Chủ Đề: CHIẾN TRANH TRUNG QUỐC – VIỆT NAM 1979

 

 

Ngô Bắc dịch

 

 

Lời Người Dịch:

 

“Chiến dịch 1979, ít nhất đối với Quân Đội Giải Phóng của Nhân Dân Trung Quốc, là một sự thất bại. Trung Quốc đã phóng ra cuộc tấn công của nó trong một nỗ lực để buộc Việt Nam phải rút lui khỏi Căm Bốt. Trung Quốc đã rút lui khỏi Việt Nam hôm 16 Tháng Ba, 1979, nhưng Việt Nam đã không rời Căm Bốt mãi cho đến năm 1989.” ….

 

“Cuộc chiến tranh theo học thuyết họ Mao chưa dứt, nhưng phía Trung Quốc đã học được một bài học quan trọng.”

 

Trên đây là phần kết luận chắc nịch của Edward C. ODow’d, một tác giả hàng đầu về Chiến Tranh Biên Giới Trung Quốc – Việt Nam Năm 1979, chủ đề của loạt bài nghiên cứu dưới đây về biến cố quan trọng diễn ra 33 năm trước. Đối chiếu với bài học lịch sử lâu dài của đất nước, rõ ràng vấn đề sinh tử của dân tộc Việt Nam hiện nay là phải tìm mọi cách đê duy trì được sự độc lập và vẹn toàn lãnh thố, đồng thời thoát ra khỏi sự lệ thuộc ngoại giao và quân sự đáng tủi hổ đối với Trung Quốc.

 

1.Sun Dreyer
VIỆC NÀY DẪN DẮT VIỆC KIA:
VÒNG XOÁY TRÔN ỐC SỰ VẤN ĐỀ VÀ
CHIẾN TRANH TRUNG QUỐC – VIỆT NAM (1979)
One Issue Leads to Another: Issue Spirals and the Sino-Vietnamese War (1979)
.


2. Steven J. Hood,
BẮC KINH, HÀ NỘI, VÀ ĐÔNG DƯƠNG –
CÁC BƯỚC TIẾN TỚI SỰ ĐỤNG ĐỘ
(Beijing, Hanoi, and Indochina – Steps to the Clash,
trong quyển Dragons Entangled: Indochina and the China-Vietnam War, 1992.


3. Zhang Xiaoming,
ĐẶNG TIỂU BÌNH VÀ
QUYẾT ĐỊNH CỦA TRUNG QUỐC
ĐI ĐÊN CHIẾN TRANH
VỚI VIỆT NAM
(Deng Xiaoping and China’s Decision to Go to War with Vietnam),
Journal of Cold War Studies, Summer 2010, vol. 12, No. 3, 3-29.


4, Nicolas Khoo,
HỒI KẾT CUỘC CỦA
MỘT TÌNH HỮU NGHỊ BẤT KHẢ HỦY DIỆT:
Sự Tái Xuất Hiện Của Sô Viết và
Sự Chấm Dứt Liên Minh Trung Quốc – Việt Nam, 1975-1979
trong quyển Collateral Damage: Sino – Soviet Rivalry and the Termination
of The Sino – Vietnamese Alliance, Columbia University Press, 2011, 103-136.

 

5. Herbert S. Yee,
CUỘC CHIẾN TRANH
BIÊN GIỚI TRUNG QUỐC – VIỆT NAM:
CÁC ĐỘNG LỰC, CÁC TÍNH TOÁN VÀ
CÁC CHIẾN LƯỢC CỦA TRUNG CỘNG
trong quyển The Sino-Vietnamese Border War: China’s Motives,
Calculations and Strategies, China Report (xuất bản
tại New Delhi, India), Bộ 16, số 1, 1980, các trang 15-32.

 

6. Edward C. ODow’d,
CHIẾN DỊCH NĂM 1979
trong quyển Chinese Military Strategy In The Third Indochina War,
The Last Maoist War, Routledge: New York, 2007, Chapter 4: The 1979 Campaign,
các trang 45-73; Chapter 5: The Battle of Lang Son, February – March 1979,
các trang 74-88; Chapter 0: Conclusion: the legacy of an “incredible, shrinking war”,
các trang 159-166.

 

7.  Edward C. ODow’d,
TRẬN ĐÁNH LẠNG SƠN, THÁNG HAI – THÁNG BA 1979
trong quyển Chinese Military Strategy In The Third Indochina War,
The Last Maoist War, Routledge: New York, 2007, Chapter 4: The 1979 Campaign,
các trang 45-73; Chapter 5: The Battle of Lang Son, February – March 1979,
các trang 74-88; Chapter 0: Conclusion: the legacy of an “incredible, shrinking war”,
các trang 159-166.

 

8. Harlan W. Jenks,
CUỘC CHIẾN TRANH “TRỪNG PHẠT”
CỦA TRUNG QUỐC ĐÁNH VÀO VIỆT NAM:
MỘT SỰ LƯỢNG ĐỊNH VỀ QUÂN SỰ
(“China’s ‘Punitive’ War on Vietnam: A Military
Assessment”, Asian Survey 14, no. 8 (1979): 801-815.

 

9. Chen C. King,
CUỘC CHIẾN CỦA TRUNG QUỐC
ĐÁNH VIỆT NAM:
MỘT PHÂN TÍCH QUÂN SỰ
(“China’s War Against Vietnam: A Military Analysis”),
Journal of East Asian Affairs, no. 1 (1983): 233-63.
 

 

10. John M. Peppers, ,
CHIẾN LƯỢC TRONG XUNG ĐỘT CẤP VÙNG:
MỘT TRƯỜNG HỢP NGHIÊN CỨU
ĐIỂN HÌNH VỀ TRUNG QUỐC
TRONG CUỘC CHIẾN TRANH ĐÔNG DƯƠNG
LẦN THỨ BA NĂM 1979
(Strategy In Regional Conflict:
A Case Study of China In The Third Indochina Conflict of 1979),
U.S. Army War College, Carlisle Barracks, 2001.

 

11. Alexander Woodside
DÂN TỘC CHỦ NGHĨA VÀ
NẠN NGHÈO ĐÓI
TRONG SỰ TAN VỠ CÁC QUAN HỆ
TRUNG QUỐC – VIỆT NAM
Nationalism and poverty in the Breakdown
of Sino-Vie6namese Relations,
Pacific Affairs, Fall 1979,
các trang 381-409.

   

12. Dennis Duncanson

CHIẾN TRANH VIỆT NAM
CỦA TRUNG QUỐC:
CÁC ĐÒI HỎI CHIẾN LƯỢC CŨ VÀ MỚI
China’s Vietnam War:
new and old strategy imperatives,
The World Today, 35, số 6 (1979),
các trang 241-248.

 

13. James Mulvenon

CÁC GIỚI HẠN CỦA NGOẠI GIAO CƯỠNG HÀNH:
CUỘC CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI
TRUNG QUỐC – VIỆT NAM NĂM 1979
Limits of Coercive Diplomacy:
The 1979 Sino-Vietnamese Border War,
Journal of Northeast Asian Studies; Fall 95,
Vol. 14 Issue 3, các trang 68-88.

 

14. Andrew Scobell

NGOẠI GIAO CƯỠNG HÀNH NỬA VỜI:
CUỘC TẤN CÔNG NĂM 1979 CỦA TRUNG QUỐC 
ĐÁNH VIỆT NAM
“Explaining China’s Use of Force”,
China’s Use of Military Force Beyond the Great Wall and the Long March
Cambridge, United Kingdom: Cambridge University Press, 2003
các trang 192-198.

 

15. Daniel Tretiak

CHIẾN TRANH VIỆT NAM CỦA TRUNG QUỐC
VÀ CÁC HẬU QUẢ CỦA NÓ
“China’s Vietnam War and Its Consequences,” The China Quarterly 80 (1979), các trang 740-67.

   

16. Bruce Burton

CÁC SỰ GIẢI THÍCH ĐỐI CHỌI
 VỀ CUỘC CHIẾN TRANH
 TRUNG QUỐC - VIỆT NAM NĂM 1979
“Contending explanations of the 1979 Sino – Vietnamese War”,
International Journal, Volume XXXIV, no. 4/Autumn 1979, các trang 699-722.

 

17. Ramesh Thakur

TỪ SỐNG CHUNG ĐẾN XUNG ĐỘT:
CÁC QUAN HỆ
HÀ NỘI – MẠC TƯ KHOA – BẮC KINH
VÀ CUỘC CHIẾN TRANH TRUNG – VIỆT
Coexistence to Conflict: Hanoi-Moscow-Pekings Relations and The China-Vietnam War,
The Australian Outlook, Volume 34, số 1, 1980, các trang 64-74.

 

18. Todd West

TỪ SỐNG SỰ NGĂN CẤM  KHÔNG THÀNH  CÔNG
CUỘC XUNG ĐỘT TRUNG QUỐC – VIỆT NAM NĂM 1979
Failed Deterrence, The 1979 Sino-Vietnamese Conflict,
Stanford University Journal of East Asian Affairs,  Vol. 6, No. 1, Winter 2006, các trang 73- 85.
 

 

19. Colonel G.D Bakshi

Cuộc Chiến Tranh Trung Quốc - Việt Nam năm 1979:
Trường Hợp Nghiên Cứu Điển Hình
Trong Các Cuộc Chiến Tranh Hạn Chế
VSM, The Sino-Vietnam War – 1979: Case Studies in Limited Wars,
Indian Defence Review, Volume 14 (2) July – September 2000

 

20. Bruce Elleman

Các Quan Hệ Sô Viết – Trung Quốc Và Cuộc Xung Đột
Trung Quốc – Việt Nam Tháng Hai 1979
Đọc tại Cuộc Hội Thảo 1996 Vietnam Symposium,
“After the Cold War: Reassessing Vietnam”,
được tổ chức vào các ngày 18-20 Tháng Tư, 1996
tại Vietnam Center, Texas Rech University, Lubbock, Texas

 

21. Henry J. Kenny

CÁC NHẬN THỨC CỦA VIỆT NAM VỀ CUỘc CHIẾN TRANH,
1979 VỚI TRUNG QUỐC “Vietnamese Perceptions of the 1979 War with China,
Chinese Warfighting: The PLA Experience Since , đồng biên tập bởi
Mark A. Ryan, David Michael Frakelstein, Michael A. McDevitt, Chapter 10, các trang 217-241s

 

22. Xiaoming Zhang

CUỘC CHIẾN TRANH
NĂM 1979 CỦA TRUNG QUỐC VỚI VIỆT NAM: MỘT SỰ
TÁI LƯỢNG ĐỊNH, “China’s War with Vietnam: A Reassessment”,
The China Quarterly, số 184, December 2005, các trang 851-874.

 

23. Edward C. O’Dowd & John F. Corbett, Jr.

CHIẾN DỊCH NĂM 1979 CỦA TRUNG QUỐC
TẠI VIỆT NAM:
CÁC BÀI HỌC LĨNH HỘI ĐƯỢC
The Lessons of History: The Chinese People’s Liberation Army at 75, Carlisle, PA.:
Strategic Studies Institute, U.S. Army War College, July 2003, các trang 353-378.

 

24. Douglas E. Pike,

CỘNG SẢN ĐẤU CỌNG SẢN
TẠI ĐÔNG NAM A”
 (“Communism vs Communism in Southeast Asia), International Security, Vol. 4, No. 1 (Summer, 1979), từ trang 20.
 

 

25. Henry Kissinger,

“SỜ MÔNG CON HỔ”
CUỘC CHIẾN TRANH VIỆT NAM THỨ BA”
 Chương 13: “Touching the Tiger’s Buttocks”: The Third Vietnam War, các trang 340-375,
trong quyển On China, xuất bản bởi The Penguin Press, New York, 2011.

   

26. Jimmy Carter,

GHI NHỚ VỀ
CHIẾN TRANH TRUNG QUỐC – VIỆT NAM
NĂM 1979
cựu Tổng Thống Hoa Kỳ, trích dịch từ các hồi ký Keeping Faith, Memoirs Of A President,
A Bantam Book: New York, November 1982, các trang 194-211, và White House Diary, New York: Farrar, Straus and Giroux, 2010,
các trang 281-296, và rải rác, cùng các phụ lục trích dịch phần ghi nhớ về Chiến Tranh Trung Quốc – Việt Nam năm 1979 của:
Phụ Lục 1: Cyrus Vance, cố Ngoại trưởng Hoa Kỳ, Hard Choices, Critical Years In America’s Foreign Policy, New York: Simon and Schuster, 1983, các trang 120-127.
Phụ Lục 2: Zbigniew Brzezinski, cựu Cố Vấn Tổng Thống Hoa Kỳ về An Ninh Quốc Gia, Power and Principle, Memoirs of the National Security Adviser, 1977-1981, New York: Farrar, Straus and Giroux, 1983, các trang 404-414.
Phụ Lục 3: Anatoly Dobrynin, cựu Đại Sứ Liên Sô tại Hoa Kỳ, In Confidence, Moscow’s Ambassador to America’s Six Cold War Presidents, New York: Times books, a division of Random House, Inc., 1995, các trang 418-19.

 

 

Herbert S. Yee

Director of the China Studies Program, Hong Kong Baptist University

 

CUỘC CHIẾN TRANH

 

BIÊN GIỚI TRUNG QUỐC – VIỆT NAM:

 

CÁC ĐỘNG LỰC, CÁC TÍNH TOÁN VÀ

 

CÁC CHIẾN LƯỢC CỦA TRUNG CỘNG

 

[Bài viết này được ấn hành trong Tạp chí China Report, xuất bản tại New Delhi, Ấn Độ đầu năm 1980]

 

Ngô Bắc dịch

 

 

       Vào rạng sáng ngày 17 Tháng Hai 1979, Quân Đội Giải Phóng Của Nhân Dân Trung Quốc (viết tắt: QĐGPNDTQ; tiêng Anh là  People’s Liberation Army: PLA) với một lực lượng được ước lượng là 75,000 quân đã phóng ra một cuộc tấn công toàn diện dọc theo biên giới dài Trung Quốc – Việt Nam dài 450 dặm.  Mặc dù được báo trước bởi phía Trung Quốc về ý định của họ nhằm “trừng phạt” Việt Nam, thế giới vẫn bị sửng sờ vì cuộc tấn công.  Phía Trung Quốc bị chỉ trích vì việc chơi “trò mạo hiểm bên bờ vực thẳm: brinkmanship” có thể đẩy thế giới vào Thế Chiến III nếu Nga Sô, nước vừa mới ký một hiệp ước hòa bình với Việt Nam, kể cả một thỏa thuận về sự trợ giúp quân sự hỗ tương, quyết định nhảy vào can thiệp. 1 Tuy nhiên, phía Trung Quốc đã nhấn mạnh rằng quyết định tấn công Việt Nam đã được đưa ra sau khi “suy tính thông suốt” và rằng nó đã “cứu xét đến toàn bộ tình hình chiến lược ”. 2 Điều gì đã thúc đẩy chiến dịch đánh Việt Nam của trung Quốc, một hành động mà các nhà lãnh đạo Trung Quốc phải hiểu là sẽ có nguy cơ đối diện với một cuộc chiến tranh rộng lớn hơn với Liên Bang Sô Viểt? Phía Trung Quốc đã tính toán các bất trắc như thế nào? Các loại chiến lược nào mà Bắc Kinh đã chấp nhận để né tránh sự chạm trán rộng lớn hơn với Nga Sô và quy tụ sự ủng hộ cho cuộc viễn chinh của nó tại Việt Nam? Trung Quốc có đạt được các mục tiêu của nó hay không? Bài viết này sẽ khảo sát và gắng sức trả lời các câu hỏi này.

