấp dẫn của nền văn hóa cao hơn của Trung Hoa. Cùng lúc, ông đă “bị biến đổi bởi các phong tục của dân mọi rợ phương nam” và đến một số tầm mức “trở thành dân bản xứ ”, như hay được nói.
Sử kư ghi lại một cuộc chạm trán ngoạn mục giữa Triệu Đà và sứ giả đế quốc nhà Han, Lu Jia [Lục Giả?] (bản thân là người đất Chu, có thời phần nào là một vương quốc Trung Hoa ven biên phía nam) trong năm 196 trước Công Nguyên trong đó họ Triệu đă tiếp đón họ Lục giống một một người Việt bản xứ, với tóc được búi tó và ngồi xổm trên mặt đất. Họ Lục đă phản đối rằng họ Triệu đă được sinh ra tại Vương Quốc Trung Tâm, với nghĩa địa gia đ́nh tại vùng giờ đây thuộc tỉnh Hà Bắc (gần Bắc Kinh thời hiện đại), tuy thế tại nơi đây, ông ta đă gạt bỏ một cách trái tự nhiên trang phục văn minh của ḿnh để tranh dành với Thiên Tử của đế quốc từ “xứ Việt tầm thường”. Câu chuyện kể tiếp, họ Triệu tức thời nhỏm dậy xin lỗi, giải thích rằng việc cư ngụ lâu dài với các ngườ́ man rợ làm ông ta quên đi mất phép lịch sự. Không cần nói, cuộc đối thoại được ghi chép trong các sử sách này không thể nào có thể được giả định là chính xác một cách chi tiết, nhưng hương vị của cuộc đối thoại trong thực tế có thể làm liên tưởng đến các thái độ của Trung Hoa gần thời đương đại. 12
Các thần dân của vị vua mới được mô tả một cách dè bỉu như bao gồm “không hơn vài chuc ngh́n người, tất cả đều c̣n man rợ, sống bấp bênh giữa núi và biển, tương đương với một bộ chỉ huy duy nhất của Trung Hoa.” Các nhà hành chính cựu triều hiện diện tại chỗ vào thời gian có sự tan ră của nhà Tần tạo thành hạt nhân của chính quyền Nam Việt mới này, nhưng điều rơ ràng là tầng lớp Hán hóa của xă hội địa phương vẫn chỉ cấu thành một tầng lớp rất mỏng. Khảo cổ học xác nhận rằng văn hóa vật thể Đông Sơn tồn tại tại Việt Nam qua một thời khoảng sau khi có sự chinh phục của nhà Tần. Các nghĩa trang Nam Việt được khai quật bởi các nhà khảo cổ học tại Quảng Châu phát hiện các sự mai táng lẫn lộn kiểu Trung Hoa và Việt Nam, đôi khi với các vật dụng hỗn hợp tại một ngôi mộ duy nhất, trong khi (cho đên nay) không có các khu chôn cất hoàn ṭan dành riêng cho người Việt bản xứ được t́m thấy có niên đại từ thời kỳ có sự độc lập của Nam Việt. Bất kể tính đa nguyên về văn hóa của nó, xă hội Nam Việt chính v́ thế rơ ràng khá liên hợp và cố kết. 13
Nam Việt là một nước ven biên với một dân số phần lớn chưa bị Hán hóa, chỉ bị ảnh hưởng bởi các kẻ định cư rải rác và các cựu quan chức chính gốc từ Trung Nguyên; tuy thế, một cách tổng quát đă tổ chức theo cùng các đường hướng của các nước gốc Trung Hoa khác xa hơn về phía bắc. Nhà vua thứ ba của Nam Việt tự thân đến chầu tại triều đ́nh nhà Hán và đă lấy một phụ nữ miền bắc (từ khu vực Hà Bắc) làm nàng hầu. Sau này đứa con trai của họ lên ngôi làm vị vua thứ tư, đang khi ngày càng mất nhân tâm, người phụ nữ này đă lại thúc đẩy để có một mối quan hệ gần gủi hơn với đế quốc nhà Hán, bao gồm cả một sự triều kiến ba năm một lần với hoàng đế nhà Hán và việc loại bỏ việc cần có giấy thông hành tại biên giới.
Một quan chức gốc Việt đă từng phục vụ ba nhà vua Nam Viết kế nhau, và là kẻ được cho rằng ông ta được ḷng dân hơn cả vị vua đương thời là kẻ bị oán ghét khi nh́n thấy viễn ảnh về mức độ gia tăng trong sự lệ thuộc vào đế quốc Hán, và trong năm 113 trước Công Nguyên, ông ta đă nổi dậy và hạ sát nhà vua, mẹ của nhà vua, và các sứ giả nhà Hán. Trong năm kế tiếp, đế quốc nhà Hán đă trả lời bằng việc phái 100,000 binh sĩ, sang đập tan cuộc nổi đậy, và trong năm 111-110 trước Công Nguyên, đă tái sáp nhập vùng Lĩnh Nam trực tiếp vào đế quốc lần đầu tien kể từ khi có sự tan ră của triều đinh nhà Tần trước đó khoảng gần một thế kỷ. Từ đó trở đi, các phần đất đă từng có thời cấu thành Nam Việt sẽ măi măi là một bộ phận của đế quốc Trung Hoa, ngoại trừ vùng cực nam xa xăm, nơi đă đạt được nền độc lập vĩnh cửu trong năm 939 và trong năm 1802 trở nên được hay biết, sau hết, là Việt Nam (tiếng Hán: Yuenam, “phía nam của nước Việt; south of Yue [sic, đúng ra là nước của dân Việt ở phương nam, chú của người dịch]”. 14
Bao gồm trong vùng Lĩnh Nam bao la bị đặt dưới sự chỉ huy của chính quyền đế triều nhà Hán trong năm 110 trước Công Nguyên có một ḥn đảo, nép ḿnh tại Biển Nam Hoa (South China Sea), khoảng giữa Quảng Châu và Việt Nam ngày nay, được biết đến ngày nay là đảo Hải Nam. Trong thời thượng cổ, đảo Hải Nam được cư trú thưa thớt bởi một dân số gồm các người bản xứ hỗn tạp, các kẻ bị cho rằng “đă không tuân theo các sự giáo huấn đức hạnh”, đă khắc các mẫu trang trí lên trên má của họ, và xỏ ngọc trai xuyên qua tai cho đến khi lỗ tai của họ tḥng xuống măi tận bờ vai. Mặc dù đảo Hải Nam giờ đây đă là một phần của đế quốc Trung Hoa, nó vẫn c̣n phải gánh chịu sự va chạm liên tục giữa các quan chức triều đ́nh nhà Hán và các người dân bản xứ.
Một viên tổng đốc phần phía nam của Hải Nam thời nhà Hán ban sơ đă tài định rằng một mảnh vải rộng khổ phải được cống nạp trên người dân bản xứ, làm khơi dậy một cuộc khởi nghĩa trong đó ông ta bị hạ sát. Người con trai của ông đă quay lại với đội quân 10,000 người và trấn áp các người dân bản xứ này, nhưng các sản phẩm hiếm quư mà ông ta tiếp tục ḅn rút từ họ làm vật phẩm triều cống khiến cho cuộc nổi dậy vẫn sôi sục, và trong năm 46 trước Công Nguyên, phía nam ḥn đảo đă hoàn toàn bị bỏ phế -- mặc dù một bàn đạp của đế triều có thể vẫn c̣n được duy tŕ tại bờ biển phía tây bắc.
Từ đó trở đi, vị thế của đảo Hải Nam trong khuôn khổ đế quốc hăy c̣n bấp bênh. Thí dụ, vào khoảng năm 460, một tù trưởng một bộ tộc lớn lao tại khu vực Quảng Tây và Quảng Đông đầu hàng trước Nam Triều (Southern Dynasty) thời bấy giờ và bị yêu cầu chỉ huy một đội quân đế quốc đi khuất phục các bộ tộc lân cận ngoan cố chưa chịu đầu hàng. Các sĩ quan mà ông ta phái đi để chinh phục miền nam đảo Hải Nam đă bị thất bại trong nhiệm vụ, tuy thế, đă phản kháng, hạ sát thay vào đó chính viên tù trưởng này.
Ngay trong thời thịnh Đường, khi quyền lực quân sự của Trung Hoa có lẽ lên cao đến cực điểm, sự kiềm chế của đế triều trên đảo Hải Nam vẫn tiếp tục khá mong manh. Huyện Yai thời nhà Đường, một số vùng đông bắc của ḥn đảo, có một dân số kiểm kê chỉ gồm 819 gia đ́nh nhưng phải chứa chấp một đội quân đồn trú của đế triều và phải sản xuất để triều cống lên đế quốc vàng, bạc, ngọc trai, vỏ xà cừ, và các vật hiếm quư khác. Huyên Qiong kế cận, được tách ra từ huyện Yai trong năm 631, có một dân số kiểm kê chỉ gồm có 649 gia đ́nh và đă rơi vào sự kiểm soát của dân bộ tộc nổi dậy từ năm 667 đến 789. Ngay hiện nay, đảo Hải Nam vẫn c̣n là một vùng đất của một tỉnh biên cương gay go, được mô tả mới gần đây vào năm 1983 bởi viên Thủ Tướng Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa đương thời như “miền kém phát triển nhất trên thế giới.” 15
Trên lục địa, ở phía tây của đảo Hải Nam, tại miền ngày nay là Việt Nam, bằng chứng rải rác cho thấy rằng như một phần thưởng dành cho sự sốt sắng chịu hàng phục trước các lực lượng nhà Hán, các tù trưởng địa phương phần lớn được tái bổ nhiệm vào chức vụ của họ bởi đế quốc nhà Hán, và một mức độ tự trị của dân Việt địa phương vẫn tiếp tục, y như trước, tại miền đất đó. Tuy nhiên, vùng Lĩnh Nam, chứ không phải Việt Nam, đă là khu vực địa dư then chốt. Cuộc nổi dậy “của người Việt Nam bản xứ” nổi danh của chị em bà Trưng trong các năm 40 – 42 sau Công Nguyên, thí dụ, đă không bị giới hạn vào phần đất giờ đây là Việt Nam, mà thay vào đó trải dài theo biên giới Trung Hoa – Việt Nam ngày nay – điều hoàn toàn tự nhiên bởi “các người dân bản địa” thời tiền Trung Hoa đă sinh sống ở cả hai bên của một biên giới quốc gia hiện đại đơn giản đă không hiện hữu vào thời điểm đó. 16
TRẠM TRUNG CHUYỂN CỦA ĐẾ TRIỀU
Đông Á, Khoảng 500 Sau Công Nguyên
Cuộc nổi dậy của chị em bà Trưng bị đàn áp một cách khốc liệt. Họ đă bị trấn áp, và các trống bằng đồng vốn mang nét tiêu biểu nhất cho nền văn hóa Đông Sơn và tượng trưng một cách hùng hồn rằng quyền lực của giới tinh hoa bản xứ đă bị chiếm đoạt và hủy diệt. Các tù trưởng địa phương bản xứ cũ đă hoàn toàn bị biến mất từ đó, có lẽ ḥa nhập với các người mới đến từ phương bắc để tạo ra một giới tinh hoa địa phương mới hỗn hợp. Tác giả Henri Maspero kết luận rằng những ǵ giờ đây là Việt Nam đă bị biến đổi bởi chiến dịch quân sự này từ một xứ bảo hộ của đế triều nhà Hán, với các định chế và văn hóa bản xứ riêng biệt, thành một phần của chính đế quốc Trung Hoa. 17
Bắt đầu trong thế kỷ thứ nhất sau Công Nguyên, xem ra đă có một nhập lượng đáng kể các kẻ định cư gốc Hán tiến vào vùng thung lũng sông Hồng, một số bị lôi cuốn bởi cơ hội kinh tế, và các kẻ khác rơ ràng là các tội phạm bị án lưu đầy được cố t́nh phát văng đến đó bởi chính quyền đế triều. Sự hội nhập văn hóa của vùng này vào đế quốc theo đó đă được gia tốc. 18 Vào lúc này, một thành phố trên sông Hồng được gọi là Giao Chỉ (Jiaozhi) (về sau được gọi là Giao Châu: Jiaozhou), gần Hà Nội ngày nay, cũng đă xuất hiện có thể như hải cảng mậu dịch đường biển xa xôi nhất của đế quốc nhà Hán.