 

 

CĂN NGUYÊN

 

       Căn nguyên của chiến tranh biên giới Trung Quốc – Việt Nam có thể truy tìm dấu vết nơi sự thù hận lịch sử lâu 2,000 năm giữa hai dân tộc. 3 Người Việt Nam vẫn còn mang các ký ức đau khổ về sự thống trị của Trung Quốc và có khuynh hướng ngờ vực bất kỳ chuyển động nào của Trung Quốc tiến tới các quan hệ chặt chẽ hơn như là một ý đồ để tái lập vai trò không chế truyền thống của Trung Quốc.  Sau khi chiến tranh Việt Nam kết thúc năm 1975, điều rõ ràng rằng tình đồng chí chặt chẽ giữa hai nước trong hai thập niên trước đó chỉ có tính cách tạm thời và có lẽ được nhìn như một biện pháp thời chiến bởi Hà Nội và Bắc Kinh (Trung Quốc nhận thấy chiến tranh Việt Nam, được giao tranh tại sân sau của mình, như một sự đe dọa nghiêm trọng đến an ninh quốc gia của Trung Quốc).  Các quan hệ giữa hai nước cộng sản suy đồi một cách mau lẹ khi các nhà lãnh đạo Trung cộng quyết định cắt giảm các chương trình viện trợ và các sự trợ giúp khác cho Hà Nội sau cuộc thông nhất hai miền Việt Nam.  Bắc Kinh có thể miễn cưỡng, như bị tố giác bởi Hà Nội, không muốn có một nước Việt Nam uy thế và mạnh về quân sự tại biên giới phía nam của Trung Quốc.  Tuy nhiên, khả năng của Trung Quốc để giúp đỡ Hà Nội bị trở ngại bởi các khó khăn kinh tế nội tại nghiêm trọng của chính nó, do kết quả của sự xáo trộn chính trị, các vụ động đất nặng nề, và các thiên tai khác. 4

 

       Cuộc cãi cọ công khai sau cùng đã bùng nổ trong Tháng Ba 1978 khi Hà Nội phóng ra chiến dịch tập thể hóa tại Miền Nam.  Chiến dịch, cấm đoán mọi hoạt động tư sản mại bản và tịch thu tài sản, ảnh hưởng nghiêm trọng nhất đến các người Việt gốc Hoa tương đối giàu có và chính vì thế đã dẫn tới cuộc di cư tỵ nạn ồ ạt của họ.  Các người Việt gốc Hoa chạy trốn gây bối rối cho Bắc Kinh.  Bất kỳ phản ứng thái quá nào  trước chính sách của Hà Nội chắc chắn sẽ khơi dậy các sự ngờ vực tại các nước Đông Nam Á nơi có số người gốc Hoa đáng kể; lơ là vân đề tỵ nạn, mặt khác, có thể làm mất sự ủng hộ của Hoa Kiều hải ngoại, các kẻ có các sự đóng góp tài chính cho nỗ lực hiện đại hóa của Trung Quốc nhất thiết cần có và được ve vãn bởi Bắc Kinh. Tất nhiên, việc băng ngang biên giới Hoa-Việt của một khối lượng đông đảo người Việt gốc Hoa đã dẫn đến các sự đụng độ nhỏ giữa quân biên phòng cùng các sự cáo giác và phản cáo giác về các sự khiêu khích.  Các quan hệ thù nghịch giữa Bắc Kinh và Hà Nội đã đi đến một khúc ngoặt quyết liệt, tồi tệ hơn khi Hà Nội khởi sự chiến dịch mùa khô của nó chống lại chế độ Pol Pot tại Kampuchea; sự thất thủ của Phnom Penh là dấu hiệu cho sự bắt đầu một cuộc chiến tranh khác tại Đông Dương.

 

       Hình ảnh, được phác họa bởi Bắc Kinh, về một Hà Nội kiêu căng, hiếu chiến, tự khoe mình như quyền lực quân sứ lớn thứ ba thế giới, có lẽ bị thâm xưng và xuyên tạc.  Bị phiền nhiễu bởi các khó khăn kinh tế trong nước và phải đối diện với công tác đáng sợ nhằm tái thiết xứ sở của họ sau nhiều thập niên chiến tranh, các nhà lãnh đạo của Hà Nội, một cách dễ hiểu, hăng hái để duy trì các quan hệ thân thiết với các nước khác kể cả Trung Quốc và ngay với Hoa Kỳ, đối thủ chính của họ trong cuộc Chiến Tranh Đông Dương.  Trong thực tế, cho đến tận mùa xuân 1978, các nhà lãnh đạo ôn hòa [sic] của Hà Nội đứng đầu bởi Thủ Tướng Phạm Văn Đồng đã không từ bỏ các nỗ lực của họ nhằm tìm kiếm sự giúp đỡ tài chính và các trợ giúp khác từ các nước sẵn lòng chấp nhận Việt Nam.  Một phần vì sự lơ là và từ khước của Hoa Thịnh Đốn trong việc nhìn nhận chế độ Hà Nội (bất kể sự sẵn lòng của Hà Nội để bỏ hết các điều kiện tiên quyết cho các cuộc đàm phán với Mỹ [?]) đã khiến Hà Nội lo ngại – bị cô lập về mặt ngoại giao, kinh tế trong cơn khủng hoảng, và bị thách đố về mặt quân sự bởi Trung Quốc. 5 Hơn nữa, Trung Quốc đã hoàn tất vào giữa năm 1978 việc rút lại viện trợ của nó cho Hà Nội.  Hà Nội khi đó không còn lá bài nào để chơi với Mạc Tư Khoa và đã trở thành, trong Tháng Sáu 1978, một hội viên chính thức của khối COMECON.  Việc ký kết hiệp ước hữu nghị 25 năm vào ngày 3 Tháng Mười Một 1978 giữa Liên Bang Sô Viết và Việt Nam đã chính thức khóa chặt sự gia nhập của Việt Nam vào phe Sô Viết.  Các kẻ ôn hòa trong giới lãnh đạo Việt Nam kể từ đó bị thất thế với phe cứng rắn thân Sô Viết là các kẻ bênh vực một lập trường cứng rắn và các chính sách không nhân nhượng đối với Trung cộng.  Diễn trường chính vì thế đã được sắp sẵn cho sự đối đầu quân sự giữa hai nước cộng sản Á Châu.

 

 

CÁC ĐỘNG LỰC CỦA TRUNG QUỐC

 

Chính phủ Trung Quốc đã đưa ra một bản tuyên bố vào ngày đầu tiên trong chiến dịch Việt Nam của Trung Quốc, cho hay rằng các binh sĩ Trung Quốc “bị buộc phải gây nên một cuộc hoàn kích tự vệ” bởi vì có sự “khiêu khích vũ trang không ngừng và các hoạt động thù nghịch” của Việt Nam tại các khu vực biên giới”.  Bản văn tái xác đinh, “Khi người khác không đụng chạm đến chúng tôi, chúng tôi sẽ không đụng chạm tới các người khác, nhưng nếu bất kỳ một ai đụng chạm chúng tôi, chúng tôi chắc chắn sẽ đánh lại”.  Các mục tiêu của cuộc tấn công ‘trừng phạt” của Trung Hoa là nhằm bảo đảm cho một “biên giới hòa bình và ổn định”, bản tuyên bố nói thêm.  Bản tuyên bố đã không đề cập đến vụ xâm lăng của Việt Nam vào Kampuchea, điều chọc giận các nhà lãnh đạo Bắc Kinh  là các kẻ đã nhiều lần ám chỉ rằng Trung Quốc có thể dạy cho Hà Nội một bài học vì hoạt động của Hà Nội tại Kampuchea.  Ngay trước khi có cuộc tấn công mùa khô quy mô rộng lớn của Việt Nam chống lại chế độ Pol Pot, Bắc Kinh đã sẵn cứu xét các hành động quân sự khả hữu nhằm ngăn chặn chiến dịch của Hà Nội tại Đông Dương.  Tại một cuộc hóa báo tại Bangkok hồi Tháng Mười Một qua [1978], Phó Thủ Tướng Đặng Tiểu Bình nói rằng Trung Quốc “sẽ quyết định phương cách đối phó với chính sách bá quyền cấp vùng của Việt Nam, tùy thuộc vào việc Hà Nội thực hiện đên đâu cuộc xâm lược của nó đôi với Kampuchea”. 7 Tuy nhiên, họ Đặng công khai hơn khi nói về sự trừng phạt khả hữu đối với cuộc xâm lăng của Việt Nam sau khi có sự sụp đổ của Phnom Penh.  Trong cuộc thăm viếng vừa qua của ông ta tại Hoa Kỳ, họ Đặng nói về việc trừng trị “Cuba Phương Đông” vì sự xâm lăng vũ trang của họ vào Kampuchea và các sự khiêu khích dọc các khu vực biên cương Trung Quo6c’.  “Nếu bạn không dạy cho chúng vài bài học cần thiết, chúng sẽ không hiểu phải quấy là gì, họ Đăng tuyên bố. 8

 

       Một trong các mục tiêu chính của Trung Quốc rõ ràng là để rút bộ đội Việt Nam ra khỏi Kampuchea và Lào  và phân tán mỏng sức mạnh quân sự của Việt Nam, từ đó làm suy yếu năng lực của Việt Nam dồn cho sự bành trướng hơn nữa tại Đông Dương. Phía Trung cộng hy vọng rằng “với chiến trường bị căng mỏng quá độ, các khu vực hậu phương phòng vệ yếu kém, và các tiếp liệu của họ bị thiếu thốn”, Việt Nam sẽ bị “sa vào trong một vũng lầy “ tại Kampuchea. 9 Mục tiêu này của Trung Quốc được xác nhận một cách gián tiếp bởi áp lực tăng cường đồng thời từ các lực lượng du kích lãnh đạo bởi Pol Pot đánh vào bộ đội Việt Nam tại Kampuchea khi biên giới phía bắc của Việt “am nằm dưới cuộc tấn công quy mô của Trung Quốc.  Sự vắng bóng mục tiêu được che dấu này của Trung Quốc trong bản tuyên bố “hoàn kích tự vệ” của Bắc Kinh hiển nhiên không phải là sự sơ sót mà là có cân nhấc và tính toán.  Nó có thể chủ ý dành cho Việt Nam một cơ hội để triệt thoái bộ đội ra khỏi Kampuchea mà không bị mất mặt; và không cung cấp cho Mạc Tư Khoa một duyên cớ tương tự nào khác (bằng việc tố cáo cuộc xâm lăng của Trung Quốc vào lãnh thổ Việt nam) để can thiệp nhân danh Việt Nam.

 

       Một mục tiêu khả hữu khác của Trung Quốc, song bị bỏ qua trong tất cả các lời tuyên bố chính thức và các lý do hiển nhiên, rằng việc phóng ra một cuộc chiến tranh hạn chế như một “sụ thao diễn quân sự”. 10 Một số các nhà lãnh đạo quân sự Trung Quốc rõ ràng quan tâm về sự thiếu kinh nghiệm chiến trường của quân đội Trung cộng.  Trung Quốc đã không giao tranh bất kỳ cuộc chiến đại quy mô nào trong gần ba mươi năm kể từ Cuộc Chiến Tranh Triều Tiên.  Đa số các cấp chỉ huy của nó ở cấp trung đoàn chưa hề tham dự một chiến trận nào.  Cuộc chiến tranh biên giới chính vì thế sẽ là một sự thử nghiệm cụ thể cho khả năng chiến đấu và hiệu năng động viên của QĐGPNDTQ.  Mục tiêu không được nói ra này được hậu thuẫn bởi sự điều động binh sĩ được tường thuật từ mười trong mười một Quân Khu của Trung Quốc đến Mặt Trận Phương Nam. 11 Nhưng, không có mấy xác xuất rằng Bắc Kinh sẽ tấn công Việt Nam chỉ để nhằm thu hoạch kinh nghiệm chiến đấu cho quân đội của nó.  Làm như thế là đùa với lửa và Trung Quốc, hơn ai hết, hiểu rõ rằng “kẻ nào đùa với lửa sẽ tự thiêu hủy mình”.  Mục tiêu này có thể được dùng bởi các nhà lãnh đạo quân sự cứng rắn để chứng minh cho ước muốn của họ nhằm trừng phạt quân đội Việt Nam liều lĩnh.

 

       Mặt khác, sự nhấn mạnh của Bắc Kinh về “cuộc hoàn kích” các sự đột nhập của Việt Nam một phần nhằm nâng cao tinh thần của QĐGPNDTQ.  Giới lãnh đạo Bắc Kinh có thể bị chất vấn bởi các sự chỉ trích nội địa, đặc biệt từ lớp người trẻ, về quyết định của nó để phóng ra một cuộc tấn công toàn diện vào một kẻ có thời từng là “chiến hữu”.  Các nhà lãnh đạo Trung Quốc dường như tin tưởng, rõ ràng từ các bài học của các cuộc chiến tranh biên giới trước đây của Trung Quốc với Ấn Độ và Liên Bang Sô Viết, rằng phương cách tốt nhất để nâng cao tinh thần binh sĩ là quyền hạn thường được tuyên xưng để phòng vệ tính “bất khả xâm phạm” của các biên giới Trung Quốc.  Hơn nữa, chính phủ Trung Quốc đã cố gắng động viên tinh thần bằng việc khơi dậy sự hận thù trong các binh sĩ Trung cộng đối với Hà Nội.  Ngay sau khi có cuộc tấn công, bài quan điểm của ban biên tập tờ Renmin Ribao (Nhân Dân Nhật Báo) đã đổ lỗi cho Hà Nội về sự bùng nổ của chiến tranh. 12 Chính phủ Việt Nam bị tố cáo đã phản bội tình hữu nghị và sự tín nhiệm được thiết lập từ lâu giữa dân tộc của hai nước.  Nhắc lại viện trợ “vô vị kỷ” của Trung Quốc cho Việt Nam và sự cực khổ phải chịu đựng bởi nhân dân Trung Quốc và QĐGPNDTQ trong việc giúp đỡ Việt Nam chiến đấu chống lại người Mỹ, bài quan điểm của ban biên tập đã phác họa một cách linh động về giới lãnh đạo Hà Nội như các kẻ bành trướng vô ơn, theo đuổi một cách liều lĩnh các mục đích của chủ nghĩa bá quyền cấp miền của nó làm phương hại cho Trung Quốc và các nước khác tại Đông Dương.  Cùng chủ đề đã được lập lại ngày sau đó trong một bài quan điểm ban biên tập của tờ Jiefang Junbao kêu gọi QĐGPNDTQ hãy bảo vệ sự xây dựng công tác hiện đại hóa của Trung Quốc bằng cách đánh trả mạnh mẽ vào “quân xâm lược” Việt Nam. 13

 

       Các nhà lãnh đạo Trung Quốc khá im lặng trên một số trong các mục tiêu hiển nhiên của họ có vẻ nhạy cảm về mặt chính trị và ngoại giao với các nước khác.  Các nhà lãnh đạo ở Bắc Kinh rõ ràng bị tức giận bởi các chính sách của Hà Nội đối với người Việt gốc Hoa.  Họ đã phản đối các cáo buộc của Hà Nội chống lại người gốc Hoa bằng việc lập luận rằng đại đa số các người bị cưỡng bách rời khỏi Việt nam là các công nhân chứ không phải là tư sản và mại bản. 14 Tuy nhiên, chính phủ Trung cộng, hay biết về các sự nhạy cảm của các nước Đông Nam Á liên hệ đến vấn đề Hoa kiều hải ngoại, chính vì thế, Bắc Kinh đã hạ thấp phản ứng của nó và chỉ trưng dẫn sơ lược rằng sự đối xử của Hà Nội đối với người gốc Hoa đã là một trong các lý do để trừng phạt Việt Nam.  Nhạy cảm không kém đối với các lân bang của Trung Quốc là vấn đề lãnh thổ.  Bất kể lời tuyên bố của Bắc Kinh rằng Trung Quốc không muốn “dù chỉ một tấc” đất của lãnh thổ Việt Nam, điều rõ ràng là gần lúc kết thúc cuộc chiến tranh biên giới, các bộ đội Trung Quốc đã chủ định giữ lại một vài khu vực chiến lược tại biên giới.  Mặc dù phần lớn các sự chiếm đóng có thể chỉ liên hệ đến các khu vực “tranh chấp” như được tuyên bố bởi Trung Quốc, Bắc Kinh dù thế nhận thấy khó khăn để biện minh cho hành động của nó.  Các chuyển động này của Trung Quốc có thể cảnh báo Mạc Tư Khoa và New Delhi và gây phương hại cho sự giải quyết các tranh chấp biên giới của Trung Quốc với hai nước này.

 

       Một động lực khả hữu khác của Trung Quốc là để bày tỏ với thế giới, đặc biệt với các nước Á Châu, rằng Trung Quốc không phải là một con hổ giấy hay yếu thần kinh.  “Chúng tôi, Trung Quốc, thì nghiêm chỉnh với những gì chúng tôi phát biểu”, Đặng Tiểu Bình tuyên bố.  “Bất luận đó là chủ nghĩa bá quyền toàn cầu hay chủ nghĩa bá quyền địa phương, Trung Quốc luôn luôn chấp nhận một lập trường vững chắc, một thái độ vững chắc”, họ Đặng nói thêm. 15 Đã có một cảm nhận sâu xa trong các nhà lãnh đạo Trung Quốc rằng Trung Quốc phải đứng lên và phô bày rằng, khác với người Mỹ lo sợ chiến tranh, Trung Quốc không sợ sệt để chiến đấu chống lại các sức mạnh vĩ đại.  “Chúng tôi không để cho Liên Bang Sô Viết đối xử với chúng tôi như đối với Nhật Bản và các quyền lực thực dân khác đã từng đối xử với chúng tôi trong quá khứ”, một viên chức Trung Quốc đã nói trong khi bào chữa cho cuộc tấn công của nước ông ta. 16 Họ Đặng đã nhấn mạnh cảm thức này bằng việc vạch ra rằng nhân dân Trung Quốc “không thể tha thứ cho bất kỳ sự xâm lược nào chống lại họ để có thể bị giải thích sai lạc như sự thờ ơ hay yếu kém, hay ngược lại sẽ bị xô đẩy vòng vòng”. 17 Bắc Kinh rõ ràng đã hy vọng để bày tỏ cho thế giới rằng nước Nga hùng mạnh có thể bị thách đố về mặt quân sự và rằng sự nhượng bộ sẽ không có hiệu quả để chống lại chủ nghĩa bá quyền.  Nó tuyên bố rằng cuộc viễn chinh sang Việt Nam của nó nhằm giáng một “cú đánh hiệu nghiệm vào ý đồ của Sô Viết muốn xâm lược và bành trướng tại Đông Nam Á”. 18 Cùng lúc, sự thao diễn cơ bắp này cũng nhằm để phá tan huyền thoại về sự bất khuất quân sự của Việt Nam.  Bắc Kinh rõ ràng sẽ cương quyết để phô bày cho Hà Nội rằng Trung Quốc, chứ không phải Việt Nam, là quyền lực quân sự lớn mạnh thứ ba trên thế giới và cảnh cáo Hà Nội hãy đình chỉ chính sách bành trướng của nó tại Đông Nam Á, nơi mà Trung Quốc đã có các sự quan tâm đặc biệt.  Nó cũng có thể đã hy vọng rằng bằng một chiến thắng thuyết phục trên Việt Nam, một sự biểu lộ rõ ràng rằng Hà Nội sau rốt không có gì đáng phải nể sợ, các nước trong khối ASEAN sẽ cứng rắn hơn trong các chính sách của chúng đối với Việt Nam.  Hơn nữa, bằng việc phô diễn cho Việt Nam thấy sức mạnh quân sự của nó, Bắc Kinh có thể hy vọng cảnh cáo Hà Nội đừng “nghiêng” quá xa về phía người Nga.  Ác mộng của Bắc Kinh là “liên minh thần thánh” giữa Mạc Tư Khoa và Hà Nội âm mưu bao vây Trung Quốc từ Phương Nam. 19 Các nhà lãnh đạo Trung Quốc đặc biệt quan ngại về ý định đáng nghi ngờ của Sô Viết nhằm sử dụng Vịnh Cam Ranh của Việt Nam như một căn cứ thường trực cho hạm đội Thái Bình Dương của nó, một chuyển động có thể làm thay đổi một cách mạnh mẽ cán cân quân sự của các nước tại vùng Á Châu – Thái Bình Dương.

 

       Sau cùng, với các sự lo ngại quá lớn và các sự bận tâm với các chương trình hiện đại hóa, họ có thể bực bội và tức giận bởi các sự đụng độ nhỏ ở biên giới với Việt nam, và đã quyết định chấm dứt một lần và dứt khoát mọi biến cố gây xáo trộn về mặt kinh tế bằng một cuộc tấn công toàn diện.  Cuộc hoàn kích của QĐGPNDTQ được biện minh bởi chính phủ Trung Quốc là một động tác cần thiết để bình định biên giới và để đạt được một môi trường hòa bình và ổn định cho nỗ lực canh tân hóa của Trung Quốc.  Vào ngày 6 Tháng Ba, một ngày sau khi có sự loan báo của Trung Quốc về việc triệt thoái binh sĩ của nó, một bài báo trên tờ Renmin Ribao ghi nhận rằng sự chiến thắng của Trung Quốc trong trận chiến biên giới Hoa-Việt sẽ xúc tiến các kế hoạch hiện đại hóa, có bổ túc rằng nhân dân Trung Quốc phải học tập từ “tinh thần không sợ hy sinh” của QĐGPNDTQ. 20

 

       Tuy nhiên, các chuyên viên về chính sách ngoại giao Trung Quốc khó đồng ý về các động lực của Trung Quốc trong việc tấn công Việt Nam.  Các sự giải thích thay thế khác về tác phong của Trung Quốc được đưa ra bởi các quan sát viên Trung Quốc theo thời.  Theo một sự giải thích phổ biến, mục tiêu chính của Trung Quốc trong chiến dịch Đông Dương của nó là làm chậm lại hay ngăn cản sự tiến bộ của SALT II và các biện pháp hòa hoãn khác giữa Hoa Kỳ và Liên Bang Sô Viết.  Thí dụ, Bắc Kinh đã thỏa hiệp trong Tháng Mười Hai qua [1978] trên vấn đề then chốt về Đài Loan và khai thông con đường cho sự bình thường hóa các quan hệ Trung Quốc – Hoa Kỳ ngay vào lúc Hoa Thịnh Đốn và Mạc Tư Khoa có vẻ sắp đạt được các thỏa thuận về SALT II.  Cuộc thăm viếng của Phó Thủ Tướng cao cấp của Trung Quốc, Đặng Tiểu Bình, tại Hoa Thịnh Đốn chưa đầy ba tuần trước khi có trận tấn công của Trung cộng được nhìn bởi một số quan sát viên như là một động tác chủ ý của Trung Quốc để khơi dậy các mối ngờ vực của Sô Viết về sự cộng tác Trung Quốc – Mỹ.  Bất kể các lập luận xem ra thuyết phục này, chúng ta không được nhầm lẫn giữa các động lực của Trung Quốc với các chiến lược của nó.  Có thể không mấy nghi ngờ rằng Bắc Kinh đã lợi dụng các quan hệ tế nhị giữa Sô Viết – Mỹ trong việc lựa chọn thời biểu cho cuộc tấn công của nó vào Việt Nam.  Tuy nhiên, không có nhiều xác xuất rằng mục tiêu của Trung Quốc chính yếu nhằm ngăn cản sự hòa hoãn giữa hai siêu cường.  Trước tiên các nhà lãnh đạo Trung Quốc hẳn phải hay biết trọn vẹn rằng việc ve vãn sự ủng hộ của Hoa Kỳ cho chiến dịch Đông Dương của nó có thể có hiệu ứng dội ngược và cảnh báo các nhà lãnh đạo Sô Viết, các kẻ không muốn nhìn thấy sự phát triển của bất kỳ liên minh Hoa Kỳ - Trung Quốc nào chặt chẽ hơn, để chấp nhận một lập trường hỏa giải hơn đối với Hiệp Ước SALT II và các quan hệ khác với Hoa Kỳ.  Hơn nữa, phía Trung Quốc có thể luôn luôn sử dụng các biện pháp ít rủi ro hơn và hiệu quả hơn, chẳng hạn như mở cửa thị trường khổng lồ của nó cho hàng xuất cảng của Hoa Kỳ, hầu lôi cuốn chính quyền Carter nghiêng về phía Trung Quốc.

 

       Theo một lý thuyết khác, cuộc tấn công của Trung Quốc là một mưu tính của Đặng Tiểu Bình nhằm củng cố các cảm thức dân tộc chủ nghĩa trong nội địa Trung Quốc đứng sau sự lãnh đạo của ông.  Bởi việc chuyển hướng sự chú y nội địa đến chiến tranh, một số các nhà quan sát Trung Quốc lập luận, sự chống đối trong nước đối với các chính sách của họ Đặng có thể bị dập tắt.  “Không có gì tốt hơn một tình trạng chiến tranh để thông nhất dân chúng”, một học giả Trung Quốc đã bình luận. 21 Tuy nhiên, có nhiều khuyết điểm trầm trọng trong cách lập luận này.  Trước tiên, sự hợp lý cho thấy rằng họ Đặng có thể tạo ra nhiều chứ không phải là bớt đi sự chống đối cho quyền lãnh đạo của ông qua việc đánh liều an ninh của xứ sở ông.  Thứ nhì, không thể nghĩ được rằng họ Đặng là con người duy nhất đứng đàng sau quyết định tấn công.  Bởi làm như thế, ông có thể tự đặt mình mở ngỏ trước các sự chỉ trích nghiêm trọng của các thành viên khác trong Bộ Chính Trị nếu QĐGPNDTQ không đạt được các mục tiêu của cuộc phiêu lưu.  Theo một nguồn tin, Bộ Chi Huy Cao Cấp (high Command) của ĐCSTQ (CPC) có triệu tập một phiên họp hôm 16 Tháng Hai tại Bắc Kinh liên quan đến cuộc chiến tranh biên giới chống Việt Nam.  Phiên họp này được chủ tọa bởi Chủ Tịch Hoa Quốc Phong, mặc dù chính Đặng Tiểu Bình là người đã đưa ra báo cáo giải thích các mục tiêu của Trung Quốc trong các sự chuẩn bị cho chiến tranh.  Các nhân vật khác tham dự phiên họp gồm các thành viên của Ủy Ban Trung Ương ĐCSTQ đang có mặt tại Bắc Kinh, các bộ trưởng và thứ trưởng của Hội Đồng Nhà Nước, và các người trách nhiệm của Quân Ủy của ĐCSTQ.  Không có sự trùng hợp rằng một ngày trước khi có phiên họp được viện dẫn, tờ Renmin Ribao có công bố một bài viết nhấn mạnh đến sự cần thiết để thành lập một sự lãnh đạo tập thể trong cuộc “Trường Chinh” mới của Trung Quốc tiến tới sự hiện đại hóa. 23 Sau cùng, thật đáng nghi ngờ rằng họ Đặng lại có bao giờ đạt được một vai trò chế ngự như thế trong hệ cấp giới lãnh đạo của Trung Quốc.  Ngay một nhà lãnh đạo lôi cuốn như Mao Trạch Đông đã không thể cưỡng hành chính sách của mình mà không gặp phải sự chống đối từ các đồng sự tại Bộ Chính Trị của ông ta. 24

 

 

CÁC SỰ TÍNH TOÁN VÀ

 

CÁC CHIẾN LƯỢC CỦA TRUNG QUỐC

 

       Chiến dịch Việt Nam của Trung Quốc đã là một động tác được hoạch định và tính toán.  Có thể có một số sự thực trong nhận xét của Đặng Tiểu Bình rằng “bất kỳ hành động nào được thực hiện bởi Trung Quốc đều trải qua một sự cứu xét cẩn thận”. 25 Ít người nghi ngờ rằng quan ngại chính của Trung Quốc trong chiến tranh biên giới là một sự can thiệp khả hữu của Sô Viết.  Khoảng trên dưới 43 sư đoàn Sô Viết, trú đóng dọc theo biên giới Nga-Hoa, đặt ra một sự đe dọa thật quá nghiêm trọng đối với các nhà lãnh đạo Bắc Kinh để có thể tảng lờ đi.  Người Nga có một số sự lựa chọn từ việc can thiệp trực tiếp cho đến cuộc tấn công hạt nhân phủ đầu khu trung tâm kỹ nghệ ở vùng đông bắc Trung Hoa.  Nếu các nhà lãnh đạo Nga Sô quyết định rằng hai giải pháp trên quá bất trắc và có thể khơi ngòi cho một cuộc chiến tranh rộng lớn hơn với Hoa Kỳ, họ vẫn còn các sự lựa chọn để phóng ra một cuộc chiến tranh hạn chế tại các khu vực biên giới của Trung Quốc,  một cuộc hành quân hải quân tại Biển Nam Hải, hay không vận quân sự và các đồ tiếp tế khác đến Hà Nội.  Hiệp ước hữu nghị của Sô Viết với Việt Nam cung ứng cho Mạc Tư Khoa tất cả các sự lựa chọn này.  Tình trạng mơ hồ này giúp cho người Nga suy ngẫm về các giải pháp trong khi đưa ra một sự cảnh cáo “nghiêm trọng” với Bắc Kinh; mặt khác, nó làm gia tăng các yếu tố của sự bất định và từ đó các nỗi lo ngại trong các sự tính toán và các chiến lược của Trung Quốc.  Đối diện với các bất trắc cao độ, các nhà lãnh đạo Trung Quốc rõ ràng cực kỳ điềm tĩnh.  Được hỏi trong một cuộc phỏng vấn mười ngày sau khi khởi sự cuộc chiến tranh biên giới là liệu ông có ước định Mạc Tư Khoa sẽ can thiệp quân sự hay không, họ Đặng đã trả lời: “Chúng tôi ước lượng rằng Liên Bang Sô Viết sẽ không quá nặng tay trong hành động”.  “Tôi nghĩ hành động của chúng tôi có giới hạn, và nó sẽ không đưa đến một biến có rất lớn”, ông nói thêm. 26

 

       Bất kể sự lạc quan của họ Đặng, các nhà lãnh đạo Bắc Kinh không đánh liều.  Họ có vẻ đã loại trừ khả tính của một cuộc tấn kích hạt nhân của Sô Viết và tin tưởng rằng xác xuất về một cuộc tấn công quân sự quy ước trên quy mô rộng lớn từ Sô Viết thì thấp.27 Dù thế Bắc Kinh xem các biến cố biên giới ở quy mô nhỏ, được khiêu khích một cách cố ý bởi Sô Viết, thì có lẽ không tránh khỏi và dường như đã chuẩn bị cho các biến cố này.  Trung Quốc được tường thuật đã cho di tản hàng nghìn cư dân từ các thị trấn gần các khu vực biên giới Nga-Hoa nhiều tuần lễ trước khi có cuộc tấn công toàn lực của nó vào Việt Nam. 28 Các sự di chuyển binh sĩ và xây dựng quân sự tại các khu vực chiến lược cũng được tường thuật tại biên cương phía bắc của Trung Quốc.  Khi Mặt Trận Phương Nam bao gồm các Quân Khu Côn Minh và Quảng Châu được thành lập đối diện với Việt Nam, một sự sắp xếp tương tự đã được thực hiện tại miền bắc để chống lại khả tính của một hành động quân sự của Sô Viết.  Mặt Trận Phương Bắc được cho hay bao gồm các lực lượng thuộc các Quân Khu Tân Cương, Lan Châu, Bắc Kinh và Thiểm Dương.  Toàn thể Mặt Trận Phương Bắc đã được đặt trong tình trạng báo động tối đa khi cuộc “hoàn kich’ của Trung Quốc đánh Việt Nam khai diễn. 29