Trong thế kỷ thứ ba sau Công Nguyên, Zhang Hue (232-300) có tường thuật rằng đă có sự lưu thông không ngớt ngang qua Nam Hải (South Seas) đến Giao Chỉ. Cùng với Quảng Châu (Canton) (nguyên thủy được gọi là Panyu, Phan (hay Phiên) Ngưng, cũng c̣n được gọi là Nanhai (Nam Hải), và sau cùng là Quảng Châu (Guangzhou), Giao Chỉ đă là một trong hai thành phố lớn của Lĩnh Nam thời đế triều ban sơ, cả hai đều nổi tiếng như các địa điểm nơi mà các sự giàu có thương mại có thể tạo lập một cách dễ dàng. Tuy nhiên, chính là v́ sự quan tâm ban đầu của đế triều trong vùng được nhắm quá chuyên chú vào hoạt động mậu dịch biển Nam Hải, các thị trường tối hậu cho sự phân phối các sản vật của những vùng nằm xa xôi về phía bắc, hai thành phố to lớn này tại Lĩnh Nam không mấy khác các trung tâm tiếp chuyển, có tác động kinh tế hay văn hóa tương đối ít trên dân chúng trong các vùng nội địa sâu xa của chúng. Các thành phố to lớn v́ thế là các túi đất được khoanh lại của nền văn minh Trung Hoa tinh tế nơi vùng bờ biển trong khi các vùng rừng núi nội địa phần lớn vẫn c̣n là có tính cách bộ tộc. 19
Các phong tục bàn xứ và ngôn ngữ phát ngôn tại Lĩnh Nam được mô tả là khá đa dạng. Ngay dù sau bốn thế kỷ dưới sự cai trị của đế triều, trong năm 231 một quan chức vẫn c̣n báo cáo rằng trên đảo Hải Nam, bên ngoài các trung tâm hành chính của đế triều có tính chất đô thị, các người nam và người nữ đă cặp bồ với nhau (trước sự kinh hăi của các nhà đạo đức theo Khổng học) mà không cần để ư đến các ước muốn của cha mẹ họ tại một lễ hội trong tháng Tám, trong khi tại một số vùng đất khác của miền giờ đây là Việt Nam, một phong tục giống như luật kết hôn với chị (em) dâu nếu người anh (em) chết đi [levirate: hôn thú bắt buộc theo luật Thánh Kinh nếu người chết không có con nối dơi, chú của người dịch] được thực hành, và tại vùng cực nam, đàn ông và đàn bà đi ra ngoài gần như trần truồng mà không mắc cỡ ǵ cả. 20 Nói khác đi, có thể lập luận rằng 400 năm cai trị của Trung Hoa tại Lĩnh Nam chỉ đạt được sự tiến bộ nhỏ bé trong việc Hán hóa dân chúng và rằng Việt Nam đặc biệt vẫn c̣n rất “kém văn minh” .
Điều có thể hữu ích để so sánh nơi đây kinh nghiệm của Việt Nam dưới đế quốc Trung Hoa, vào khoảng năm 231, với t́nh trạng của Anh Quốc dưới sự đô hộ của đế triều La Mă, cũng kéo dài trong bốn thế kỷ, từ cuộc xâm lăng của Hoàng Đế Claudius trong năm 43 sau Công Nguyên với cuộc nổi dậy của Anh Quốc và sự kết thúc nền thống trị của La Mă vào năm 409. Khắp quần đảo Anh Cát lợi, một số phiên bản của tiếng Celtic xem ra vẫn c̣n là ngôn ngữ đối thoại hàng ngày của phần lớn dân chúng, và các t́nh trạng của cuộc sống nông thôn đối với nhiều người xem ra không mấy thay đổi kể từ thời tiền La-Mă, ngay dù sau bốn thế kỷ với sự chiếm đóng của La Mă. Song, mặt khác, nhiều người Anh đă tiếp nhận kiểu áo thụng của thời Cổ La Mă (toga), tiếng La Tinh được nói một cách phổ biến bởi một số người học thức, và tác giả Peter Salway tin rằng sau cuộc trục xuất chính quyền La Mă, “không có dấu hiệu nào về sự tồn tại của các bộ tộc thời tiền La-Mă … Anh Quốc đă trở nên ḥa nhập quá sâu đậm vào một quốc gia kiểu La Mă sau đó đến nỗi sự tách rời sẽ dẫn đến sự diệt vong … Mức độ La Mă hóa của nó thật quá lớn lao, chứ không quá ít.” 21 Trật tự cổ xưa, thời tiền La mă không bao giờ có thể phục hoạt hay ngay cả trên việc có thể hồi tưởng một cách rơ ràng.
Bất kể có nhiều sự liên tục ở địa phương, Anh Quốc đă bị thay đổi một cách sâu xa bởi bốn thế kỷ hiện diện của La Mă. Có thể rằng Anh Quốc đă được xem là có tầm chiến lược quan trọng đối với La Mă hơn là Việt Nam đối với Trung Hoa, và nhiều quân sĩ La Mă hơn đă đồn trú tại đó, nhưng Giao Chỉ lại có tầm quan trọng về mặt thương mại hơn là London trong khuôn khổ hai đế quốc liên hệ. Sự khác biệt hiển nhiên nhất giữa Anh Quốc thời La Mă và Việt Nam thời Trung Hoa trị là sự chiếm đóng của Trung Hoa trên Việt Nam nhất thiết vẫn tiếp tục trong hơn 700 năm nữa (cho đến năm 939), và sau cùng khi diễn ra, nền độc lập của Việt Nam đă không bị tiếp nối bởi các cuộc xâm lăng mọi rợ thảm thương giống như các cuộc xâm lăng của các giống dân Angles và Saxons, sau rốt đă biến đổi Anh Quốc thời hậu La Mă theo các chiều hướng khác biệt và mang lại cho nó, trong một nghĩa cụ thể, một sự khởi đầu hoàn toàn mới. 22 Dấu ấn của đế triều Trung Hoa trên Việt Nam, nói cách khác, v́ lâu hơn nhiều về thời khoảng vừa ít bị xóa bỏ một cách triệt để như là dấu tích của La Mă trên Anh Quốc.
Khu vực thung lũng sông Hồng của Việt Nam ngày nay không chỉ là một phần kết hợp của Lĩnh Nam thuộc đế triều, mà nó từ khởi đầu là trung tâm của sự hiện diện của đế triều tại Lĩnh Nam. Như xảy ra trong khuôn mẫu của Anh Quốc thuộc La Mă, đế quốc Trung Hoa đă tập trung vào việc phát triển các phần đồng bằng ph́ nhiêu hơn của Lĩnh Nam trong khi dần dần xiết chặt các bộ tộc bản xứ độc lập một cách đầy thách đố c̣n lại măi tới các khu vực núi đồi không thể tiếp cận được (mặc dù các đầm lầy vùng đất thấp cũng là các sào huyệt được ưa thích của các bộ tộc). Trong khi thành phố Quảng Châu đă từng là kinh đô của vương quốc Nam Việt của Triệu Đà, thành phố đó đă bị thiêu đốt và bỏ hoang sau khi có sự sáp nhập Nam Việt vào đế quốc nhà Hán. Sau này – có lẽ để né tránh việc hồi tưởng đến sự độc lập của Nam Việt mà cũng bởi trong thời nhà Hán châu thổ sông Hồng tại vùng là Việt Nam giờ đây “đă có mật độ dân cư cao hơn nhiều” so với khu vực Châu Giang (Pearl River) gần Quảng Châu – triều đ́nh nhà Hán đă lựa chọn một địa điểm gần Hà Nội ngày nay để làm thủ đô hành chính của nó cho vùng Lĩnh Nam. 23 Trong ba thế kỷ c̣n lại của triều đại nhà Hán, ít nhất, một thành phố tại phần giờ đây là Việt Nam đă là một đô thị quan trọng nhất cho cả miền đông nam Trung Hoa.