 

       Trên mặt trận nội địa, phía Trung cộng cũng đã chuẩn bị cho các sự đột nhập khả hữu của Sô Viết từ phương bắc.  Theo sau báo cáo được viện dẫn của Đặng Tiểu Bình về quyết định tấn công Việt Nam, điều được sắp xếp là các cán bộ cao cấp tham dự phiên họp tức thời đi đến nhiều tình và khu tự trị khác nhau để thuyết trình cho các cán bộ lãnh đạo toàn quốc trước khi chiến tranh bùng nổ vào sáng sớm ngày 17 Tháng Hai. 30 Theo một nguồn tin khác, chính phủ Trung Quốc có thông báo cho quần chúng của nó trong cuộc chiến tranh biên giới rằng một thời kỳ khó khăn có thể nằm ở tương lại trước mắt và rằng họ không nên kỳ vọng rằng QĐGPNDTQ sẽ “chiến thắng ở mọi nơi”. 31 Không giống như các chiến dịch quân sự trước đây của Trung Quốc ở Triều Tiên hay Eo Biển Đài Loan, đã không có cuộc tập hợp hay biểu tình quân chúng để phản đối “các sự khiêu khich’ của Việt Nam.  Truyền thông đại chúng cố ý coi nhẹ các bản tường thuật và tuyên truyền về cuộc chiến tranh.  Dân Trung Quốc được bảo bởi các nhà lãnh đạo là giữ điềm tĩnh, tiếp tục công việc khó nhọc, theo đuổi sự xây dựng sản xuất, và chu toàn các công tác khác nhau của nỗ lực hiện đại hóa. 32 Trong bất kỳ trường hợp nào, sự yên tĩnh và liên đới đáng ghi nhận của quần chúng trong suốt chiến dịch quân sự cho thấy rằng chính phủ Trung Quốc có lẽ đã hay biết đầy đủ về các hậu quả khả dĩ cho các hoạt động của nó và đã thi hành nhiều biện pháp để chuẩn bị cho các công dân của nó đối diện với tình trạng xấu nhất.

 

       Các sự tính toán cẩn thận của Trung Quốc được biểu thị đúng nhất bởi các chiến lược của nó trước và trong cuộc chiến tranh biên giới để gián chỉ sự can thiệp của Sô Viết.  Bắc Kinh đã cố gắng một cách chủ định để không gây bất ngờ đối với Mạc Tư Khoa; khiến cho các nhà lãnh đạo Điện cẩm Linh bị bất ngờ sẽ mời mọc các phản ứng liều lĩnh và khó tiên đoán từ Nga Sô – người Nga nổi giận có thể lựa chọn các giải pháp nguy hiểm mà một cách khác họ sẽ không làm như thế, nếu có được thời giờ để đáp ứng.  Nó đã đưa ra các tín hiệu của một cuộc tấn công “trừng phạt” khả hữu vào Việt Nam nhiều tháng trước khi có cuộc xâm lăng thực sự.  Sau cuộc di cư của người gốc Hoa băng ngang biên giới trong mùa hè 1978, chính phủ Trung Quốc nhiều lần cảnh cáo nhà chức trách Việt Nam hãy đình chỉ “các sự khiêu khích nhẫn tâm” dọc các khu vực biên giới.

 

       Lời cảnh cáo nghiêm khắc đầu tiên được đưa ra hôm 7 Tháng Mười Một 1978 trong một văn thư phản kháng từ Bộ Ngoại Giao Trung Quốc.  Văn thư phản đối các sự đột nhập bị cáo giác là của Việt Nam vào lãnh thổ Trung Quốc hôm 1 Tháng Mười Một mà, theo lời phía Trung cộng, gây ra sự tổn thất cho 12 thường dân Trung Quốc.  Văn thư vạch ra rằng người dân Trung Quốc sinh sống tại khu vực biên giới “rất tức giận” về biến cố và đã cảnh cáo các nhà cầm quyền Việt Nam phải đình chỉ mọi sự khiêu khích. 33 Sự phản kháng “nghiêm trọng” thứ nhì được đưa ra hôm 13 Tháng Mười Hai.  Văn thư cảnh cáo các nhà lãnh đạo Hà Nội rằng họ “phải hiểu rằng có một giới hạn trong sự chịu đựng và kiềm chế của Trung Quốc. 34 Nếu các nhà cầm quyền Việt Nam vẫn cố chấp trong đường lối của họ và tiếp tục xâm lấn vào lãnh thổ và chủ quyền Trung Quốc”, văn thư nói thêm, “họ sẽ phải chịu trách nhiệm về các hậu quả”.  Sự phản đối cũng leo thang sự tuyên truyền chống Việt Nam bằng việc nêu ra rằng toàn thể dân chúng Trung Quốc đều “rất tức giận” về hành vi của Hà Nội tại biên giới.  Tần số và cường độ của sự phản kháng của Trung Quốc được đẩy mạnh hơn bởi hai văn thư của Bộ Ngoại Giao hôm 24 Tháng Mười Hai nhắc lại các sự cảnh cáo nghiêm khắc của Trung Quốc. 35

 

       Sau khi có sự sụp đổ của Phnom Penh hôm 7 Tháng Một 1979, Bắc Kinh đã đưa ra trong cùng ngày một bản tuyên bố nói rằng “chính phủ và nhân dân Trung Quốc vô cùng lo ngại về tình trạng nghiêm trọng mà Kampuchea đang đối diện. 36 Hai ngày sau đó, một bài báo bởi “bình luận gia” xuất hiện trên tờ Renmin Ribao cảnh cáo rằng “sự chiếm đoạt Phnom Penh bởi Việt Nam không có nghĩa là kết thúc mà đúng ra là sự khởi đầu chiến tranh”. 37 Lời nhắn nhủ được nghĩ vào lúc đó để ám chỉ đến một cuộc chiến tranh kháng chiến kéo dài khả hữu bởi tàn quân của Pol Pot.  Giờ đây rõ ràng là lời nhắn nhủ đã có các hàm ý rộng rãi hơn và có lẽ là một dậu hiệu cho Hà Nội và Mạc Tư Khoa,  cảnh cáo họ về một cuộc tấn công khả hữu của Trung Quốc tại biên giới Hoa – Việt.  Để bảo đảm rằng dấu hiệu sẽ không bị hiểu lầm như trò phỉnh gạt bởi Hà Nội, các từ ngữ mạnh mẽ nhất được giữ lại cho ba văn thư phản kháng sau cùng, rõ ràng đã được hoạch định được đưa ra vào ngày 18 Tháng Một, 10 và 16 Tháng Hai, lần lượt đúng một tháng, một tuần và một ngày  trước khi có cuộc hoàn kích thực sự. 38 Các văn thư trong Tháng Hai đã di chuyển chiến dịch chống Việt Nam sang tần số cao hơn bằng việc tuyên bố lần đầu tiên rằng chính phủ Trung Quốc thì “cực kỳ tức giận” vì các cuộc đột nhập cố chấp của Việt Nam và đòi hỏi một sự đình chỉ “tức thời và hoàn toàn” mọi sự khiêu khích.  Trong một phiên họp với một phái đoàn quân sự từ Pakistan, một ngày sau văn thư ngày 10 Tháng Hai, Phó Thủ Tướng Lý Tiên Niệm đã nghiêm khắc cảnh cáo Hà Nội đừng phớt lờ các sự phản kháng nhiều lần của Trung Quốc như “ngọn gió thoảng qua”. 39  Lời cảnh cáo của họ Lý được ấn loát một cách rõ ràng nơi góc phải bên trên của trang đầu tờ Renmin Ribao.

 

       Việc đưa ra các lời cảnh cáo nghiêm khắc về hành động quân sự khả hữu của Trung Quốc diễn ra rất lâu trước khi có cuộc tấn công thực sự và sự ấn định thời biểu cố ý cho việc truyền đạt ý định tấn công của Trung Quốc vào đối thủ của nó làm nhớ lại các chiến lược tương tự của Trung Quốc trước khi nó bước vào cuộc Chiến Tranh Triều Tiên và các vụ đụng độ biên giới với Ấn Độ.  40 Việt nam, giống như người Mỹ và Ấn Độ, được cho phép có đủ thời giờ để thay đổi các chính sách chống Trung Quốc của họ.  Qua sự so sánh, tính trong sáng và mức khả tín của các lời cảnh cáo của Trung Hoa trước khi có cuộc chiến tranh biên giới Hoa – Việt được nâng cao một cách đáng kể bởi phương tiện truyền thông được cải tiến nhiều và các đường dây ngoại giao.  Hơn nữa, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã không ngần ngại tận dụng chiến dịch tấn công ngoại giao thành công gần đây của Trung Quốc và nhiều lần nói bóng gió với các lãnh đạo của các nước khác rằng Bắc Kinh đang cứu xét đến một số loại biện pháp trừng phạt hành động sai lạc của Hà Nội.  Lời nhắn nhủ này rõ ràng được chuyển đạt bởi Đặng Tiểu Bình trong khi ông ta đang thăm viếng Bangkok trong Tháng Mười Một 1978 và du hành sang Hoa Kỳ và Nhật Bản trước khi có sự bùng nổ của cuộc chiến tranh biên giới.  Chiến lược của Trung Hoa được chủ định một phần nhằm thăm dò sự đáp ứng khả hữu và kêu gọi sự ủng hộ từ những nước sẽ quan tâm nhiều nhất đến tình hình tại Đông Dương và, có lẽ quan trọng hơn trong các sự tính toán của bắc Kinh, để loại bỏ các thành tố của sự choáng váng đối với các đồng minh khả hữu cũng như đối với các đối thủ.  Trong thực tế, lời nhắn nhủ của Trung Quốc được đánh điện tới khắp nơi đên nỗi Thượng Nghị Sĩ Henry Jackson của tiểu bang Washington, một người chỉ trích lớn tiếng các chính sách của Sô Viết, tin rằng phía Trung Hoa sắp đánh”Việt Nam chảy cả máu mũi ra”.  Quan trọng hơn nữa, các trống trận của Trung Quốc rõ ràng được nhận thấy bởi các lãnh tụ điện Cẩm Linh.  Vào ngày 6 Tháng Hai, mười ngày trước khi có cuộc tấn công của Trung Quốc, Thủ Tướng Sô Viết Kossygin có nhận xét rằng các lời tuyên bố được đưa ra tại Hoa Kỳ bởi họ Đặng không khác gì “một lời tuyên chiến” với Việt Nam. 41

 

       Tuy nhiên, giống như tác phong xung đột trong quá khứ của nó, Bắc Kinh giữ lại khả tính của sự bất ngờ chiến thuật về quy mô, thời biểu, và địa điểm cụ thể của cuộc tấn công thực sự trong khi đưa ra các lời cảnh cáo chiến lược về các ý định của nó. 42 Trong thực tế, cuộc tấn công của Trung Quốc rõ ràng đặt Hà Nội vào sự bất ngờ.  Vào lúc bùng nổ cuộc chiến, nhiều lãnh đạo thượng tầng của Việt Nam đang ở Phnom Penh kể cả Thủ Tớng Phạm Văn Đồng, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Văn Tiến Dũng, và Bộ Trưởng Ngoại Giao Nguyễn Duy Trinh.  Việt Nam có thể đã ước lượng thấp Bắc Kinh và giả định rằng Trung Quốc không có ý chí và khả năng giao chiến bởi sự lo ngại của họ về các phản ứng khả hữu của Sô Viết, tuổi già của nhiều lãnh tụ Trung Quốc đang bận tâm với các kế hoạch hiện đại hóa nhiều tham vọng, và vũ khí lỗi thời của Trung Quốc và việc thiếu huấn luyện chuyên môn trong quân đội của nó kể từ Cuộc Cách Mạng Văn Hóa.  Mặt khác, sự hiện diện của Bộ Trưởng Ngoại Giao Ấn Độ, Atal Behari Vajpayee tại Trung Quốc có thể đã dẫn dắt Hà Nội tin rằng cuộc tấn công của Trung Hoa đe dọa từ lâu không gần kề.  Không rõ là Sô Viết cũng bị ngạc nhiên về việc ấn định thời điểm của cuộc tấn công của Trung Hoa hay không.  Các nhà lãnh đạo điện Cẩm Linh, học hỏi từ các cuộc chiến tranh biên giới trong quá khứ của Sô Viết với Trung Quốc, có thể hiểu biết các bước tiến chiến thuật của Trung Quốc rõ hơn.  Trong bất kỳ trường hợp nào, quy mô của cuộc tấn công toàn lực của Trung Quốc rõ ràng sẽ là một sự bất ngờ hoàn toàn đối với Việt nam và có lẽ cả Nga Sô.  Chính vì thế QĐGPNDTQ đã có khả năng thực hiện sự chiến thắng mau lẹ trong sự tiến quân ban đầu và gây ra các sự tổn thất nặng nề cho dân quân và quân biên phòng của Việt Nam. 43

 

       Một khi chiến tranh bùng nổ, phía Trung Quốc cực kỳ cẩn trọng để không khiêu khích sự can thiệp của Sô Viết.  Bắc Kinh nói rõ vào lúc bắt đầu về  động lực hạn chế (tức các mục tiêu đã được tuyên bố của nó nhằm trừng phạt các sự đột nhập của Việt Nam) và phạm vi của chiến dịch quân sự của nó chống lại Hà Nội.  “Chúng tôi không muốn dù chỉ một tấc đất của lãnh thổ Việt Nam”, các nhà cầm quyền Trung Quốc tuyên bố, “sau cuộc hoàn kịch quân xâm lược Việt Nam mà họ xứng đáng [nhận lãnh], bộ đội biên giới Trung Quốc sẽ được giữ nghiêm ngặt để phòng vệ biên giới lãnh thổ của chính họ”. 44 Các nhà lãnh đạo ở Bắc Kinh cũng cố gắng để thuyết phục thế giới, đặc biệt Liên Bang Sô Viết, rằng thời hạn của cuộc chiến tranh biên giới sẽ rất ngắn.  Trong lời bình luận công khai đầu tiên của ông ba ngày sau khi khởi sự cuộc tấn công của Trung Quốc, Phó Thủ Tướng họ Đặng nhấn mạnh rằng “cuộc hoàn kich’ sẽ là một cuộc chiến tranh giới hạn tương tự như cuộc giao chiến dọc biên giới Ấn-Hoa kéo dài đúng một tháng.  Ông nói, “Hành động này sẽ là một hành động hạn chế, một hoạt động phản ứng sự khiêu khích sẽ thận trọng để theo dõi tình hình này, và nó sẽ không kéo dài hay mở rộng trong bất kỳ phương hướng nào”. 45

 