Trong phạm vị Lĩnh Nam, các bộ lạc tàn dư thời tiến Trung Hoa được trải rộng, nhưng ít nhất, chúng đă nổi bật tại vùng giờ đây là Quảng Tây và Quảng Đông, cũng như là tại Việt Nam. Không lâu sau khi nhà Tây Tấn (Western Jin) tái thống nhất đế quốc vào năm 280, một cuộc giải ngũ lớn lao các lực lượng quân sự địa phương khắp đế quốc đă được trù hoạch, nhưng một quan chức đế triều đặt căn cứ gần Hà Nội ngày nay đă phản đối rằng vẫn c̣n có hơn 50,000 gia đ́nh của các kẻ “không chịu khuất phục” dọc theo bờ biển phía nam của Quảng Đông và khoảng 10,000 gia đ́nh khác tại vùng nay là Quảng Tây, trong khi nhưng kẻ đă chịu phục tùng sự quy định chính thức chỉ vào khoảng 5,000 gia đ́nh. Trong thời đại Các Nam Triều (Southern Dynsaties, các bộ tộc bản xứ người Li [Lê?] và Liao [Liêu?] được báo cáo sinh sôi nẩy nở trong vùng núi đồi của Quảng Đông, đặt ra một mối đe dọa thường trực cho đế quốc. 24
Trong vùng núi đồi của các tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây, phía nam Quảng Châu, dân bộ tộc Li sống trong các ngôi làng độc lập, trải rộng, được đề cập đến bởi các viên chức đế triều như “các thổ phỉ” (bandits). Dọc theo biên giới Trung Hoa – Việt Nam ngày nay, về phía tây, sắc dân Wuhu ăn thịt người lảng vảng, bị tố giác tấn công và ăn thịt các du khách lẻ loi mà chúng bắt gặp. Nằm giữa Quảng Đông và Quảng Tây ngày nay là nơi sinh sống của sắc dân “Wenlang hoang dại” (danh xưng trong Kanji (hán tự) giống hệt một cách đáng chú ư với vương quốc Văn Lang trong truyền thuyết của Việt Nam thời Đông Sơn, ngoại trừ sự kiện rằng họ được mô tả giờ đây là “hoang dại”), các kẻ đă ngủ trong rừng mà không có các ngôi nhà thường trực, ăn thịt sống, và thu nhặt trầm hương để trao đổi. Tại tỉnh duyên hải Quảng Đông, xem ra cũng có xảy ra một sự mua bán nô lệ sống động “dân bản xứ” kéo dài măi cho đến cuối nhà Đường. 25
Các dân bộ tộc không bị đồng hóa hay bị đồng hóa một phần hiển nhiên có rất nhiều tại vùng Lĩnh Nam trong suốt thời kỳ được đề cập tới trong quyển sách này, nhưng không có sự liên kết cá biệt nào giữa các bộ tộc bản xứ này với lănh thổ sau hết đă trở thành Việt Nam. Thay vào đó, khu vực thung lũng sông Hồng của Việt Nam ngày nay đă có lần tạo thành một vùng nào đó như thể một ốc đảo của nghi lễ Trung Hoa.
ĐẾ QUỐC MỒ CÔI
Á Châu Ven Biển Trong Thế Kỷ Thứ Sáu
Giao Chỉ và khu vực thung lũng sông Hồng đă là một nơi ẩn náu cho các người Trung Hoa tỵ nạn lưu vong trong suốt các năm sau cùng đầy xáo trộn của triều đại nhà Hán. Tuy nhiên, như một ḥn đảo của sự ổn định giữa một sự sụp đổ bao quát, miền này ít có sự lựa chọn ngoài việc đảm nhận sáng kiến trong việc duy tŕ chính quyền tự trị tại địa phương, bởi trong thực tế sẽ sớm không c̣n đế quốc nào để bị lệ thuộc một cách trung thành.
Thái thú của Giao Chỉ, từ năm 187 cho đến khi từ trần vào năm 226, có tên là Shi Xie (Sĩ Nhiếp) (137-226). Các tổ tiên của ông ta được cho rằng là các kẻ bản gốc tại tỉnh Sơn Đông (Shandong), các kẻ đă chạy trốn xuống phía nam đến vùng Lĩnh Nam trong khoảng thời gian không có vua giữa thời Tiền và Hậu Hán (9-25 sau Công Nguyên). Các sự tuyên nhận về tổ tiên ở vùng Trung Nguyên như thế là chuyện điển h́nh đối với các thân hào miền nam, v́ thế sự quy chiếu không nên đượcc xem là nhất thiết chính xác – nhưng không hẳn là không thể không thực sự như thế. Trong thực tế, điều đó có thể hoàn toàn chính xác. Trong bất kỳ trường hợp nào, cá nhân Sĩ Nhiếp xem vùng Cangwu, gần biên giới giữa các tỉnh Quảng Tây và Quảng Đông ngày nay, là quê quán của ông ta, và cha của ông đă từng có thời đảm nhận chức vụ thái thú tại quận Ri’nan (Nhật Nam) thuộc miền trung Việt Nam ngày nay, v́ thế Sĩ Nhiếp có thể hay nhất được xem đơn giản như một người bản xứ Lĩnh Nam, mà ở vào thời điểm đó, vẫn chính thức là một miền thống hợp duy nhất của đế quốc, được cai quản trên lư thuyết từ Giao Chỉ bởi một viên thanh tra cấp miền. Sĩ Nhiếp theo học các kinh điển khi c̣n bé tại kinh đô đế triều nhà hán, và ông ta là một nhân vật sống theo cung cách Trung Hoa triệt để.
Từ ngữ “vương” (king) cũng c̣n được dùng để chỉ thời nhậm chức của Sĩ Nhiếp tại Giao Chỉ. Ông ta trong thực tế chắc chắc giữ quyền tự trị. Các anh em và một người anh (em) họ của ông đă phục vụ như các tổng đốc của Quảng Tây và Quảng Đông, và gia tộc họ Sĩ đă tiến tới việc thực sự thực hành một sự cai trị triều đại độc lập khắp vùng Lĩnh Nam. Như đă sẵn được ghi nhận, sư tương tự với vị thế của gia tộc Gongsuns tại vùng Liêu Đông (Liaodong) cùng thời được nh́n thấy rơ. Giống như gia tộc Gongsuns, các kẻ được biết tiếp tục đệ tŕnh các báo cáo hàng năm lên nhà Ngụy thời Tam Quốc ngay dù vẫn duy tŕ nền độc lập trong thực tế, Sĩ Nhiếp cũng cẩn thận giữ lại bề ngoài thần phục triều cống trước quyền lực đang lên của nhà Ngô thời Tam Quốc đặt tổng hành dinh tai phương bắc. 26
Sau khi các tin tức về sự từ trần của Sĩ Nhiếp về đến triều đ́nh nhà Ngô thời Tam Quốc năm 226, Giao Châu (Jiaozhou) – địa hạt hành chính “châu Giao” thời đế triều nhà Hán khổng lồ bao gồm tất cả vùng Lĩnh Nam – lần đầu tiên đă chính thực được phân chia, ở gần biên giới Trung Hoa – Việt Nam ngày nay, thành hai miền nhỏ hơn (mặc dù vẫn c̣n khá rộng lớn), với tên được đặt lại là Giao Châu và Quảng Châu (Guangzhou). Bởi theo thông tục tại Trung Hoa đế triều hay chỉ danh cả các khu vực hành chính lẫn kinh đô của chúng bằng cùng một tên, đây chính là nguồn gốc lịch sử của danh xưng Hán tự hăy c̣n được sử dụng ngày nay cho thành phố được biết đến là Canton trong Anh ngữ: tức Quảng Châu. Khi đó, danh xưng Giao Châu để chỉ (đôi khi gây nhầm lẫn) hoặc một hay cả toàn vùng thuộc miền bắc Việt Nam bây giờ lẫn thủ phủ hành chính của nó gần Hà Nội hiện đại. Mặc dù Giao Châu và Quảng Châu sẽ lại sớm được tái thống hợp (một cách ngắn ngủi) sau năm 264, sự phân chia được phục hồi và trở thành vĩnh viễn. 27
Giao Châu, tại phía nam xa xôi, vốn sẵn ngoan cường, tự tách xa khỏi nhà Ngô thời Tam Quốc bằng cách tuyên xưng sự trung thành của ḿnh, thay vào đó, trước các đế triều Trung Hoa cạnh tranh xa hơn về phía bắc. Trong thời kỳ lâu dài chia cắt Trung Hoa, các chính quyền của các Nam Triều có khuynh hướng bị khống chế bởi các đại gia tộc xuất cảnh từ phương bắc chạy trốn các cuộc chinh phục “của dân mọi rợ” tiến vào vùng Trung Nguyên trong thế kỷ thứ tư. Người Trung Hoa phương nam bản xứ có vị thế quan trọng ở địa phương có khuynh hướng bất măn sâu xa trước sự khống chế của khối di dân nhập cảnh này. Tại Giao Châu, tuy thế, t́nh h́nh th́ khác biệt. Ở nơi đó, giai đoạn bốn mươi năm bán độc lập của Sĩ Nhiếp vào lúc cuối thời nhà Hán đă thiết lập một khuôn mẫu của quyền tự trị của đại gia tộc địa phương. 28 Chế độ tự quản cấp miền này dần trở nên vững chắc hơn và đă lên đến cực điểm vào năm 541 khi một thân hào địa phương có tên là Lư Bí (mất năm 548) đă đi đến việc công khai nổi dậy chống lại nhà Lương thời Các Nam Triều.
Tổ tiên của họ Lư được giả định di chuyển đến vùng Lĩnh Nam từ Trung Nguyên vào cuối thời Tiền Hán và qua nhiều thế kỷ đă bị biến đổi thành dân phương nam “bản xứ” . Được khích lệ bởi một số cuộc chiến thắng quân sự ban đầu, họ Lư tự tuyên xưng làm “hoàng đế của Nam Việt” (phục hồi danh xưng vương quốc Nam Việt xưa kia của Triệu Đà) trong năm 544 và bắt đầu tổ chức một chính quyền đế triều theo kiểu Trung Hoa. Nhưng nỗ lực này bị cho thấy là quá sớm, bởi Lư Bí đă bị đánh thảm bại bởi một đội quân đế triều nhà Lương vào các năm 545-546 và mất đi không lâu sau đó. Các thân nhân và tướng lănh của họ Lư tiếp tục một cuộc chiến tranh du kích kéo dài từ các căn cứ địa ở các vị trí xa xôi và không thể tiếp cận được cho măi đến năm 550, khi đội quân nhà Lương được gọi về để đói phó với các mối quan tâm quân sự khẩn cấp hơn, xa hơn nơi vùng viễn bắc. Triều đại nhà Lương suy sup mau chóng, và nó được thay thế bởi triều đại nhà Trần c̣n yếu kém hơn vào năm 557. Trong phần c̣n lại của thế kỷ, Giao Châu đứng bên ngoài sự đô hộ của đế triều, dưới sự cai trị của gia tộc họ Lư độc lập. Tuy nhiên, vào năm 602, một đội quân từ triều đại nhà Tùy vừa mới tái thống nhất đă phá tan quân đội của vị hoàng đế họ Lư và cưỡng đặt sự tái thần phục của Giao Châu. 29
Kể từ lúc kết thúc triều đại nhà Hán, khu vực thung lũng song Hồng nhờ đó đă thụ hưởng một truyền thống kéo dài của sự không lưu ư của đế tŕều, chỉ với các vụ bùng nổ tích cực hiêm hoi để can thiệp từ các đế quốc phương bắc. Sự việc này phủ chùm bởi nửa thế kỷ độc lập chính thúc trên danh nghĩa y như là một đế quốc với chủ quyền của riêng ḿnh; và mặc dù triều đại nhà Tùy đă tái thiết lập bằng bạo lực thẩm quyền đế triều phương bắc tại Giao Châu trong năm 602, chính nhà Tùy đă sớm bị lật đổ bởi triều đại nhà Đường trong năm 618, một biến cố đă đưa lại các cơ hội mới cho các người hùng địa phương để xác quyết sự độc lập của họ.
Viên chức nhà Tùy được phái đi từ Trung Nguyên vào khoảng năm 616 để làm thái thú Giao Châu đă có khả năng duy tŕ vững chắc một sự kiểm soát địa phương ở đó, nhưng sau khi triều đại nhà Tùy sụp đổ, ông ta tất nhiên phải làm giữ vững thẩm quyền riêng của ḿnh, cho đến thời điểm khi mà chế độ nhà Đường mới đă thiết định lại quyền lực đế triều tập trung đủ mạnh để có thể hướng sự chú ư trực tiếp nghiêm chỉnh đến vùng đất xa xôi ở cực nam. Triều đ́nh nhà Đường sau hết đă phái một quan kinh lược sang giám sát khu vực, nhưng nhà Đường cũng tái thừa nhận viên thái thú nhà Tùy trước đây tại Giao Châu làm vị tổng chỉ huy khu vực rông lớn của nhà Đương. Nhân vật này xem ra đă cai trị một cách hữu hiệu Giao Châu cho đến khi từ trần vào năm 637. Song, trong khi Giao Châu đă nhất quyết thụ hưởng một sự tự trị đáng kể trong suốt nhiệm kỳ của ông ta, điều đáng ghi nhận rằng ông ta trong bất kỳ khía cạnh nào không phải là một người đia phương mà đúng hơn là kẻ mới nhập cư gần đó từ Trung Nguyên. 30 Nền độc lập của Việt Nam trong thời kỳ này mang h́nh thức sự cai trị của một cá nhân mạnh mẽ trên một mảnh đất của đế quốc Trung Hoa.
T́nh trạng này cũng không phải có tính chất độc nhất đối với Việt Nam. Ngay phía bắc Giao Châu, tại tỉnh Quảng Tây ngày nay, một thủ lĩnh bộ tộc đă được bổ nhiệm làm tổng đốc vào lúc cuối của triều đại sau cùng của nhà Tùy. Ông ta được kế nhiệm bởi người con trai, và, với sự trợ lực của các chứng bệnh nhiệt đới đă diệt bớt các đội quân nhà Tùy xâm lăng, họ đă kháng cự thành công cuộc tấn công của nhà Tùy. Thay v́ bị thống trị trực tiếp bởi nhà Tùy, họ đă chỉ được chiêu mộ như các kẻ phụ tá đồng minh. Trong khả năng này, họ đă trợ giúp nhà Tùy trong chiến dịch của nó chống lại xứ Chàm ở vùng viễn nam và xứ Liêu Đông tại miền đông bắc. Sau khi nhà Đường thay thế nhà Tùy, họ đă hàng phục nhà Đường và được tưởng thưởng với sự tái bổ nhiệm như tổng chỉ húy sứ địa phương của nhà Đường. 31 Các lănh tụ mạnh mẽ này cũng không kém độc lập như vị thủ lănh tại Việt Nam (Giao Châu) vào thời điểm này và thực sự có tính chất “bản xứ” nhiều hơn.
T́nh trạng tai Quảng Châu c̣n đáng chú ư hơn nữa. Nhân vật nổi bật ở đó là Feng Ang (mất năm 649) . Họ Feng nhận là hậu duệ của các nhà lănh đạo của triều đại Bắc Yan (Northern Yan) vắn số (408-437) ở phương đông bắc xa xôi là những kẻ được giả định đă chạy trốn sang Koguryo, và từ đó một thế hệ sau, đă quay trở về Trung Hoa bằng đường biển với 300 tùy tùng, tự định cư tại miền viễn nam thuộc Quảng Châu. Bà của Feng Ang, được gọi là Qiao quốc Phu Nhân (Qiao guo furen: lady of Qiao), phát sinh từ một gia đ́nh các tù tù trưởng người Việt thế tập có kết hôn hợp chủng với các người họ Feng. Bà ta đă đóng một vai tṛ quyết định trong việc đem Lĩnh Nam nhập vào triều đại nhà Tùy với ít sự kháng cự vào cuối thế kỷ thứ sáu, kết quả là sự tưởng thưởng theo đó người cháu trai của bà, Feng Ang, được bổ nhiệm làm một quan chức của nhà Tùy. 32
Trong khoảng giữa các sự xác quyết thực sự quyền lực đế quốc của nhà Tùy và nhà Đường, Feng Ang đă nắm lấy sự kiểm soát quân sự trên phần lớn vùng đất giờ đây là tỉnh Quảng Đông, đảo Hải Nam, và một phần của Quảng Tây. Vào lúc đó, một đề nghị được đưa ra cho họ Feng rằng ông ta nên tái tuyên xưng tước hiệu cũ của Triệu Đà làm “vua Nam Việt”, nhưng thay vào đó, ông ta đă thần phục kính cẩn hơn đối với nhà Đường vào năm 622. Tuy nhiên, sự thần phục của ông hẳn có nhiều tính cách h́nh thức hơn, bởi nhà Đường sau đó đă phong tước cho ông làm quận công nước Việt, và ông ta đă có thể duy tŕ một mức độ tự trị trong thực tế khá lớn từ căn cứ quyền lực của ông tại Quảng Đông. Họ Feng đă vun đắp một phong thái cá nhân của một sứ quân -- giống như một vơ sĩ samourai của Nhật hay một hiệp sĩ Tây Phương hơn là một quan lại kiểu Trung Hoa – và ông ta được nói đă sở hữu hơn 10,000 gia nhân và một ngân quỹ khổng lồ. Trong phần tư thứ nh́ của thế kỷ thứ bẩy, một trong các thân nhân của ông được nói đă đă đến triều đ́nh đế quốc nhà Đường theo sau bởi một chiếc thuyền chất đầy vàng. 33
Hiện tượng phổ biến của sự thống trị thế tập của đại gia tộc địa phương tại Lĩnh Nam đă không bị trấn áp măi cho đến nửa sau của thế kỷ thứ bẩy và nửa đầu của thế kỷ thứ tám; sự nghiệp của gia tộc họ Feng, thí dụ, có vẻ chỉ phải chịu một cú đánh gần chết vào năm 698. 34 So sánh với lănh địa của gia tộc họ Feng phóng túng tại Quảng Đông, Giao Châu, tại nơi giờ đây là Việt Nam, chỉ là một phần tương đối b́nh lặng và bị Hán hóa của đế quốc nhà Đường. Tuy nhiên, nó cũng dần trở nên một t́nh trạng ǵ đó của một sự đ́nh trệ về kinh tế.