       Tại tiền tuyến, phía Trung cộng đã không ước lượng thấp sức giao chiến của quân đội Việt Nam và một quân số khổng lồ các binh sĩ QĐGPNDTQ đã được điều động để áp đảo quân Việt Nam theo tỷ số 2 trên 1.  Chiến lược hiển nhiên là giành được một cuộc chiến thắng mau chóng và dứt khoát trước khi rút quân.  Cùng lúc, các nhà lãnh đạo Trung Quốc thận trọng không cho leo thang cuộc chiến tranh biên giới thành một cuộc chiến tranh rộng lớn hơn.  Trong thực tế, phía Trung Cộng giao chiến với một mắt canh chừng các sự chuyển động của Nga Sô tại phương Bắc.  Bắc Kinh đã né tránh việc sử dụng không lực của nó để yểm trợ các cuộc hành quân trên đất liền hay để quấy rồi truyền tin của Việt Nam và đã kiềm chế việc bỏ bom sự tiếp tế quân sự của Sô Viết cho Hà Nội. 46 Hơn nữa, các nhà lãnh đạo Trung Quốc cự tuyệt bất kỳ ý định nào về việc tiến quân của QĐGPNDTQ vào vùng Châu Thổ sông Hồng đông dân và đến Hà Nội (điều được tin tưởng nói chung rằng bất kỳ cuộc tấn công nào của Trung Quốc vào thành phố Hà Nội sẽ khiêu khích người Nga can thiệp). 47 Các lực lượng Trung Quốc theo tường thuật có nhận lệnh không được tiến quân sâu hơn 50 cây số vào lãnh thổ Việt Nam. 48

 

       Ở cao điểm của cuộc chiến tranh biên giơi, các đề nghị thường trực của Bắc Kinh về các cuộc thương nghị hòa bình với Hà Nội là các bước tiến chiến thuật một phần nhằm làm suy yếu ý chí của Việt Nam và tinh thần chiến đấu của binh sĩ; chúng cũng phản ảnh sự lo ngại thực sự của Trung Quốc về một cuộc chiến tranh mở rộng.  Điều quan trọng để ghi nhận rằng Trung Quốc vẫn tiếp tục, sau khi có sự bùng nổ chiến tranh biên giới, các cuộc thương thảo Nga-Hoa ít được công bố về sự hải hành trên giòng sông biên giới và rõ ràng đạt được các sự thỏa thuận tại một số khu vực tranh chấp với Sô Viết. 49 Không rõ là liệu sự liên tục của các cuộc thương thảo biên giới với Nga có phải là một trong các chuyển động chiến lược của Bắc Kinh hay không.  Dù sao, đó là một cử chỉ của Trung Quốc đối với Liên Bang Sô Viết rằng Bắc Kinh đã không muốn các sự tranh chấp đương thời của nó với Hà Nội làm phương hại đến các quan hệ nhà nước và nhà nước đối với Mạc Tư Khoa.

 

       Các sự tính toán và các chiến lược của Trung Quốc để gián chỉ người Nga khỏi việc can thiệp có thể không đạt được các mục tiêu của nó nếu không có lá bài Mỹ.  Sự ấn định thời điểm cho cuộc xâm lăng của Trung Quốc, diễn ra chưa đầy hai tuần sau cuộc thăm viếng Hoa Kỳ của họ Đặng, phản ảnh tầm quan trọng của phản ứng của Mỹ trong các sự tính toán của Bắc Kinh.  Họ Đặng rõ rằng muốn chắc chắn là cuộc tấn công trừng phạt của Trung Quốc vào Việt Nam sẽ không gây phương hại đến các quan hệ ngoại giao mới được thiết lập với Hoa Kỳ.  Quan trọng hơn, về mặt các sự tính toán chiến lược, họ Đặng chắc chắn có con bài Mỹ trong đầu như một sự gián chỉ chống lại bất kỳ động tác quân sự khả hữu nào của Sô Viết.

 

       Sự thất bại của [Tổng Thống Mỹ] Jimmy Carter để có một lập trường mạnh mẽ và sự chậm trễ của ông trong việc cảnh cáo họ Đặng, cùng với sự ấn định thời điểm của cuộc tấn công và cuộc thăm viếng của Bộ Trưởng Ngân Khố Hoa Kỳ, Michael Blumenthal, tại Bắc Kinh vào lục đang có chiến tranh, thúc đẩy Sô Viết trách cứ người Mỹ đã chấp thuận cuộc xâm lăng. 50 Thái độ mơ hồ này của Mỹ, như bị tố giác bởi Mạc Tư Khoa, cảnh giác các nhà lãnh đạo điện Cẩm Linh đừng lựa chọn các giải pháp phiêu lưu chống lại Trung Quốc.  Hoa Thịnh Đốn tuyên bố chính sách bất can thiệp (hands-off policy) của nó, nhưng sự hiện diện của hàng không mẫu hạm Constellation, ở cao điểm của chiến dịch quân sự của Trung Quốc, tại hải phận không dễ dàng vươn tới của Việt Nam phục vụ như một sự gián chỉ khả hữu đối với hoạt động hải quân của Sô Viết chống lại Trung Quốc.  Có một tin đồn (từ các nguồn tin ngoại giao tại Bắc Kinh) trong suốt cuộc chiến tranh biên giới rằng Hoa Kỳ có chuyển các tin tức về các ý định của Trung Quốc cho Liên Bang Sô Viết và ngược lại (vice versa).  Vai trò này của Mỹ có thể trợ lực vào việc ngăn cản sự can thiệp vũ trang của Sô Viết vào cuộc xung đột.  Tuy nhiên, Mạc Tư Khoa đã phủ nhận rằng nó có tham gia vào các sự tiếp xúc bí mật với Trung Quốc và Hoa Lỳ liên quan đên cuộc chiến. 51 Trong bất kỳ trường hợp nào, sự bất định trong các động tác của Hoa Kỳ đã loại bỏ giải pháp hạt nhân của Sô Viết.  Hơn nữa, phía Nga rõ ràng đã miễn cưỡng để can thiệp, lo sợ rằng bất kỳ hành động quân sự trực tiếp nào của Sô Viết có thể xô đẩy Trung Quốc nghiêng sâu hơn nữa về phía Hoa Kỳ -- một liên minh Trung Quốc – Hoa Kỳ chính thức đúng là một ác mộng đối với Mạc Tư Khoa.  Sô Viết cũng không muốn làm phương hại đến sự hòa hoãn của họ với phía Mỹ, đặc biệt các cuộc thương nghị để kết thúc các thỏa ước SALT II.                                           

 

       Sự bận tâm của Bắc Kinh về sự can thiệp khả hữu của Sô Viết không phải là sự tính toán duy nhất của nó trong chiến dịch Việt Nam.  Các nhà lãnh đạo Trung Quốc rõ ràng quan tâm nhiều về phản ứng của công luận thế giới đối với cuộc chiến; nó sẽ gây tổn hại quá lớn về mặt chính trị và ngoại giao cho Trung Quốc khi đánh mất tiếng tăm khó kiếm được, dù thực hay ảo tưởng, đặc biệt trong các nước Thế Giơi Thứ Ba, như là một quốc gia xã hội chủ nghĩa yêu hòa bình và thân thiện.  Chính phủ Trung Quốc bị thúc ép mạnh mẽ để chứng minh sự xâm lăng của Trung Quốc vào một lân bang nhỏ bé (mặc dù không có cách gì là nhỏ bé về mặt khả năng quân sự) đối với công luận thế giới.  Sự nhấn mạnh của Bắc Kinh trên bản chất phòng vệ của chiến dịch của Trung Quốc chống lại Việt Nam rõ ràng là nhằm giành đoạt sự chấp thuận quốc tế cho các hành động của nó.  Vào lúc bùng nổ chiến tranh, phía Trung Quốc tin tưởng, có lẽ quá sớm, rằng lập trường của họ sẽ “thụ hưởng cảm tình và sự ủng hộ” của mọi nước. 52

 

       Nỗ lực của Trung Quốc nhằm giành thắng sự ủng hộ của các nước đang phát triển thuộc Thế Giới Thứ Ba cho chiến dịch của nó được đặt tiêu điểm ở các cuộc tranh luận tại Liên Hiệp Quốc.  Phía Trung Cộng, vận dụng sự thành công ngoại giao gần đó của họ để thiết lập một khoản tích trữ thiện chí, đặc biệt tin tưởng rằng vào việc thuyết phục các nước Thế Giới Thứ Ba rằng họ có ý định triệt thoái trong ít ngày. 53 Họ cũng nói rõ các mục tiêu hạn chế của họ và tái xác nhận rằng Trung Quốc không muốn dù một tấc đất của lãnh thổ Việt Nam.  Họ đã thành công trong việc vận động sự ủng hộ cho một nghị quyết được bảo trợ bởi các nước khối ASEAN đòi hòi sự triệt thoái mọi quân đội ngoại quốc ra khỏi Đông Dương, kể cả các binh sĩ rõ ràng của Việt Nam đang trú đóng tại Lào và Căm Bốt.  Nhưng khi cuộc chiến tranh kéo dài, phía Trung Quốc mất đi sự tín nhiệm bởi  các sự nghi ngờ được khơi dậy trong các nhà lãnh đạo Thế Giới Thứ ba về các mục tiêu của Trung Quốc.  Mười ngày sau khi khởi sự cuộc tấn công của Trung cộng, Đặng Tiểu Bình vẫn còn bác bỏ ý kiến cho rằng công luận thế giới sẽ quay lại chống Trung Quốc, nói rằng: “Có vẻ đối với tôi rằng hiện tại đang có công luận thế giới thuận lợi hơn được phát biểu dành cho lập trường của Trung Quốc”. 54 Tuy nhiên, trong sự riêng tư, một số các viên chức Trung Quốc nhìn nhận rằng phản ứng thế giới không đúng như những gì mà phía Trung Quốc đã dự liệu. 55

 

       Cân nhắc mọi khía cạnh, phía Trung Quốc đã thành công một cách rõ rệt trong các sự tính toán và các chiến lược của họ.  Các nhà lãnh đạo của Bắc Kinh có lẽ đã hiểu biết người Nga rõ hơn, như chính họ đã tuyên bố 56 và tin tưởng rằng Mạc Tư Khoa sẽ không can thiệp về quân sự nếu cuộc chiến tranh không được leo thang.  Tuy thế, phía Trung Quốc cũng không loại trừ bất kỳ sự can thiệp vũ trang khả hữu nào của Sô Viết; họ đã hoạch định và thực hiện các chiến lược thận trọng để gián chỉ Sô Viết.  Tuy nhiên, sự né tránh một cuộc chiến tranh rộng lớn hơn, không nên chỉ được nhìn nhận cho Bắc Kinh không thôi.  Nói cho cùng, chính sự kiềm chế của Sô Viết, vì bất kỳ lý do gì, đã ngăn cản một sự xung đột Trung Quốc – Sô Viết trực tiếp hay ngay cả một cuộc thế chiến dính líu đên Hoa Kỳ.

 

       Mạc Tư Khoa đã giới hạn sự trợ giúp của nó cho Hà Nội vào việc không vận đồ tiếp liệu quân sự và theo dõi điện tử các khu vực chiến trường bởi mười một tàu chiến kể cả chiếc soái hạm của Hạm Đội Thái Bình Dương của nó, đi tuần dương ngoài khơi bờ biển Hải Phòng trong suốt cuộc chiến.  Các sự tường thuật về việc Quân Đội Sô Viết được đặt trong tình trạng báo động và các tin đồn về các sự di chuyên binh sĩ Sô Viết dọc biên giới Trung Quốc không có căn cứ và về sau bị phủ nhận bởi các nguồn tin tình báo Tây Phương.  Phán đoán từ các lời tuyên bố công khai được đưa ra bởi nhà thẩm quyền Sô Viết từ khi có sự khởi đầu cuộc chiến, các nhà lãnh đạo điện Cẩm Linh cố ý tỏ vẻ mơ hồ về các chủ định của họ, đặc biệt trong các giai đoạn ban đầu của cuộc tấn công của Trung Quốc.  Sự bất định trong các thái độ của Sô Viết có lẽ đã cảnh cáo phía Trung Quốc không được xâm nhập, sau cuộc tiến quân khởi đầu, quá sâu vào lãnh thổ Việt Nam.  Bất kể lời cảnh cáo nghiêm khắc của Sô Viết đến “các kẻ quyết định chính sách tại Bắc Kinh” phải ngừng lại cuộc xâm lăng “trước khi quá trễ” (ít mang vẻ một đe dọa quân sư hay một tối hậu thư cho bằng một dấu hiệu dành cho  Trung Quốc  một lối thoát không mất thể diện), 57 điều rõ ràng một tuần lễ sau khi có sự bùng nổ chiến tranh, phía Nga Sô đã không hoạch định sự can thiệp quân sự vào cuộc xung đột Trung Quốc – Việt Nam chừng nào mà quy mô của chiến sự còn được hạn chế.  Các nhà lãnh đạo Sô Viết chứng tỏ sự kiềm chế của họ bằng việc hình dung phía Việt Nam là hoàn toàn có khả năng đối phó với cuộc tấn công của Trung Quốc và còn tiên đoán rằng ‘Trung Quốc sẽ nhận lãnh một bài học chứ không phải là đi dạy cho Việt Nam một bài học. 58                 

 

       Điều không rõ ràng là liệu Liên Bang Sô Viết có bị gián chỉ bởi lá bài Hoa Kỳ của Trung Quốc hay không, hay quân đội Trung Quốc vốn  đáng nể sợ (mặc dù phẩm chất còn kém xa), hay các vấn đề tiếp vận khổng lồ của việc thực hiện một cuộc động binh trên quy mô lớn khả dĩ duy trì được tại mặt trận phía đông ở Tây Bá Lợi Á – có thể tất cả yếu tố đó đã góp phần vào sự kiềm chế của Sô Viết.  Mặt khác, giới lãnh đạo điện Cẩm Linh già nua và thận trọng (đôi khi không quyết đoán và thiếu nghị lực) rõ ràng đã miễn cưỡng để giao kết đất nước khó khăn về kinh tế của nó với một vùng đất quá xa xôi đối với các quyền lợi quốc gia trực tiếp của nó.  Lời cảnh báo trước của Trung Quốc về các chủ định của Bắc Kinh nhằm “trừng phạt” Việt Nam rõ ràng có dành đủ thì giờ cho các nhà lãnh đạo điện Cẩm Linh để cứu xét các ưu tiên trong các quyền lợi quốc gia của Sô Viết cho các sự lựa chọn chính sách khả dĩ khác nhau.  Đối với Mạc Tư Khoa, vốn đánh cược đúng thực là quá cao cho sự can thiệp vũ trang.  Hơn nữa, sự thận trọng của Trung Quốc trong việc giới hạn khuôn khổ của cuộc chiến hiển nhiên làm cho sự quyết định dễ dàng hơn cho Mạc Tư Khoa.  Trong bất kỳ trường hợp nào, sự bất ngờ chiến thuật của cuộc tấn công của Trung Hoa có thể đã không dành đủ thời lượng cho Sô Viết để di chuyển các sư đoàn tại Tây Bá Lợi Á của họ trước khi có sự triệt thoái của Trung Quốc ra khỏi Việt Nam.  Sau cùng, thái độ của Việt Nam đối với sự can thiệp của Sô Viết có thể đã là một yếu tố then chốt.  Không có dấu hiệu là liệu Hà Nội có yêu cầu Sô Viết về một sự can thiệp quân sự trực tiếp hay không; tuy nhiên, điều này rất nhiều phần không xảy ra, với truyền thống kiêu hãnh về độc lập của Việt Nam và đã tuyên bố sự tin tưởng trong việc đẩy lui các lực lượng Trung Quốc.