Giao Chỉ, tại thung lũng sông Hồng, đă từng là một thành phố hàng đầu của Lĩnh Nam thời nhà Hán, nhưng thành phố cạnh tranh cổ xưa của nó, Quảng Châu (Canton), đă được phục hoạt sau năm 226. Mậu dịch đường biển, ngày càng liên hệ nhiều hơn với các đảo nằm phía đông của Đông Nam Á, cũng đă có khả năng gia tăng trong việc hải hành một cách can đảm xuyên qua đại dương trực tiếp đến Quảng Châu thay v́ phải rụt rè ḅ theo bờ biển ngang qua Giao Châu. Các đường mậu dịch trên đất liền, mà trong thời nhà Hán, ít nhiều đi theo hướng bắc từ Giao Chỉ lên đến các kinh đô đế triều nhà Hán ở phía tây bắc, đă chuyển hướng sang phía đông xuyên qua Quảng Châu trên đường đi đến kinh đô mới của các Nam Triều, gần địa điểm của Nam Kinh ngày nay. Quảng Châu đang trở nên quan trọng hơn như một trung tâm mậu dịch so với Giao Châu. Một học giả hiện đại đă ước lượng rằng Quảng Châu đă vượt qua mặt Giao Châu như một đầu mối của mậu dịch hàng hải quốc tế trong các thế kỷ thứ bẩy và thứ tám. Khu vực thung lũng sông Hồng, dưới bất kỳ danh xưng nào, không bao giờ dành lại được hào quang thương mại trước đây của ḿnh. 35
Sự di chuyển dân số vào miền Lĩnh Nam từ vùng trọng địa đế triều phương bắc suốt thời nhà Đường cũng có chiều hướng thuận lợi cho sự tăng trưởng dân số tại miền bắc Quảng Đông so với khu vực thung lũng sông Hồng ở cực nam. Vào thời kỳ nhà Tùy (thống nhất 589-618), một chỉ huy bộ bao gồm thành phố Quảng Châu đă sẵn có một dân số ghi danh lớn hơn chỉ huy sứ bao gồm đất Giao Châu – một sự đảo ngược sự cân bằng tương đối dưới thời nhà Hán xa xưa. 36
Ngoài ra, Giao Châu đang trở nên một điều ǵ đó giống như một đầu mỏm biệt lập của quyền lực đế triều, bị bao quanh bởi các kẻ thù ngoại quốc hung hăng. Vương quốc Đông Nam Á chịu ảnh hưởng Ấn Độ nặng nề, xứ Chàm, tại biên giới phía nam của Giao Châu thuộc phần giờ đây là miền trung Viêt Nam, đă là một mối đe dọa quân sự thường xuyên, khởi đầu đặc biệt trong thế kỷ thứ tư và thứ năm. Thành lũy nhà Đường tại Giao Châu đă bị lục soát nhiều lần, thí dụ, trong năm 767, nó đă thất thủ trước quân cướp biển đến từ Java. Từ giữa thế kỷ thứ 9, Giao Châu cũng c̣n bị đe dọa một cách nghiêm trọng bởi sự trổi dậy của vương quốc Nam Chiếu (Nanzhao), tọa lạc ngay sát phía tây bắc của nó, trong tỉnh Vân Nam ngày nay. Hai cuộc chiếm giữ của Nam Chiếu vào đất Giao Châu của nhà Đường được nói đă gây ra một sự tổn thất đến 150,000 người. 37
Hơn nữa, về mặt địa lư, Giao Châu bị cắt rời khỏi đế quốc, chỉ có thể tiếp cận trên đất liền xuyên qua các nút thắt chật hẹp được tượng trưng bởi cửa ải được gọi là Quỷ Môn Quan (gui men guan) thuộc Quảng Tây ngày nay, gần biên giới với Quảng Đông, nơi mà hai núi đá đốí diện tạo thành một cổng thiên nhiên. Bởi khí hậu nhiệt đới độc hại của Giao Châu, sự tin tưởng thông thường cho rằng những ai mạo hiểm đi ngang qua cửa ải sâu xuống phương nam “hiếm khi c̣n sống sót để quay trở về”. Khi sự chú tâm của đế triều nhà Đường bị bối rối bởi một cuộc nổi dậy tai họa tại miền bắc Trung Hoa khoàng giữa thế kỷ thứ tám (cuộc nổi loạn của An Lộc Sơn (An Lushan), các người hùng bộ tộc đă nắm giữ sự kiểm soát phần lớn tỉnh Quảng Tây ngày nay, đă thiết lập nhiều lănh địa nhỏ bé, và cắt đứt sự giao thông trên đất liền giữa các trung tâm đô thị của nhà Đường tại Quảng Châu và Giao Châu trong khoảng từ 756 đến 771. 38
Giao Châu cũng c̣n bị xâm hại bởi các cuộc nổi dậy của bộ tộc trong nội bộ, mặc dù không nhất thiết nhiều hơn các phần khác của Lĩnh Nam. Trong năm 687, thí dụ, một viên tướng bảo hộ đă bị giết chết khi kế hoạch áp đặt thuế xuất hoàn toàn kiểu Trung Hoa trên dân bộ tộc Li của Lĩnh Nam bị phản đối và làm khơi dậy một cuộc nổi loạn. Ông bị bao vây tại thành phố Giao Châu không có đủ binh sĩ cho sự tự pḥng vệ và bị giết chết khi viên thủ lănh cứng rắn của gia tộc họ. Feng cố t́nh kiềm giữ lại các lực lượng tăng phái. 39
Trong sự thừa nhận các t́nh trạng biên giới độc nhất tại Giao Châu, vào năm 679, Giao Châu đă được tách rời thành trụ sở của một “An Nam Đô Hộ Phủ” (protectorate of the peaceful south) của nhà Đường. Sáng kiến này được song hành bởi sự thiết lập các đô hộ phủ tương tự tại mỗi trong các vùng biên giới đế triều trọng yếu khác. Quan chức tổng chỉ huy đô hộ của “miền nam đă được b́nh định” (tiêng Hán là Annan; tiếng Việt: An Nam), chính từ đó đă gia nhập vào ngữ vựng của chúng ta để trở nên danh xưng tiêu chuẩn tiền thế kỷ thứ mười chín chỉ Việt Nam) đă được ủy nhiệm, đặc biệt, để giám sát “việc b́nh định, khuất phục, và tuần tra” các bộ tộc phi Trung Hoa nằm trong quản hạt thẩm quyền của ḿnh. 40
Tuy nhiên, Giao Châu (hay An Nam) vào cuối thời nhà Đường bị đe dọa gần như không kém bởi các đội quân đế triều nổi loạn cũng như bởi sự bất ổn từ các bộ tộc và các đội quân ngoại lai. Thí dụ, trong năm 803, binh sĩ đế triều được dùng trong việc tu bổ các công sự pḥng thủ của thành phố đă nổi loạn, trục xuất viên chức chỉ huy đô hộ phủ. Trong năm 843, khi viên vơ quan của An Nam [đô hộ phủ] đem binh sĩ của ông đi làm việc tái thiết các bức tường thành, họ lại nổi loạn một lần nữa, đốt cháy thành phố, cướp phá công quỹ, và đánh đuổi viên vơ quan này về lại Quảng Châu. Trong năm 877, một đội quân các binh sĩ An Nam đồn trú tại vùng ngày nay là tỉnh Quảng Tây đă nổi loạn, đánh đuổi quan chức giám sát họ. Trong năm 880, đội quân tại kinh đô Giao Châu một lần nữa nổi loạn, khiến cho viên vơ quan phải chạy trốn khỏi thành phố. 41
Giao Châu thời nhà Đường là một nhiệm sở không được ưa thích. Trong năm 628, một đại nhân sĩ đă thẳng thừng cự tuyệt một sự bổ nhiệm đế triều trực tiếp đến cai trị Giao Châu với lư do rằng khí hậu ở đó th́ quá độc hại đến nỗi ông không bao giờ có thể sống sót để quay trở về. Nói chung, Lĩnh Nam vẫn c̣n bị xem là một nơi lưu đày xa lạ và ghê gớm. Bị cô lập và bao quanh bởicác sự đe dọa quân sự ngoại lai đáng kể, với tiếng tăm về các chứng bệnh nhiệt đới thường gây chết người, và ngày càng bị che khuất bởi sự vươn cao của Quảng Châu (Canton), Giao Châu là một vấn nạn gia tăng của đế triều. Song vào cuối thế kỷ thứ tám, đế quốc nhà Đường gặp quá nhiều khó khăn tại nhiều nơi. Ít nhất, cho đến tận năm 792, một đại thần hàng đầu trong triều vẫn c̣n có thể tranh luận chống lại các chính sách ưu đăi Quảng Châu trước An Nam (Giao Châu), lập luận rằng cả hai đều là “đất đai của nhà vua” như nhau. 42
Từ nửa sau của thế kỷ thứ tám, nhiều bộ chỉ huy cấp miền của nhà Đường đă trở nên các căn cứ địa thực sự độc lập. Trong năm 904, một người tên là Liu Yin (mất năm 911) được bổ nhiệm làm vơ quan của vùng Lĩnh Nam, với căn cứ đặt tại thành phố Quảng Châu của ông ta. Sau khi có sự từ trần của ông và sự tan ră chung cuộc của nhà Đường vào năm 907, người em trai của ông tuyên bố sự thành lập một đế quốc mới đặt căn cứ tại Quảng Châu trong năm 917 mà ông ta gọi là “Đại Việt” (Great Yue hay Great Viet), phục hồi kư ức về vương quốc Nam Việt của Quảng Châu độc lập ngày xưa của Triệu Đà. Tuy nhiên, một năm sau đó, ông ta đă đổi quốc hiệu của đế quốc mới của ḿnh thành nhà “Nam Hán” (Southern Han), hiển nhiên hy vọng lợi dụng được các hồi ức về sư huy hoàng to lớn hơn nhiều và tư cách đế triều chính thống của triều đại nhà Hán nguyên thủy, triều đại mà tên họ của hoàng tộc ngẫu nhiên trùng hợp với họ của chính ông ta. 43
Trong khi quyền lực của gia tộc họ Lưu tại Quảng Châu bắt đầu được củng cố, viên chỉ huy quân sự của Giao Châu, Khúc Hạo (mất năm 908), đă gửi người con trai đến Quảng Châu ở phương bắc để thăm ḍ. Kế nhiệm chức vụ của người cha, người con trai này đă khôn khéo dùng quyền lực đế triều của nhà Nam Hán ở Quảng Châu để chống lại nhiều đế triều cạnh tranh khác, mới nổi lên tại phương bắc cho đến năm 930, khi nhà (Nam) Hán sau hết đă phái một đội quân sang đập nát sự xấc láo này của Giao Châu. Hậu quả là một cuộc đấu tranh quyền lực đẫm máu tại Giao Châu đă chỉ chấm dứt vào năm 938, khi Ngô Quyền (mất năm 944) nắm giữ được quyền lực ở địa phương, nhử một đoàn thuyền xâm lăng của Nam Hán mắc kẹt vào các chiếc cọc bọc đồng ở đầu mũi, hủy diệt đoàn tàu, và tự xưng là vua. 44 Việt Nam (dù khi đó chưa được biết đến là Việt Nam) sau cùng đă độc lập, lần này, như sự việc diễn tiến, (gần như) thường trực.
Trong diễn tiến hơn ngh́n năm của sự đô hộ đế triều, khu vực thung lũng sông Hồng đă sẵn thụ hưởng lâu dài nhiều sự tự trị trong thực tế, và đôi khi công khai tuyên bố độc lâp. Tuy nhiên, sự tự quản địa phương, trong trường hợp này không có nghĩa rằng toàn thể dân chúng địa phương đă tự quản theo một vài phương cách dân chủ, mà chỉ có nghĩa rằng họ đă được cai trị bởi các gia tộc của các nhân vật cứng cỏi ở địa phương hơn là các vị hoàng đế phương bắc xa xôi. Sự kiện rằng Việt Nam sau hết đă có thể trở thành những ǵ mà chúng ta nghĩ ngày nay như một “dân tộc” cách biệt hoàn toàn, trong khi các hậu duệ của các sắc dân Việt (Yue) rất tương đồng tự nguyên thủy tại các tỉnh Chiết Giang, Phúc Kíến, Quảng Đông, và Quảng Tây ngày nay đă trở thành “người Trung Hoa” thay vào đó, được xác định phần lớn bởi các yếu tố địa dư: Đế Quốc nhận thấy khó khăn và ngày càng không đáng để phóng chiếu quyền lực hành chính hữu hiệu liên tục vào mỏm đất xa xôi và đáng sợ này. 45
Cả tham vọng và các công cụ chính trị để tạo lập một đế quốc độc lập tại Việt Nam được cung ứng bởi kinh nghiệm đă từ ng là một bộ phận lâu dài của đế quốc Trung Hoa. Rất giống như chủ nghĩa đế quốc của Tây Phương trong thời hiện đại đă khiêu dậy một phản ứng dưới h́nh thức các phong trào độc lập chống thực dân trên toàn thế giới, di sản của “sự thống trị đế quốc thời tiền hiện đại của Trung Hoa … đă phát huy chủ nghĩa dân tộc của Việt Nam”, 46 ngoại trừ tên gọi “chủ nghĩa dân tộc” chưa phải là tên gọi đúng cho thế kỷ thứ mười. Các nhà lănh đạo Việt Nam mới độc lập vẫn c̣n là các đại gia tộc địa phương theo kiểu Trung Hoa, vẫn hiếm khi ít “tính Trung Hoa” hơn các đối tác của họ tại Quảng Châu, nhưng giờ đây cương quyết tạo lập một “nước thống nhất của chính họ [All-under-Heaven trong nguyên bản, là thành ngữ trong Hán tự: Thiên Hạ Nhất Gia, chú của người dịch] tại phương nam. Từ ngữ “dân tộc” [nation trong nguyên bản tiếng Anh, thường bị dùng lẫn lộn với từ “quốc gia; state”, chú của người dịch] Việt Nam hiện đại hẳn chưa được h́nh dung tới.
Sau khi Ngô Quyền nắm giữ quyền kiểm soát trên vùng này trong các năm 938-939, ông chỉ sống thêm được năm năm nữa. Sự cai trị của gia tộc họ Ngô bị thách đố sau khi có sự từ trần của Ngô Quyền bởi cả tá các sứ quân địa phương khi đó, và phải chờ măi đến khi có sự trổi vượt của Đinh Bộ Lĩnh (923-979) khoảng năm 965, một mực độ thống nhất mới được văn hồi tại thung lũng sông Hồng. Khi nhà Tống tái thống nhất (960-1279) tại phương bắc sau hết đă nới dài quyền lực đế triều Trung Hoa mới được tái tập trung xuống phía nam đến tận Quảng Châu, trong năm 971, con trai của Đinh Bộ Lĩnh, tại Việt Nam, được phong làm một chức quân sự và chỉ huy đất bảo hộ của nhà Tống, và trong năm 975, chính Đinh Bộ Lĩnh được phong chức làm “vua chỉ huy bộ Giao Chỉ”. Chế độ tự trị của Việt Nam chính v́ thế đă được thai nghén, ít nhất bởi triều đ́nh Trung Hoa, như vẫn nằm trong khuôn khổ b́nh thường của hệ thống tấn phong đặt trung tâm ở Trung Hoa với tư cách một vương quốc chư hầu của đế triều. 47
Điều này khởi thủy có thể chỉ được nghĩ tới như một biện pháp chống đỡ tạm thời cho đến khi nào quyền lực quân sự nhà Tống đủ mạnh để tái chiếm trực tiếp Giao Châu. Trong thực tế, sự xâm lăng được dự tính bởi vị hoàng đế thứ nh́ của nhà Tống, nhưng ông bị ngăn cản bởi lời khuyến cáo của một quan chức rằng “Giao Chỉ th́ nóng như thiêu đốt và đầy bệnh truyền nhiễm; hai mươi đến ba mươi phần trăm binh sĩ của chúng ta sẽ chết trước khi nh́n thấy sự giao tranh. Ngay dù chúng ta có chiếm đoạt được vùng đất này, chúng ta sẽ không có thể giữ được nó.” Sau cùng, đế quốc nhà Tống phải chấp nhận một sự thần phục triều cống trên h́nh thức của Việt Nam, và, ngoại trừ một thời khoảng ngắn ngủi của sự chiếm đóng quân sự tái lập hồi đầu nhà Minh, được chứng tỏ là cực kỳ lăng phí, sự kiện này trở thành sự bố trí đế triều Trung Hoa sau cùng đối với Việt Nam. 48
Chính quyền Việt Nam mới độc lập bắt chước các đặc tính then chốt của trật tự Trung Hoa, thiết lập các tiểu chư hầu của chính ḿnh, hệ thống thư lại, và hệ thống khảo hạch Khổng học ba năm một lần. Sau khi độc lập, Việt Nam đă duy tŕ lâu dài nhiều tiêu chuẩn đế triều Trung Hoa cổ xưa về trọng lượng và các số đo lường và trong thương mại tiếp tục sử dụng tiền tệ nhà Đường và nhà Tống. Văn hóa Khổng học được phát triển tại Việt Nam, điều gần như sẽ được nói, đặc biệt sau khi có sự củng cố nền độc lập chính trị của nó, và trong các thế kỷ ban đầu, hai chế độ quân chủ đă có thể giao hoán với nhau đủ mức cho thấy rơ ràng không phải là điều khác thường để cho người Trung Hoa miền nam xuất cảnh sang Việt Nam và bước vào việc phục vu chính quyền ở đó. 49
Dĩ nhiên, cùng lúc nước Việt nam mới độc lập này có sự tiếp xúc liên tục trực tiếp với vùng Đông Nam Á cũng như với vùng Đông Á. Khi Việt Nam dần dần mở rộng lănh thổ đế quốc của chính ḿnh xuống phía nam, chiếm đóng gần như toàn thể phân nửa phía nam của vùng giờ đây là Việt Nam trong khoảng giữa thế kỷ thứ mười sáu và mười chín, hỗn hợp dân chúng của nó cũng được làm phong phú một cách lớn lao bởi sự bổ túc của dân Chàm và Khmer và nhiều thành phần khác biệt khác phi Trung Hoa và chưa bị Hán hóa. Đế quốc Việt Nam được mở rộng lớn lao này tự bản thân bị phân hóa chính trị về mặt nội bộ gần như liên tục từ năm 1527 cho đến 1802. Khi, vào lúc khởi đầu thế kỷ thứ mười chín, vị hoàng đế vĩ đại Gia Long (trị v́ từ 1802 đến 1820) thống nhất toàn vùng, với nhiều ngoại viện, từ căn cứ phương nam của ông tại Sàig̣n, ông ta, trong một số ư nghĩa ‘đă kết tập thành một vương quốc … chưa từng hiện diện trước đó.” 50
Các nỗ lực hoàn toàn rơ ràng của tân đế quốc thế kỷ thứ mười chín này (sau chót, lần đầu tiên giờ đây thực sự được gọi là “Việt Nam”) để sao chép các kiểu mẫu định chế Trung Hoa đă tương phản một cách sâu sắc với sự khẳng quyết đồng thời ở đó về các quan điểm bản xứ phổ thông khác biệt. Thí dụ, danh hiệu “hoàng đế” Trung Hoa tiêu chuẩn (Hoàng đê trong cách phát âm của tiếng Việt nhưng được viết bởi cùng Hán tự (kanji) giống nhau, được chính thức sử dụng tại Việt Nam thế kỷ thứ mười chín cùng với danh xưng bản xứ là Vua [tiếng Việt trong nguyên bản, chú của người dịch], từ ngữ không có tiếng tương đương trong tiếng Hán. 51
Tuy nhiên, một sự khác biệt như thế giữa văn hóa thượng lưu và văn hóa b́nh dân bản xứ là chuyện b́nh thường -- trong thực tế, ([là] một kỳ vọng nền tảng của thế giới Đông Á thời tiền hiện đại – ngay cả trong pham vị của chính đế quốc Trung Hoa, mặc dù được giả định ở một mực độ phần nào ít hơn. Tại cả Hàn Quốc lẫn Nhật Bản, cũng có sự tác động lẫn nhau tương tự một cách nổi bật giữa các tước hiệu bản xứ cổ xưa hơn và các tước hiệu hoàng gia Trung Hoa mới được du nhập, ít nhất trong các thời kỳ ban đầu. Tại ngay chính Trung Hoa, vương quốc nhà Chu miền nam cổ thời cũng có thể đă tôn trọng một “sự sử dụng song hành tương tự các danh hiệu bản xứ và miền bắc” trong nhiều thế kỷ. 52
Các t́nh huống tại Việt Nam trong thế kỷ thứ mười chín có tính chất độc đáo không thể chối căi được, nhưng mọi nơi tại Đông Á đều có nét độc đáo. Sẽ là một sự nhận thức sai lạc về bằng chứng (từ một quan điểm dân tộc chủ nghĩa hiện đại mang vẻ tự nhiên và tính bất biến của các dân tộc bản địa) để kết luận một cách đơn giản rằng các tầng lớp văn hóa như thế là chứng cớ của tính chất ngoại lai của các ảnh hưởng của Trung Hoa, xâm phạm một số bản chất dân tộc Việt Nam trường cửu, và do đó, nhất thiết sẽ bị bác bỏ một ngày nào đó như các sự áp đặt ngoại lai không được đón tiếp. Chân lư mọi việc, mọi nơi, phải hoặc là mới hoặc từng có thời là ngoại lai. Tước hiệu “chủ tịch” theo kiểu Tây phương hiện đại của Hồ Chí Minh, sau năm 1945, đâu có kém xa lạ hơn tước hiệu “hoàng đê’ kiểu Trung Hoa cổ xưa. Trong thực tế, ở thế kỷ thứ hai mươi, “các hoàng đế” đă trở thành một phần của truyền thống Việt Nam./-.
___
CHÚ THÍCH:
1. Các mối quan hệ giữa Việt Nam, Lĩnh Nam, và Trung Hoa thời đế quốc ban sơ được khảo sát trong bài viết của Holcombe, “China’s Deep South”.
2. Bellwood, trang 269; Higham, các trang 37-38, 90, 94, 96, 108-109, 324; Lu Shipeng, trang 2.
3. Việt Sử Lược, 1.12. Tính chuyên hữu (appropriation) có tính chất dân tộc chủ nghĩa của Văn Lang được thảo luận trong sách của tác giả Taylor, Birth of Vietnam, các trang 3-4.
4. Về các tài liệu ban sơ sơ sài, xem Maspero, “Văn Lang”, các trang 2-4, 7-8; Rao Zongyi, trang 628. Muốn có một khảo hướng khảo cổ, xem Higham, các trang 133-134.
5. Đại Việt Sử Kư Toàn Thư, ngoại kỷ, 1.100; Shui jing zhu, 37.694; Việt Sử Lược, 1.1a. Muốn có một cuộc thảo luận hiện đại xem Lu Shipeng, trang 14; Higham, trang 122; Taylor, Birth of Vietnam, các trang 16-17, 21, 23.