 

       Điều bí ẩn , theo một số các nhà phân tích quân sự, rằng Việt Nam đã không sử dụng không lực có phẩm chất vượt trội hơn nhiều của họ (mặc dù bị áp đảo bởi số lượng máy bay Trung Quốc là 10 trên 1) để dội bom các binh sĩ và sự tiếp tế của Trung Quốc.  Điều được nghĩ rằng nếu phía Việt Nam, với ít nhất 70 chiếc MIG-21 và một số chiến đấu cơ Mỹ còn tinh vi hơn tịch thu được trong chiến tranh Việt Nam, tấn công Trung cộng trong giai đoạn đầu tiên của cuộc chiến, họ đã có một cơ may để bẻ gãy động năng của bước khởi tiến của quân Trung Quốc. 59 Ngoài các sự giải thích quân sự khả dĩ chẳng hạn như học thuyết quân sự Việt Nam cổ truyền nhấn mạnh đến tầm quan trọng quyết định của bộ binh trên chiến trường  và có lẽ sự miễn cưỡng của Hà Nội không muốn đánh liều các máy bay quý giá, 60 sự giải thích chính yếu cho điều “bí ẩn” có thể nằm ở trong quyết định của các nhà lãnh đạo Việt nam không muốn leo thang cuộc chiến tranh biên giới thành một cuộc chiến tranh toàn diện với Trung Quốc, một kẻ thù mà Việt Nam khó có thể ước định sẽ đánh bại.  Sự kiềm chế của Việt Nam này cũng giải thích phần nào sự ngập ngừng của Hà Nội để đưa ra trận các lực lượng chính quy thiện chiến (chỉ có một sư đoàn quân chính quy được tường thuật đã can dự vào trận đánh cuối cùng và quyết định tại Lạng Sơn [trong nguyên bản ghi sai là Long Son, chú của người dịch].

 

       Người ta có thể dễ dàng trưng dẫn nhiều yếu tố đã cảnh giác Hà Nội đừng leo thang cuộc chiến tranh biên giới: thí dụ, kinh tế của Việt Nam, ở vào tình trạng hỗn loạn trước khi có sự bùng nổ chiến tranh gây ra bởi thiên tai, sự quản trị vô hiệu quả và cuộc di cư ồ ạt các nhân viên kỹ thuật và có kỹ năng cao do hậu quả của các chính sách tập thể hóa.  Môi trường đối ngoại của Việt Nam cũng không thuận lợi cho một cuộc chiến tranh quy mô kéo dài với Trung cộng: khoảng 100,000 binh sĩ chính quy Việt Nam bị sa lầy tại Kampuchea đang trải qua các khó khăn nghiêm trọng về đồ tiếp liệu, viện trợ và sự hiện diện quân sự tại nước Lào lạc hậu là một chiếc cùm kéo lùi bước tiến, và các sự thù nghịch và lo sợ gia tăng từ các nước khối ASEAN đối với sự chiếm đóng của nó tại Kampuchea đặt ra một sự đe dọa cho hy vọng dài hạn của Hà Nội về việc duy trì các quan hệ thân hữu với các lân bang tại Đông Nam Á.  Bất luận các lý do thực sự đàng sau sự kiềm chế của Hà Nội là gì, chiến lược của nó thì phù hợp với chiến lược của Bắc Kinh, chính vì thế đã góp phần một cách gián tiếp vào ý đồ của Bắc Kinh muốn ngăn cản sự can thiệp quân sự của Sô Viết.

 

       Các nhà lãnh đạo Bắc Kinh đã có dự liệu sự kiềm chế của Việt Nam hay không? Hẳn không phải chỉ là sự ức đoán thuần túy để nghĩ rằng phía Trung Quốc có thể đã tiên đoán được sự miễn cưỡng và vô năng lực của Hà Nội để chiến đấu một cuộc chiến tranh kéo dài sau khi chấm dứt mọi khoản viện trợ và giúp đỡ của Trung Quốc cùng với sự rút các cố vấn và kỹ thuật gia Trung Quốc về nước, điều mà bản thân Trung Quốc đã trải nghiệm qua một thời kỳ khó khăn gây ra bởi một hành vi tương tự của Sô Viết hồi cuối thập niên 1950.  Để làm tê liệt hơn nữa khả năng phản công của Việt Nam, Trung cộng đã sắp đặt thời biểu cuộc tấn công của nó sau khi cắt đứt số dầu xuất cảng của nó sang Việt Nam. 61 Trung Quốc được ước lượng đã cung cấp đến phân nửa tổng số cầu dầu hỏa của Việt Nam.  Chính vì thế, tính toán sự miễn cưỡng của Hà Nội để liều mình phóng theo một cuộc chiến tranh toàn diện, Bắc Kinh đã hy vọng giành thắng trong một chiến dịch tốc chiến tốc quyết (blitzkrieg) đánh vào Việt Nam.

 

       Bất kể các sự tính toán xem ra triệt để của nó, các chiến lược của Trung Quốc không phải lúc nào cũng nhất quán.  Mối quan tâm quan trọng hơn hết của bắc Kinh nhằm ngăn chặn sự can thiệp quân sự khả hữu của Sô Viết tất nhiên đã giới hạn các sự lựa chọn của chính nó.  Các lực lượng Trung Quốc kiềm hãm các cuộc tấn kích chiến lực sâu vào vùng đồng bằng của Việt Nam, vốn cần thiết để cắt đứt các sự tiếp tế và tăng viện của Việt Nam, và chính vì thế, gây trở ngại cho ý đồ tổng quát của Trung cộng cho một cuộc tấn công trừng phạt mau chóng và quyết đoán trước khi có sự triệt thoái binh sĩ.  Các quan ngại của Bắc Kinh về phản ứng của thế giới đã ngăn cấm hơn nữa các bước tiến chiến lược của nó.  Với sự chỉ trích và cảnh cáo gia tăng từ các nhà lãnh đạo tại nhiều thủ đô, Trung Quốc bị buộc phải lùi bước khỏi việc giương bẫy cố ý các lực lượng chính quy của Việt Nam và đã phải chấm dứt đột ngột cuộc chiến tranh biên giới 17 ngày qua việc loan báo sự triệt thoái binh lính của nó chỉ bốn giờ sau cuộc chiến thắng phần lớn có tinh chất biểu trưng tại Lạng Sơn. 62 Vào ngày 16 Tháng Ba đúng một tháng sau khi “cuộc hoàn kích” khởi sự, phía Trung cộng tuyên bố rằng nó đã hoàn tất sự triệt thoái các binh sĩ ra khỏi Việt Nam. 63 Sự sắp xếp thời biểu rút quân phù hợp với lời tuyên bố ban đầu của Trung Quốc rằng cuộc chiến tranh sẽ kéo dài khoảng một tháng, rõ ràng là một chuyển động để giữ sĩ diện.

 

 

TRUNG QUỐC CÓ ĐẠT ĐƯỢC

 

CÁC MỤC TIÊU CỦA NÓ HAY KHÔNG?

 

       Với các chiến lược đước tính toán và rõ ràng được hoạch định một cách kỹ lưỡng của nó, và có lẽ với một vài sự may mắn, cùng với sự tự chế được áp đặt bởi Mạc Tư Khoa và Hà Nội, Trung Quốc đã có thể rút chân ra một cách an toàn khỏi bờ vực của một cảnh trí có thể xấu nhất của một cuộc chiến tranh mở rộng liên can đến Liên Bang Sô Viết và Hoa Kỳ.  Các nhà lãnh đạo quanh thế giới xem ra cảm thấy nhẹ nhõm khi Chủ Tịch Hoa Quốc Phong loan báo hôm 5 Tháng Ba quyết định của Trung Quốc khởi sự rút quân ra khỏi lãnh thổ Việt Nam.  Chính phủ Trung Quốc đã tuyên bố rằng các lực lượng quân sự của nó đạt được các mục đích trong cuộc chiến tranh biên giới 17 ngày.  Tuy nhiên, phán đoán từ các kết quả quân sự và các phản ứng trực tiếp từ các nước bạn cũng như thù của Trung Quốc, thành quả có thể không đáp ứng được các mục tiêu “trừng phạt” của nó.

 

       Trung Quốc có thể đã thành công một phần trong việc phá hủy tính chất vô địch của các lực lượng quân sự của Việt Nam; Hà Nội nhìn nhận rằng nó đã phải gánh chịu “nhiều khó khăn và tổn thất” trong cuộc tấn công của Trung cộng.  Theo các con số chính thức của phía Trung Quốc, 50,000 người Việt Nam đã bị giết hay bị thương trong cuộc chiến tranh. 64 Phía Việt Nam hiện đang phải đối diện với công tác to lớn của việc tái thiết các cơ xưởng và tuyến giao thông bị phá hủy bởi binh sĩ Trung cộng.  Tuy nhiên, phía Trung Quốc cũng bị tổn hại không kém, mặc dù họ sẽ phục hồi sớm hơn nhiều so với Việt Nam từ sự xáo trộn kinh tế phát sinh nhờ ở các tài nguyên khổng lồ của Trung Quốc.  Hơn nữa, sức mạnh của hai lực lượng quân sự chưa thực sự bị thử thách khi Việt Nam chỉ gửi đến trận mạc ít các lực lượng chính quy của nó.

 

       Trung Quốc cũng đã không thành công trong mưu tính hiển nhiên của nó nhằm kéo binh sĩ Việt Nam ra khỏi Kampuchea.  Hà Nội chỉ mới khởi sự di chuyển một số các lực lượng chính quy của nó ra khỏi Kampuchea lên biên giới Trung Quốc sau khi có sự loan báo rút quân của Trung Quốc, rõ ràng để thay thế cho quân biên phòng và dân quân bị đánh phá tơi bời.  Nhưng vị thế của Việt Nam tại Kampuchea đã không bị suy yếu một cách đáng kể khi Hà Nội đã mau chóng tăng cường mặt trận phía tây bằng các tân binh.  Có sự hồ nghi rằng các lực lượng du kích của Pol Pot có giành được nhiều sự cứu giúp từ cuộc chiến hay không.  Ngược lại, Hà Nội rõ ràng sẽ quyết tâm sau khi cuộc chiến tranh biên giới để thúc đẩy chiến dịch của nó tại Kampuchea và để quét sạch các ổ kháng cự còn sót lại của các lực lượng Khmer Đỏ.  Tuy nhiên, Bắc Kinh đã thành công trong việc kéo căng và dàn mỏng sức mạnh quân sự của Việt Nam qua việc lôi kéo một số đông các lực lượng chính quy của Việt Nam tới vùng biên giới.

 

       Phía Trung Quốc đã chứng tỏ rằng họ “nghiêm chỉnh về những gì nói ra” và rằng Trung Quốc không phải là một “con hổ giấy” sợ không dám hành động chống lại các bất trắc lớn lao.  Họ phơi bày cho thế giới rằng Liên Bang Sô Viết thì không đáng sợ gì cả và có thể bị thách đố một cách can đảm bởi một nước yếu hơn nhưng cương quyết.  Quyết định của Trung Quốc để rút quân nhằm không khiêu khích người Nga can thiệp và sự triệt thoái trật tự một cách đáng chú ý [sic] đã đạt được sự mãn nguyện tổng quát từ nhiều nhà lãnh đạo thế giới, mặc dù chính hành vi xâm lăng vào lãnh thổ Việt Nam của nó đã làm ô uế sự tuyên xác của Trung Quốc như là một quốc gia xã hội chủ nghĩa thân thiện và hòa bình.  Tuy nhiên, các sự đáp ứng từ các nước cá biệt không có cách chi là chỉ toàn thuận lợi.  Tại một số nước, các tổn hại ngoại giao và chính trị có thể quá cao để bù đắp được bởi bất kỳ lợi  lộc khả hữu nào.

 

       Với việc tuyên bố rằng sự thiết lập các quan hệ ngoại giao giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc là “không thể đảo ngược”, Tổng Thống Carter đã gián tiếp bật đèn xanh cho phía Trung Quốc tấn công Việt Nam.  Khi lời hứa hẹn rút quân của Trung Quốc bị trì hoãn, sự quan ngại của Hoa Thịnh Đốn được nâng cao và Tổng Thống Carter đã thúc dục một sự rút quân Trung cộng mau lẹ trước khi chiến cuộc lan tràn. 65 “Cuộc hoàn kích” của Trung Quốc làm suy yếu đáng kể vị thế thương thảo của chính quyền Carter trong việc ngăn cản sự tu chính pháp chế sẽ cho phép Hoa Kỳ duy trì các quan hệ không chính thức với Đài Bắc trong khi đưa ra sự thừa nhận ngoại giao đối với Bắc Kinh.  Dự luật đã được chấp thuận bởi cả hai Viện của Quốc Hội, sau khi có các sự tu chính của Ủy Ban Ngoại Giao, đã tuyên bố rằng chính sách của Hoa Kỳ sẽ xem bất kỳ nỗ lực nào nhằm giải quyết vấn đề Đài Loan bằng vũ lực quân sự là một sự đe dọa cho hòa bình và an ninh trong vùng và một “sự quan tâm nghiệm trọng” đối với Hoa Kỳ.  Pháp chế này hứa hẹn “trợ giúp nhân dân Đài Loan duy trì một năng lực tự vệ đầy đủ xuyên qua sự cung cấp vũ khí có tính chất phòng thủ”.  Mặc dù các nhà lãnh đạo Trung Quốc nhiều phần sẽ không giải quyết vấn đề Đài Loan bằng vũ lực trong một tương lai khả đoán, chính sách của Hoa Kỳ dù thế phục vụ như một sự kiềm chế trên các sự lựa chọn của Trung Quốc.  Hơn nữa chiến dịch Việt Nam của Trung Quốc chắc chắn gây phương hại cho ý định được tường thuật muốn mua các máy bay quân sự và kỹ thuật liên hệ của Hoa Kỳ. 66 Điều được tin tưởng một cách tổng quát rằng quyết định của Anh Quốc nhằm trì hoãn vụ bán cho Trung Quốc máy bay phản lực cất cánh theo đường thẳng loại Harrier một phần do áp lực ngoại giao từ Hoa Thịnh Đốn.  Tóm lại, chiến dịch của Trung Quốc có thể “làm nguội đi nhiều cái đầu nóng nảy tại Hoa Thịnh Đốn”, như được hy vọng tại Mạc Tư Khoa. 67

 

       Nếu các phản ứng tức thời từ Hoa Thịnh Đốn có làm bối rối các nhà lãnh đạo ở Bắc Kinh, các sự đáp ứng từ các lân bang Á Châu của Trung Quốc cũng không mấy khích lệ.  Nhật Bản từ chối kết án cuộc xâm lăng của Trung Quốc vào Việt Nam, nhưng giống như Hoa Kỳ, thúc dục phía Trung Quốc rút quân trước khi chiến cuộc mở rộng.  “Bất kể vì lý do gì”, Bộ Trưởng Ngoại Giao Nhật Bản, ông Sunao Sonoda, đã bình luận rằng “việc gửi quân xâm nhập nước khác là không đúng”. 68 Bởi vì sự sát cận của nó với Trung Quốc và Liên Bang Sô Viết, Nhật Bản đặc biệt quan ngại về các cuộc xung đột quân sự khả hữu giữa hai nước cộng sản khổng lồ.  Các chuyên viên quân sự tại Cơ Quan Phòng Vệ Nhật Bản bày tỏ sự lo sợ trong suốt cuộc chiến biên giới về các sự đụng độ hải quân khả hữu giữa Trung Quốc – Sô Viết tại biển Đông Hải và Nam Hải (East and South China Sea). 69 Giống như Hoa Kỳ, chính phủ Nhật Bản cũng bị quy trách bởi Mạc Tư Khoa về việc đã đứng về phía Bắc Kinh chống lại Hà Nội. 70 Các sự cáo buộc của Sô Viết, mặc dù phần lớn là vô căn cứ, gây báo động cho Đông Kinh và cảnh giác các nhà lãnh đạo Nhật Bản cần tái thẩm định các quan hệ hiện thời của đất nước họ với Bắc Kinh.  Một số đảng viên bảo thủ của Đảng Tự Do Dân Chủ (Liberal Democratic Party) cầm quyền, thí dụ, đã cảnh cáo các lãnh tụ của họ đừng chọn đứng về bên nào, và bị sập bẫy nhiều hơn vào vũng lẫy Trung Quốc – Sô Viết.  Như một biểu hiệu của quyết tâm của Nhật Bản để thực hiện chính sách ngoại giao với mọi hướng, Tokyo đã hứa hẹn với Hà Nội rằng nó sẽ tiếp tục cung cấp viện trợ kinh tế.