6. Shui jing zhu, 37.693-694; Tong dian, 188.1005. Về sự chinh phục cvủa nhà Tần, xem An Nam Chí Lược, 4-93; Huainan zi, 18.16a; Shi ji, 6.253. Không có ǵ chắc chắn về tầm mức sâu xa vào lănh thổ Việt Nam mà cuộc chinh phục của nhà Tần đă vươn tới. Xem Lu Shipeng, các trang 25-26.
7. Về Vân Nam, xem Han shu, 95.3858. Về các nước Việt, xem Li Donghua, Haiyang fazhan, trang 31.
8. Han ji, 10.97-98; Han shu, 95.3859-3860; Tong dian, 186.995.
10. An Nam Chí Lược, 5.113. Về các động lực của tác giả này, xem Le Blanc, trang 23.
11. Shi ji, 113.2967. Cũng xem, Shui jing zhu, 37.708.
12. An Nam Chí Lược, 3.78, 14.324; Han ji, 4.34; Han shu, 95.3848; Lun heng, 2.15a.
13. Han ji, 4.34. Bằng chứng khảo cổ được thẩm định trong sách của Bellwood, trang 271; Huang and Sun, trang 51.
14. An Nam Chí Lược, 1.17, 11.271-272, 15.341-342; Han ji, 14.137-138; Han shu, 95.3854-3855, 3857, 3859; Việt Sử Lược, 1.3a. Câu chuyện làm sao “Việt Nam” có danh xưng của nó được thuật lại trong sách của Anderson, các trang 157-158; Woodside, trang 120.
15. Về Hải Nam, xem Han shu, 28b.1670; Nan shi, 78.1951; Shui jing zhu, 36.688; Taiping yulan, 172.972; Tong dian, 188.1006; Xin Tangshu, 3.66, 43ạ1100. Tham chiếu đứng đầu được trưng dẫn trong sách của Kemenade, trang 186. Về Hải Nam ngày nay cũng xem Feng Chongyi.
16. An Nam Chí Lược, 4.93-94. Tong dian, 188.1006.
17. Dong guan Han ji, 12.3a; Holmgren, Chinese Colonization, các trang 16-21; Maspero, “Ma Yuan”, các trang 18-19, 27.
18. Holmgren, Chinese Colonization, các trang 2, 62; Maspero, “Ma Yuan”, trang 12. Về sự ngăn cấm các tội phạm đến Việt Nam, xem An Nam Chí Lược, 5.118.
19. Bo wu zhi, 1.22; Feng Chengjun, trang 35; Li Donghua, Haiyang fazhan, trang 154; Liu Shufen, “Liuchao Nanhai”, trang 338; Sui shu, 31.887-888.
20. San guo zhi, 53.1251-1252; Taylor, Birth of Vietnam, các trang 75-76.
21. Blair, các trang 118-119; Salway, các trang 3, 18-19, 119, 354-355, 360.
22. Ngoài các địa danh (và các tiếng vay mượn từ La Tinh), thí dụ, Anh ngữ hiện đại chỉ c̣n giữ lại mười lăm hay mười sáu từ ngữ Anh văn có niên đại trước khi có các cuộc xâm lăng của dân Đức. Xem Musset, trang 104.
23. Holmgren, Chinese Colonization, trang 64; Lu Shipeng, trang 48; Wang Gungwu, “Nanhai Trade”, các trang 17018.
24. Jin shu, 57.1560; Nan shi, 78.1951.
25. Muốn biết về “các thổ phỉ” gốc Li, xem “Nanzhou yiwu zhi”, trong Taiping yulan, 785.3609. Về dân ăn thịt người, xem “Nanzhou yiwu zhi” trong Taiping yulan, 786.3611. Tong dian, 188.1005, đặt vùng đất dân ăn thịt người ở phía tây của Việt Nam hiện đại. Về “Văn Lang hoang dại” (wild Wenlang), xem Linyi ji” (Niên Sử Chàm), trong Taiping yulan, 172.971. Về việc mua bán nô lệ ở Quảng Đông, xem Han Changli quanji, 33.416; Liang shu, 33.470; Xin Tang shu, 163-5009.
26. An Nam Chí Lược, 7.171-172; Việt Sử Lược, 1.4b-5a. Về sự tương đồng với Liêu Đông (Liaodong), xem Oba Osumu, Nitchu kankeishi, các trang 49, 63, 94. Sự nghi ngờ của nước Ngô (Wu) không bị giảm sút bởi các sự dâng hiến cống phẩm phương xa của Shi Xie hay ngay bởi một con trai của Shi để làm con tin. Bởi v́ một Lĩnh Nam độc lập th́ không thể tha thứ được đối với chế độ nhà Ngô, nó đă phái một trong các viên chức của chính ḿnh để làm thanh tra cao cấp cho vùng này. Trong năm 217, nhân vật này đă di chuyển kinh đô chính thức của Lĩnh Nam ra khỏi thành tŕ gia tộc của Shi Xie tại Giao Chỉ (Jiaozhi) trở lại địa điểm thành cũ của Triệu Đà (Zhao Tuo) tại Quảng Châu (Canton), xây dựng một thành phố có tường thành bao quanh ở đó, và khởi sự b́nh định và tập hợp dân “Bách Việt” (Hundred Viet). Shui jing zhu, 37.708.
27. An Nam Chí Lược, 7.173; Đại Việt Sử Kư Toàn Thư, ngoại kỷ, 4.137-139.
28. Về sự chế ngự của di dân, xem Wu Xianqing, “Nanchao dazu”, trang 4; Zhou Yilang, các trang 55-56, 58. Về sự bất măn của dân địa phương đối với các di dân này, xem Han Guopan, Wei-jin nanbeichao, trang 176; Okawa Fujio, trang 534; Về sự độc lập tương đối của Giao Châu, xem Holmgrenn, Chinese Colonization, các trang 115, 119, 129-130; Lu Shipeng, các trang 58, 62.
29. Đại Việt Sử Kư Toàn Thư, ngoại kỷ, 4.147-153. Về cuộc chinh phục của nhà Tùy, cũng xem Sui shu, 53.1357-1358.
30. Đại Việt Sử Kư Toàn Thư, ngoại kỷ, 5.158; Xin Tang shu, 90.3777-3778.
31. Xin Tang shu, 222c,6326.
32. Sui shu, 80.1800-1803.
33. Xin Tang shu, 110.4112-4114; Zizhi tongjian, 193.932-933.
34. Wang Chengwen, “Tang-dai nan-xuán”, các trang 97-98.
35. Li Donghua, Haiyang fazhan, các trang 150-154; Lu Shipeng, các trang 103, 119.
36. Về sự di chuyển dân cư, xem Li Qingxin, trang 80. Về dân số tương đối, so sánh với Sui shu, 31.880 với 31.885.
37. An Nam Chí Lược, 10;265-266; Đại Việt Sử Kư Toàn Thư, ngoại kỷ, 5.158-160, 165; Taylor, Birth of Vietnam, các trang 198-199. Về các cuộc đột kích của Chàm, xem Jin shu, 8.193; Liang shu, 54.785; Nan shi, 78.1949; Tong dian, 188.1008.
38. Về “Quỷ Môn Quan” (Ghost Gate Pass), xem “Shi dao zhi” (Một Tài Liệu Về Mười Cuộc Tuần Du”, trong Taiping yulan, 172.970; Xin Tang shu, 453ạ1109. Về các cuộc nổi dậy của các bộ tộc hồi thế kỷ thứ tám, xem Taylor, Birth of Vietnam, các trang 196-200; Xin Tang shu, 6.157, 175-176; 222c.6329; Zizhi tongjian, 224.180-181.
39. An Nam Chí Lược, 9.212-213; Đại Việt Sử Kư Toàn Thư, ngoại kỷ, 5.159; Việt Sử Lược, 1.9b-10a; Xin Tang shu, 4.86, 201.5732-5733.
40. Tong dian, 32.186; Xin Tang shu, 43a.1111.
41. Đại Việt Sử Kư Toàn Thư, ngoại kỷ, 5.161-162, 169; Xin Tang shu, 9.267, 170.5175.
42. An Nam Chí Lược, 9.208-209; Đại Việt Sử Kư Toàn Thư, ngoại kỷ, 5.158-159. Về sự lưu đày đến Lĩnh Nam, thí dụ, xem Xin Tang shu, 4.88, 5.133. Về sự cố vấn chính sách năm 792, xem Zizhi tongjian, 234.596.
43. Zizhi tongjian, 270.242, 263. Về các chỉ huy sứ cấp miền nhà Đường, xem Xin Tang shu, 64.1759.
44. An Nam Chí Lược, 4.99-100; Đại Việt Sử Kư Toàn Thư, ngoại kỷ, 5.169-171; Việt Sử Lược, 1.13b-14b. Cũng xem, Lu Shipeng, các trang 140, 142.
45. Xem Lu Shipeng, trang 3.
46. SarDesai, trang 17.
47. An Nam Chí Lược, 11.278, 282; Việt Sử Lược, 1.15b-16a. Cũng xem, SarDesai, trang 20; Taylor, Birth of Vietnam, các trang 275-295.
48. An Nam Chí Lược, 16.381. Về sự tái chiếm tốn kém của nhà Minh trên Việt Nam, xem Levathes, các trang 159, 168.
49. An Nam Chí Lược, 14.324, 329; Gao Mingshi, Jiaoyuquan, trang 40; Woodside, trang 8.
50. Taylor, “Surface Orientations”, trang 966.
51. Woodside, các trang 10, 12-13.
52. Blakeley, “Chu Society”, các trang 53-54. Danh mục Hàn Quốc và Nhật Bản được thảo luận ở nơi khác trong cùng sách này.
---
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
Anderson, Benedict. Imagined Communities: Reflections on the Origin and Spread of Nationalism, 1983; London: Verso, 1991.
An Nam Chí Lược (A Brief Chronicle of Vietnam). Của Lê Tắc. 1340; Beijing: Zhonghua shuju, 1995.
Bellwood, Peter. Prehistory of the Indo-Malaysian Archipelago, 1985; Honolulu: University of Hawai’s Press, 1997.
Blair, Peter Hunter. Roman Britain and Early England, 55 B. C. – A. D. 871. New York: W. W. Norton, 1963.
Blakeley, Barry B. “Chu Society and State: Image versus Reality”. Defining Chu: Image and Reality in Ancient China. Biên tập bởi Constance A. Cook và John S. Major. Honolulu: University of Hawai’I Press, 1999.
Bo wu zhi (An Account of Many Things). Của Zhang Hua (232-300); Taibei: Taiwan Zhonghua shuju, 1983.
Đại Việt Sử Kư Toàn Thư (Complete Historical Records of Great Vietnam). Của Ngô Sĩ Liên, 1479. Tokyo: Tokyo daigaku toyo bunka kenkyusho fuzoku, 1986.
Dongguan Han ji (Eastern Library Chronicle of the Han Dynasty). Được cho là của Liu Zhen. Khoảng 175; Taibei: Taiwan Zhonghua shuju, 1965.
Feng Chengjun. Zhongguo Nanyang jiaotong shi (A History of Chinese Communication with the South Seas). 1937; Taibei: Taiwan shangwu yinshuguan, 1993.
Feng Chongyi. “Seeking Lost Codes in the Wilderness: The Search for a Hainanese Culture”, China Quartly, 160 (1999).
Gao Mingshi. Tang dai Dongya jiaoyuquan de xingcheng: Dongya shijie xingcheng shi de yi cemian (The Formation of an East Asian Educational Sphere in the Tang Dynasty: One Side of the History of the Formation of the East Asian World). Taibei: Guoli bianyiguan Zhonghua congshu bianshen weiyuanhui, 198.
Han Changli quanji (Collected Works of Han Yu). Của Han Yu (768-824). Beijing: Zhongguo shudian, 1991.
Han Guopan. Wei-Jin nanbeichao shi gang (An Outline of Wei-Jin, Northern and Southern Dynasty History)|. Beijing: Renmin chubanshe, 1983.
Han ji (Chronicles of the Han Dynasty). Của Xun Yue. 200 sau Công Nguyên; Taibei: Taiwan shangwu yinshuguan, 1974.
Han shu (Dynastic History of the [Former] Han. Của Ban Gu (32-93 sau Công Nguyên). Beijing: Zhonghua shuju, 1962.
Higham, Charles. The Bronze Age of Southeast Asia. Cambridge:P Cambridge University Press, 1996.
Holcombe, Charles. “Early Imperial China’s Deep South: The Viet Regions through Tang Times”, T’ang Studies, 15-16 (1997-98)
Holmgren, Jennifer. Chinese Colonization of Northern Vietnam: Administrative Geography and Political Development in the Tongking Delta, First to Sixth Centuries A. D. Canberra: Australian National University, 1980.
Huainan zi (The Master from Huai nă). Được cho là của Liu An. 139 trước Công Nguyên; Taibei: Taibei Zhonghua shuju, 1965.
Huang Chongyue và Sun Xiao. “Huanan gu Yuezu dui Zhonghua minzu wenhua de lishi gongxian” (The Historical Contribution of the Ancient Yue People of South China to Chinese National Culture). Wenbo (1998.3).
Jin shu (Dynastic History of the Jin). Biên tập bởi Fang Xuanling. 644; Beijing: Zhonghua shuju, 1974.
Kemenade, Willem Van. China, Hong Kong, Taiwan, Inc. Phiên dịch bởi Diane Webb. New York: Vintage Books, 1998.
Le Blanc, Charles. Huai nan Tzu: Philosophical Synthesis in Early Han Thought. Hong Kong: Hong Kong University Press, 1985.
Levathes, Louise. When China Ruled the Seas: The Treasure Fleet of the Dragon Throne, 1405-1433. New York: Oxford University Press, 1994.
Li Donghua. Zhongguo haiyang fazhan guanjian shi, di, ge’an yanjiu, (gudai pian) (Case Studies in Key Times and Places in China’s Maritime Development [Antiquity]: Các Trường Hợp Nghiên Cứu về Thời Điểm và Địa Điểm Then Chốt Trong Sự Phát Triển Hàng Hải Trung Hoa [Cổ Thời]. Taibei: Da’an chubanshe, 1990.
Li Qingxin. “Huangfu zhi shan bu, yanyi zhi liang di: lun Tang dai Yue bei diqu de jingji yu wenhua” (A Part of the Wilderness Made Good – the Barren Lands of the Far South: On the Economy and Culture of the Northern Yue [Guangdong] Region in the Tang Dynasty). Guangdong shehui kexue (1998.1).
Liang shu (Dynastic History of the Liang). Của Yao Silian (557-637). Beijing: Zhonghua shuju, 1973.
Liu Shufen. ‘Liuchao Nanhai maoyi de kaizhan” (The Developemt of South Seas Trade in the Sixth Dynasties), Liuchao de chengshi yu shehui. Taibei: Taiwan xuesheng shuju, 1992.
Lu Shipeng. Bei shu shiqi de Yuenan: Zhong-Yue guanxi shi zhi yi (Việt Nam Trong Thời Kỳ Bắc Thuộc: Lịch Sử Quan Hệ Trung Hoa – Việt Nam). Hong Kong: Chinese University of Hong Kng, Southeast Asia Studies Section, 1964.
Lu Simian. Du shi zhaji (Commentarieson Reading History). Shanghai: Guji chubanshe, 1982.
Lun heng (Balancing of Essays). Của Wang Chong. 82 sau Công Nguyên; Taibei: Taiwan Zhonghua shuju, 1981.
Maspero, Henri. “Études d’histoire d’Annam, V: L’expédition de Ma Yuan”, Bulletin de l’École d’extrême orient, 18 (1918).
Maspero, Henri. “Études d’histoire d’Annam IV: Le royaume de Van Lang”. Bulletin de l’École d’extrême orient, 18 (1918).
Musset, Lucien. The Germanic Invasions: The Making of Europe A. D. 400 – 600. Phiên dịch bởi Edward and Columba James. 1965; London: Paul Elek, 1975.
Nan shi (History of the Southern Dynasties). Của Li Yanshou. Khoảng 629; Beijing: Zhonghua shuju, 1975.
Oba Osamu. Kodai, chusei ni okeru Nit-chu kankeishi no kenkyu (Studies in the History of Sino-Japanese Relations in Antiquity and the Middle Ages). Kyoto: Dohosha shuppan, 1996.
Okawa Fujio. “Rikucho zenki no Goko gun no gozoku: tokuni Buko no Shin shi o megutte” (The Magnates of Wuxing Commandery in the First Part of the Six Dynasties: Especillay concerning the Shen Family of Wukang). Shukyo shakai shi kenkyu. Biên tập bởi Rissho daigaku shigakukai. Tokyo: Yuzankaku, 1977.
Rao Zongyi. “Wu-Yue wenhua” (Văn Hóa Ngô-Việt). Zhongyang yanjiuyuan: Lishi yuyan yanjiusuo jikan, 41.4 (1969).
Salway, Peter. A History of Roman Britain. 1993; Oxford: Oxford University Press, 1997.
San guo zhi (Chronicles of the [Chinese] Three Kingdoms). Của Chen Shou (233-297). Beijing: Zhonghua shuju, 1959.
Sar Desai, D. R. Vietnam: The Struggle for National Identity. 1988; Boulder, Colo.: Westview Press, 1992.
Shi ji (Records of the Grand Historian). Của Sima Qian (145 – khoảng 90 trước Công Nguyên). Beijing: Zhonghua shuju, 1959.
Sui shu (Dynastic History of the Sui). Của Wei Zheng (580-643). Beijing: Zhonghua shuju, 1973.
Taiping yulan ([Encyclopedia Assembled for] Imperial Inspection during the Taiping Era). 983; Taibei: Taiwan shangwu yinshuguan, 1980.
Thủy Kinh Chú (Annotated Classic of Rivers). Của Li Daoyuan. Khoảng 520. Shanghai: Shanghai guji chubanshe, 1990.
Taylor, Keith Weller. The Birth of Vietnam. Berkeley and Los Angeles: University of California Press, 1983.
Taylor, Keith Weller. “Surface Orientations in Vietnam: Beyond Histories of Nation and Region”, Journal of Asian Studies, 57.4 (1998)..
Tong dian (Comprehensive Canons). Của Du You (735-812). Beijing: Zhonghua shuju, 1984.
Việt Sử Lược (A Brief History of Vietnam). Khuyết Danh. Shoushan’ge congshu, 1; Baibu congshu jicheng, series 52. Thế kỷ thứ 14; Taibei: Yiwen yinshuguan, 1968
Wang Chengwen. “Tang dai ‘nan xuán yu Lingnan xidong haozu” (Tang Dynasty ‘Southern Selection and the Powerful Families of the Streams and Grottes in Lingnan). Zhongguo shi yanjiu (1998.1).
Wang Gungwu. “The Nanhai Trade: A Study of the Early History of Chinese Trade in the South China Sea”, Journal of the Malayan Branch of the Royal Asiatic Society, 31.3 (1958).
Woodside, Alexander Barton. Vietnam and the Chinese Model: A Comparative Study of Nguyễn and Ch’ing Civil Government in the First Half of the Nineteenth Century. Cambridge, Mass.: Harvard University Press, 1971.
Wu Xianqing. “Nachao dazu de dingsheng yu shuailuo” (The Prosperity and Decline of the Southern Dynasty Great Families). Shihuo banyue kan, 1.10 (1935).
Wu-Yue chuanqiu (Annals of Wu and Yue). Của Zhao Ye. Thế kỷ thứ nhất; Taibei: Taiwan Zhonghua shuju, 1980.
Xin Tang shu (New Dynastic History of the Tang). Của Ouyang Xiu (1007-1072) và Song Qi. Beijing: Zhonghua shuju, 1975.
Zizhi tongjian, jinzhu (A New Commentary to the Comprehensive Mirror for Aid in Governance). Của Sima Guang (1019-1086). Taibei: Taiwan shangwu yinshuguan, 1966.
Zhou Yiliang. “Nanchao jingnei zhi ge zhiong ren ji zhengfu đuiai zhi zhengce” (The Various Kinds of People within the Borders of the Southern Dynasties and the Government’s Policies for the Treatment of Them). Wei-jin nanbeichao shi lunji. Beijing: Zhonghua shuju, 1963.
_____
Nguồn: Charles Holcombe, Before Vietnam, The Genesis of East Asia, 221 B.C. – A.D. 907, Association for Asian Studies and University of Hawaii Press, Honolulu, 2001, các trang 145-164
Ngô Bắc dịch và phụ chú
15/11/2010
http://www.gio-o.com/NgoBac.html
© gio-o.com 2010