 

       Năm thành viên của khối ASEAN – Nam Dương, Phi Luật Tân, Thái Lan, Mã Lai và Singapore – thì từ từ trong việc phản ứng với cuộc chiến tranh biên giới Trung – Việt.  Đã có các dấu hiệu cho thấy rằng các nước ASEAN thì hài lòng một cách hữu lý với kết quả, mặc dù bồn chồn dè dặt về an ninh tương lai trong vùng.  Thiếu sức mạnh quân sự để chống đối sự bành trướng của Việt Nam vào Kampuchea và Lào, các nước này nói chung hài lòng với cuộc tấn công “trừng phạt” của Trung Quốc như một sự kiềm chế thực sự trên sự xâm lược hơn nữa bởi Hà Nội và Mạc Tư Khoa trong vùng.  “Chúng tôi sẽ mong muốn hơn rằng các khẩu súng không được bắn ra tại Đông Dương”, một nhà ngoại giao Á Châu hồi tưởng cảm giác, “nhưng nếu nó đã phải xảy ra như thế, hồi kết cuộc không quá tệ đối với chúng tôi”. 71 Đã có một quan điểm được chia sẻ chung chung trong các người dân Đông Nam Á, rằng Liên Bang Sô Viết, cùng với Việt Nam, đã bị mất mặt trong chiến dịch của Trung Quốc.  Quan trọng hơn, Liên Bang Sô Viết và Việt Nam rõ ràng đã thay thế Trung Quốc trong vai các kẻ ác trong mắt nhìn của hầu hết các lãnh tụ khối ASEAN.  “Sự ngả” về phía Trung Quốc này, tuy nhiên, đã không bù đắp được cho sự lo sợ và không tin tưởng căn bản trong các nhà lãnh đạo khối ASEAN dành cho cả Bắc Kinh lẫn Hà Nội.  Bộ Trưởng Ngoại Giao bộc trực của Singapore, ông Sinnathamby Rajaratnam vạch ra rằng “các tín đồ của chủ nghĩa Cộng Sản là các kẻ theo dân tộc chủ nghĩa bài ngoại thực sự, đang đánh nhau, giống như các kẻ theo tư bản chủ nghĩa của thế hệ cổ xưa, cho vinh quang của dân tộc, sự mở rộng quốc gia và sự cướp bóc”. 72 Thủ Tướng Thái Lan, Kriangsak Chamanand đã tóm tắt cảm giác trội bật này bằng câu nói: “Chúng tôi chỉ muốn yêu cầu một điều – chỉ xin đừng để chúng tôi bị liên lụy”. 73

 

       Cho đến nay phản ứng thù nghịch nhất đối với cuộc tấn công của Trung Quốc đến từ hai lân bang phương nam của nó.  Thủ Tướng Morarji Desai của Ấn Độ bày tỏ “sự xúc động và đau buồn sâu xa về cuộc xâm lăng của Trung Quốc và kêu gọi một sự triệt thoái tức thời các binh sĩ của Trung Quốc”. 74 Phản đối cuộc tấn công của Trung Quốc, Bộ Trưởng Ngoại Giao Ấn Độ Atal Behari Vajpayeebỏ dở cuộc thăm viếng Trung Quốc của ông, cuộc thăm viếng cao cấp đầu tiên đến Trung Quốc bởi một nhà lãnh đạo Ấn Độ trong gần hai mươi năm.  Cuộc chiến tranh biên giới nhiều phần làm trì hoãn việc sáp lại gần nhau giữa Bắc Kinh và Tân Đề Li, và xô đẩy Ấn Độ, ít nhất trong tạm thời, lại gần với phe Sô Viết hơn.  Mặt khác, Lào, rõ ràng dưới áp lực của Mạc Tư Khoa và Hà Nội, kết án bước tiến của Trung Quốc và tố cáo Bắc Kinh đang chuẩn bị các cuộc đột nhập quân sự vào đất Lào.  Các nhà lãnh đạo Trung Quốc có thể đã gạt bỏ Lào như một chư hầu của Việt Nam ngay trước khi mở cuộc tấn công, nhưng sự chấm dứt cuộc chiến làm cứng rắn hơn quyết tâm của Việt Nam để loại trừ ra khỏi xứ Lào bất kỳ điều gì còn lại của sự hiện diện và ảnh hưởng của Trung cộng.  Trung Quốc bị buộc một tuần lễ sau cuộc chiến tranh phải đình chỉ sự viện trợ và rút các kỹ thuật gia và cố vấn của nó ra khỏi Lào.  Kết quả, Bắc Kinh đã nối dài thêm hai trăm dặm vào các biên cương thù nghịch của nó ở phương Nam.

 

       Bất kỳ sự lượng định sự tổn hai và lợi lộc về chính trị và ngoại giao đối với Trung Quốc vẫn chưa đầy đủ, từ quan điểm cán cân quyền lực toàn cầu, nếu không có một sự lượng giá đồng thời phần lợi và hại tương ứng của Sô Viết.  Sô Viết rõ ràng mất ít nhiều thể diện bởi việc không can thiệp một cách trực tiếp vào cuộc chiến tranh biên giới và có thể xuất hiện như một “con hổ giây’ đối với một số nước thuộc Thế Giới Thứ Ba.  Nhưng đối với các nhà lãnh đạo của phần lớn các nước Tây Phương, các nước am hiểu tường tận hơn năng lực của Sô Viết để phóng ra các trận đánh chí tử vào Trung Quốc, đã ca ngợi chính sách của Sô Viết như là một sự biểu lộ tác phong trách nhiệm và chỉ trích chính sách “dẫn đên bờ vực chiến tranh”của Trung Quốc.  Trong sự tuyên truyền của mình, người Nga đã mau chóng gặt hái các lợi lộc từ sự kiềm chế của họ.  Mạc Tư Khoa đã tố cáo Bắc Kinh là các kẻ hiếu chiên  đầy bất trắc và vô trách nhiệm; Sô Viết thì tỉnh táo hơn, nhạy cảm và tán đồng sự hòa hoãn.  Nó cũng khôi phục lời kêu gọi của Nga Sô cho một hệ thống an ninh tập thể cho Á Châu, đề nghị bị bác bỏ một cách tổng quát bởi các nước Á Châu.  Hơn nữa, Sô Viết được hưởng lợi từ sự kiềm chế của nó bởi các lợi điểm thực sự đáng kể, thường gây tổn hại cho Trung Quốc.

 

       Mặc dù các quan hệ trường kỳ giữa Mạc Tư Khoa và Hà Nội bất định cao độ, bởi ước vọng mạnh mẽ của hà Nội muốn giữ độc lập, sai lầm của Trung Quốc tại Việt Nam nhất thiết đã xô đẩy Hà Nội trong tạm thời lại gần với Mạc Tư Khoa hơn.  Hạm Đội Thái Bình Dương của Sô Viết đã sẵn khởi sự sử dụng Vịnh Cam Ranh của Việt Nam để tái tiếp tế nhiên liệu cho các tàu chiến của nó; điều bị lo ngại nói chung trong giới Tây Phương rằng người Nga có thể sớm có khả năng đạt được sự sử dụng thường trực căn cứ hải quân từ Hà Nội cho việc tiếp liệu và sửa chữa – một chuyển động sẽ cải thiện lớn lao năng lực hành quân của hạm đội Sô Viết và từ đó đặt ra một mối đe dọa nghiêm trọng cho hải quân Trung Quốc.  Sự kiềm chế của Sô Viết cũng có thể có các hàm ý quan trọng cho chính sách hòa hoãn giữa Mạc Tư Khoa và Hoa Thịnh Đốn.  Sự ký kết bản thỏa ước SALT II tại Vienna bởi Carter và Brezhnev ba tháng sau khi có cuộc chiến tranh biên giới Trung – Việt khiến ta nghĩ rằng Bắc Kinh có ít ảnh hưởng, nếu có, trên sự phát triển các quan hệ Sô Viết – Mỹ.  Sau cùng, tác phong của Sô Viết đã giành được sự ủng hộ của phần lớn các đảng cộng sản Âu Châu, làm suy yếu một cách đáng kể sự thách đố của Trung cộng đối với điện Cẩm Linh về vai trò lãnh đạo trong phong trào cộng sản thế giới hay những gì còn lại của phong trào.

 

       Về mặt đối nội, kết quả của cuộc chiến tranh hẳn phải khơi dậy các cuộc tranh luận chính sách nóng bỏng giữa các nhà lãnh đạo ở Bắc Kinh.  Sự vô khả năng của QDGPNDTQ (PLA) để chiến đấu một cuộc chiến tranh hiện đại với chiến thắng quyết định, bất kể sự vượt trội về quân số của nó, có lẽ gây lo ngại và báo động cho các nhà lãnh đạo quân sự cứng rắn thúc đẩy và đòi hỏi đặt lên ưu tiên hàng đầu việc hiện đại hóa nền quốc phòng của Trung Quốc.  Các nhà lãnh đạo quân sự rõ ràng đã học được các bài học từ sự giao tranh tại Việt Nam và vứt bỏ ý niệm chiến tranh nhân dân của họ Mao – rằng con người chứ không phải vũ khí sẽ quyết định cuộc chiến. 75 Dù thế, khả năng của Trung Quốc đứng lên và thách đố sự đe dọa của Sô Viết có thể thuyết phục được một số nhà lãnh đạo dân sự rằng Trung Quốc thì đủ mạnh để tự phòng vệ và rằng cần phải chú trọng nhiều hơn đến việc nâng cao tiêu chuẩn sinh hoạt tổng quát cu8ả người dân Trung Quốc.  Tuy nhiên, điều quan trọng vạch ra rằng cả các nhà lãnh đạo dânh sự lẫn quân sự đều đã đồng ý rằng sự canh tân hóa nền quốc phòng của Trung Quốc là một sự cần thiết; họ chỉ bất đồng về nhịp độ phát triển của nó.

 

       Hiện có các dấu hiệu rằng giới lãnh đạo thực dụng đã chiến thắng hiệp đầu của các cuộc tranh luận.  Khóa họp hai tuần lễ của Hội Nghị Nhân Dân Toàn Quốc Thứ Năm của Trung Quốc được tổ chức hồi Tháng Sáu vừa qua đã đặt ra một tiến độ thực tế cho các chương trình hiện đại hóa đầy tham vọng của Trung Quốc.  Chủ Tích họ Hoa cảnh cáo rằng kế hoạch 10 năm hiện tại cho giai đoạn 1975-1986 là không “thực tê’ và rằng đã phải có một “thời kỳ tái điều chỉnh” trong ba năm sắp tới (1979-1981).  Lãnh vực nông nghiệp, các kỹ nghệ nhẹ cũng như năng lượng, vận tải, truyền thông sẽ được nhấn mạnh trong thời kỳ củng cố này. 76 Sự hiện đại hóa kỹ nghệ quốc phòng của Trung Quốc chính vì thế hiện không được xem là ưu tiên hàng đầu bởi giới lãnh đạo ở Bắc Kinh.  Nhưng các cuộc tranh luận còn lâu mới chấm dứt.  Các kẻ theo đường lối cứng rắn chắc chắn sẽ tiếp tục thúc đẩy một nhịp độ nhanh hơn cho việc hiện đại hóa nền quốc phòng của Trung Quốc.

 

       Tác động dài hạn của cuộc chiến tranh trên các quan hệ Trung – Việt và các chính sách đối ngoại của Trung Quốc trong vùng có thể biến đổi một cách sâu và xa hơn nữa.  Các căng thẳng dọc biên giới Trung – Việt rõ ràng còn lâu mới được ổn định.  Hà Nội gạt bỏ các điều kiện tiên quyết trước đây của nó cho các cuộc thương nghị hòa bình và hai bên đã đồng ý ngồi xuống và nói chuyện một tháng sau khi có sự triệt thoái binh sĩ chính thức của Trung Quốc.  Tuy nhiên, hiệp đầu tiên của các cuộc thương nghị được tổ chức tại Hà Nội đã chỉ đưa đến sự trao đổi tù binh bị bắt giữ trong cuộc chiến tranh biên giới.  Các cuộc thương nghị cấp thứ trưởng năm tuần lễ bị quấy nhiễu bởi các lời cáo buộc và phản cáo buộc về các sự xâm nhập vũ trang lẻ tẻ.  Không bên nào sẵn lòng thỏa hiệp về các vấn đề then chốt chẳng hạn như các khu vực biên giới bị tranh chấp, chủ quyền trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cùng bị tuyên nhận, và sự triệt thoái binh sĩ Việt Nam ra khỏi Kampuchea và Lào.  Như một nhà ngoại giao đã phát biểu, “Không bên nào xem ra quan tâm đến việc giải các vấn đề, họ chỉ muốn cãi lấy được”. 77 Vào lúc viết bải nghiên cứu này, hiệp thứ nhì của các cuộc thương nghị tại Bắc Kinh từ Tháng Bẩy qua lại thất bại không thực hiện được bất kỳ sự tiến bộ nào trong việc giải quyết các sự xung đột giữa hai nước.  Với tiếng tăm như các kẻ mặc cả khó khăn, các cuộc thương thảo giữa Trung Quốc và Việt Nam nhiều phần sẽ kéo dài và được ngắt quãng bởi các sự tan vỡ và trì hoãn.  Tuy nhiên, bất kể kết quả của các cuộc thương nghị ra sao, chiến tranh đã sẵn để lại một sự rạn nứt sâu xa giữa hai nước, hứa hẹn sẽ kéo dài, và cũng chua chát, giống như sự phân cách giữa Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa.

 

       Tư thế chính sách tương lai của Trung Quốc trong vùng sẽ tùy thuộc phần lớn trên sự phát triển các quan hệ giữa Hà Nội và Mạc Tư Khoa và trên các chính sách của các nước Á Châu và của Hoa Kỳ.  Các sự khai thông gần đây giữa Trung Quốc và Liên Bang Sô Viết có thể khiến giới lãnh đạo Hà Nội lo âu.  Hai nước đã khởi sự hồi Tháng Chín qua các cuộc thương thảo cấp thứ trưởng trong một nỗ lực để bình thường hóa các quan hệ của họ.  Mặc dù không có sự tiến bộ cụ thể được ttường thuật trong các cuộc đàm phán Nga-Hoa, phía Việt Nam đã trở nên lo sợ rằng Mạc Tư Khoa có thể coi nhẹ các quyền lợi của Hà Nội nhằm giành đạt một vài lợi lộc từ Trung Quốc.  Trong bất kỳ trường hợp nào, điều xem ra tất yếu rằng bất kỳ sự sáp lại gần nhau nào giữa Mạc Tư Khoa và Bắc Kinh sẽ đưa đến việc làm nguội lạnh các quan hệ Sô Viết – Việt Nam.  Nói cách khác, mặc dù rõ ràng bị báo động bởi cuộc xâm lăng của Trung Quốc, các nước có các quyền lợi đặc biệt tại vùng Á Châu – Thái Bình Dương kể cả Hoa Kỳ, Nhật Bản, và các quốc gia hội viên khối ASEAN đã bắt đầu cảm thấy sự đe dọa gia tăng của Sô Viết nơi sân sau nhà của họ.  Thí dụ, Hoa Kỳ, đã tái thẩm định chính sách Á Châu của minh sau khi có cuộc chiến tranh Trung – Việt và đã quyết định đình chỉ sự triệt thoái thêm nữa ra khỏi vùng.  Các tình huống bất ngờ cho việc gia tăng sự hiện diện quân sự của Mỹ để đáp ứng các sự thách đố của hải quân Sô Viết tại Thái Bình Dương đã được cứu xét bởi Ngũ Giác Đài.  Một cuộc nghiên cứu gần đây của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ đã khuyến cáo rằng Hoa Kỳ giúp đỡ cho tiềm năng quân sự của Trung Quốc sao cho Bắc Kinh có thể trợ lực Tây Phương trong một cuộc chiến tranh với Liên Bang Sô Viết. 78 Các áp lực cũng dâng cao từ các giới quân sự của Nhật Bản đòi tăng cường năng lực quân sự của Nhật Bản.  Có thể không phải điều gượng ép để tiên đoán rằng sự chấm dứt cuộc chiến tranh biên giới Trung – Việt phát ra tín hiệu sự khởi đầu một tiến trình dẫn đến một số hình thức hợp tác hay liên minh quân sự giữa Trung Quốc, Nhật Bản và Hoa Kỳ tại vùng Thái Bình Dương.  Sự can thiệp gần đây của Sô Viết tại Afghanistan chắc chắn sẽ xúc tiến chiều hướng này./-      

         

___

 

CHÚ THÍCH

 

1. Xem, thí dụ, quan điểm ban biên tập tờ New York Times, 19 Tháng Hai 1979, và tờ Globe and Mail, Toronto, 20, 26 Tháng Hai, 1979.

 

2. Renmin Ribao (Nhân Dân Nhật Báo , quan điểm ban biên tập, 7 Tháng Ba 1979 (được in lại trong tờ Beijing Review, 16 Tháng Ba 1979).

 

3. Muốn có một sự tường thuật chi tiết hơn về nguồn gốc cuộc xung đột Trung Quốc – Việt Nam, xem Nguyễn Mạnh Hùng, “The Sino-Vietnam Conflict: Power Play Among Communist Neighbours”, Asian Survey, tập xix, số 11, Tháng Mười Một 1979, các trang 1037-52.

 

4. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc có yêu cầu giới lãnh đạo Hà Nội sau chiến tranh Việt Nam nên chờ đón khoản viện trợ ít hơn từ Trung Quốc và để cho nhân dân Trung Quốc thời gian nghỉ ngơi và cho phép Trung Quốc phục hồi sức mạnh”, Beijing Review, 16 Tháng Sáu 1978, trang 16.

 

5. Derek Davies, “Carter’s Neglect, Moscow’s Victory”, Far Eastern Economic Review, 2 Tháng Hai 1979, các trang 16-21; cũng xem Peter Weiss, “Contributory Negligence in Foreign Policy”, New York Times, 2 Tháng Ba 1979.

 

6. Renmin Ribao, 18 Tháng Hai 1979 (được in lại trong tờ Beijing Review, 23 Tháng Hai, 1979).

 

7. Renmin Ribao, 9 Tháng Mười Một 1978 (cũng xem tờ Beijing Review, 17 Tháng Mười Một, 1978).

 

8. Beijing Review, 9 Tháng Hai 1979, trang 13; và New York Times, 1 Tháng Hai 1979.

 

9. Beijing Review, 16 Tháng Hai 1979, trang 24.

 

10. Theo một nguồn tin không được xác nhận của chúng tôi, Đặng Tiểu Bình trong bản báo cáo của ông tại một phiên họp của Đảng Công Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) (Communist Party of China: CPC) hôm trước khi có cuộc tấn công của Trung Quốc có đề cập đến “việc thao diễn quân sự” như một trong các mục tiêu của cuộc chiến tranh với Việt Nam.  Xem, “Deng Xiaoping on Sino-Vietnamese War”, Qishi Niandai (Thất Thập Niên Đại (The Seventies, Monthly), Hồng Kông, số 4, 1979.  Tài liệu này được in lại bằng Anh ngữ trong tạp chí China Report, Tập xv, số 3, Tháng Năm – Tháng Sáu 1979.

 

11. Harlan W. Jencks, “China’s ‘Punitive War’ on Vietnam: A Military Assessment”, Asian Survey, tập xix, số 8, Tháng Tám 1979, các trang 801-15.

 

12. Renmin Ribao, 18 Tháng Hai 1979.

 

13. Jiefang Junbao, 19 Tháng Hai 1979.

 

14. Trung Cộng có ấn hành một số bài báo và lời tuyên bố đặc biệt liên quan đến cuộc di cư của người Việt gốc Hoa.  Xem, thí dụ, Beijing Review, 16 Tháng Sáu 1978 và 17 Tháng Mười Một 1978.

 

15. Beijing Review, 16 Tháng Hai 1979, trang 18.

 

16. Christian Science Monitor, 7 Tháng Ba 1979.

 

17. New York Times, 20 Tháng Hai 1979.

 

18. Beijing Review, 15 Tháng Ba 1979, trang 17.

 

19. Xem Beijing Review, 24 Tháng Mười Một và 22 Tháng Mười Hai 1978.

 

20. Renmin Ribao, 6 Tháng Ba 1979.  

 

21. New York Times, 19 Tháng Hai 1979.  Lời bình luận được đưa ra bởi Franz Schurmann, một nhà Trung Hoa học nổi tiếng.

 

22. ‘Deng Xiaoping on Sino-Vietnam War’, Qishi Niandai, đã dẫn trên.  Tin tức về phiên họp của ĐCSTQ được thuật lại bởi một du khách sang Trung Quốc có thân nhân là cán bộ ĐCSTQ.  Mặc dù là một sự tường thuật qua tay thứ ba, tin tức phán đoán từ các biến cố diễn tiến, xem ra có thể tin cậy một cách hợp lý.

 

23. Renmin Ribao, 15 Tháng Hai 1979.

 

24. Parris H. Cheng, Power and Policy in China, the Pennsylvania State Press, 1975.

 

25. Renmin Ribao, 16 Tháng Hai 1979, trang 18.   

 

26. New York Times, 28 Tháng Hai 1979.

 

27. ‘Deng Xiaoping on Sino-Vietnam War’, đã dẫn trên.

 

28. New York Times, 12 Tháng Hai 1979.

 

29. Sự tường thuật này về việc động viên quân sự của Trung Quốc dựa theo tác giả Harlan W. Jencks, trong bài “Chinás ‘Punitive’ War on Vietnam, đã dẫn trên, các trang 805-06.

 

30. ‘Deng Xiaoping on Sino-Vietnam War’, đã dẫn trên.

 

31. Globe and Mail, Toronto, 22 Tháng Hai 1979.

 

32. ‘Deng Xiaoping on Sino-Vietnam War’, đã dẫn trên.

 

33. Renmin Ribao, 8 Tháng Mười Một 1978.

 

34. Renmin Ribao, 14 Tháng Mười Hai 1978 (được in lại trong tờ Beijing Review, 22 Tháng Mười Hai 1978).

 

35. Renmin Ribao, 25 Tháng Mười Hai 1978.

 

36. Renmin Ribao, 8 Tháng Một 1979 (và Beijing Review, 12 Tháng Một 1979 (phần nhấn mạnh của tác giả).

 

37. Renmin Ribao, 9 Tháng Một 1979 (được in lại trong tờ Beijing Review, 12 Tháng Một 1979).

 

38. Renmin Ribao, 19 Tháng Một, 11 và 17 Tháng Hai 1979.

 

39. Renmin Ribao, 12 Tháng Hai 1979.

 

40. Xem Allen S. Whiting, China Crosses Yalu, Stanford University Press, Stanford, California, 1968; và tác phẩm khác của ông, The Chinese Calculus of Deterrence: India and Indochina, The University of Michigan Press, Ann Arbor, 1975.

 

41. Far Eastern Economic Review, 2 Tháng ba 1979, trang 12.

 

42. Muốn có một sự nghiên cứu hệ thống về tác phong xung đột trong quá khứ của Trung Quốc, xem Steve Chan, ‘Chinese Conflict Calculus and Behavior: Assessment from a Perspective of Conflict Management, World Politics, tập 30, số 3, Tháng Tư 1978, các trang 391-410.

 

43. Tuy nhiên, dân quân và quân biên phòng của Việt Nam chứng tỏ được huấn luyện, trang bị và chỉ đạo khá hơn sự ức đoán một cách đáng ngạc nhiên.  Họ đã dựng lên một sự phòng vệ ngoan cường cho phép chờ đợi các sự tăng viện đến từ Lào và Miền Nam.  Xem Harlan W. Jencks, đã dẫn trên, trang 809.

 

44. Tuyên bố được đưa ra bởi chính phủ Trung Quốc hôm 17 Tháng Hai 1979.  Xem Renmin Ribao, 18 Tháng Hai 1979.

 

45. New York Times, 20 Tháng Hai 1979.

 

46. Có thể là Trung Quốc đã không muốn đánh liều không lực của nó trong việc giao tranh với các chiến đấu cơ ưu việt hơn nhiều của Việt Nam (mặc dù Trung Quốc có lực lượng áp đảo 10 trên 1).  Muốn có một sự phân tích quân sự, xem Drew Middleton, ‘China’s Options for the Invasion’s Last Act’, New York Times, 3 Tháng Ba 1979.

 

47. Far Eastern Economic Review, 9 Tháng Ba 1979, trang 14.

 

48. Harlan W. Jencks, đã dẫn trên, trang 809.

 

49. Xinhua (Tân Hoa Xã), 27 Tháng Hai 1979.

 

50. Prada, 21 Tháng Hai 1979, trang 5.

 

51. New York Times, 6 Tháng Ba 1979; muốn biết về sự phủ nhận của Sô Viết về các cuộc đàm phán bí mật giữa Hoa Kỳ- Sô Viết – Trung Quốc, xem Prada, 3 Tháng Ba 1979, trang 5.

 

52. Beijing Review, 23 Tháng Hai 1979, trang 9.

 

53. New York Times, 23 Tháng Hai 1979.  

 

54. Calgary Herald, 27 Tháng Hai 1979.  Công luận thế giới có thể bất lợi cho Trtung Quốc được nêu lên bởi Bộ Trưởng Ngân Khố Hoa Kỳ, Michael Blumenthal là người thăm viếng Bắc Kinh vào lúc chiến tranh còn đang tiếp diễn.

 

55. Christian Science Monitor, 28 Tháng Hai 1979.

 

56. Các nhà lãnh đạo Bắc Kinh được tường thuật có nói với các nhân vật Hồi Quốc, “Chúng tôi hiểu người Nga rõ hơn, giống y như quý vị hiểu người Ấn Độ rõ hơn”.  Xem Godam W. Choudhury, Chinese Perception of the World, University Press of America, Washington D. C., 1977, các trang 41-42.

 

57. Prada, 21 Tháng Hai 1979, trang 5.  Tuy nhiên, theo một nguồn tin chưa được xác nhận rằng Mạc Tư Khoa đã cảnh cáo hôm 28 Tháng Hai rằng Trung Quốc “có hạn đến ngày 1 Tháng Ba” để rút ra khỏi Việt Nam.  Không rõ lời cảnh cáo này có nghĩa một sự đe dọa hay một. tối hậu thư.  Trong bất kỳ trường hợp nào, một sự triệt thoái trong một thời khoảng ngắn như thế sẽ là việc bất khả thi, về mặt kỹ thuật và chiến thuật.  Xem David Bonavia, ‘Sowing the Seedsfor a Bigger War’, Far Eastern Economic Review, 9 March 1979, trang 12.

 

58. New York Times, 23 Tháng Hai 1979. 

 

59. New York Times, 26 Tháng Hai và 3 Tháng Ba 1979.

 

60. New York Times, 26 Tháng Hai 1979.     

 

61. Christian Science Monitor, 12 Tháng Ba 1979.

 

62. Theo một số nhà phân tích quân sự, việc mất Lạng Sơn vào tay quân Trung cộng, không hề được nhìn nhận bởi Hà Nội, đã không nhất thiết có nghĩa một sự thất trận đối với Việt Nam.  Có thể đó là một sự lui quân chiến lược của Hà Nội để nhử Trung Quốc vào chiếm đóng một thị trấn trống không, và sau đó bao vây Trung Quốc từ các ngọn đồi bao quanh.  New York Times, 5 Tháng Ba 1979; cũng xem Harlan Jencks, đã dẫn trên, trang 811.

 

63. Renmin Ribao, 17 Tháng Ba 1979.

 

64. Globe and Mail, Toronto, 23 Tháng Ba 1979.  Nguồn tin cũng tiết lộ rằng QĐGPNDTQ gánh chịu sự tổn thất là 20,000 nhân mạng.

 

65. Lời nhắn của Tổng Thống [Mỹ] được chuyển đến các nhà lãnh đạo Trung Quốc bởi Bộ Trưởng Ngân Khố Michael Blumenthal trong cuộc thăm viếng của ông tại Bắc Kịnh.  New York Times, 28 Tháng Hai 1979.

 

66. New York Times, 8 Tháng Ba 1979.

 

67. Christian Science Monitor, 6 Tháng Ba 1979.

 

68. Cùng nơi dẫn trên.

 

69. Japan Times Weekly, 17 Tháng Ba 1979.

 

70. Izvestia, 25 Tháng Hai 1979, trang 5.

 

71. New York Times, 11 và 14 Tháng Ba 1979.

 

72. Cùng nơi dẫn trên.

 

73. New York Times, 19 Tháng Hai 1979. 

 

74. Cùng nơi dẫn trên.  Cũng xem Ramesh Thakhur, ‘India’s Vietnam Policy 1946-1979’, Asian Survey, tập xix, số 10, Tháng Mười 1979, các trang 971-72.

 

75. Jeifang Junbao, 1 Tháng Tám 1979 (được in lại trong tờ Renmin Ribao, 2 Tháng Tám 1979.  Ban biên tập tổng kết kinh nghiệm chiến trường trong cuộc chiến tranh biên giới chống Việt nam và đã thúc dục một sự hiện đại hóa mau chóng quốc phòng của Trung Quốc.

 

76. Hoa Quốc Phong đã đưa ra một bản báo cáo dài 30,000 từ hôm 18 Tháng Sáu 1979 tại Khóa Họp Thứ Nhì của Đại Hội Nhân Dân Toàn Quốc Lần Thứ Năm của Trung Quốc.  Toàn bản văn dài bốn trang báo được đăng tải trong tờ Renmin Ribao, 26 Tháng Sáu 1979.

 

77. Christian Science Monitor, 18 Tháng Năm 1979.

 

78. Tuy nhiên, cuộc nghiên cứu bị bác bỏ, xem chỉ là một “thứ gợi ý suy tưởng” bởi Ngũ Giác Đài.  Xem New York Times, 4 và 5 Tháng Mười 1979./-          

 

_____

 

Nguồn: Herbert S. Yee, The Sino-Vietnamese Border War: China’s Motives, Calculations and Strategies, China Report (xuất bản tại New Delhi, India), Bộ 16, số 1, 1980, các trang 15-32.    

 

Ngô Bắc dịch và phụ chú

26.03.2012    

 

 http://www.gio-o.com/NgoBac.html

 

© gio-o.com 2012