Chủ
Đề:
CHIẾN TRANH TRUNG QUỐC – VIỆT NAM 1979
Ngô Bắc dịch
Lời Người Dịch:
“Chiến dịch 1979, ít nhất đối với Quân Đội Giải Phóng của Nhân Dân Trung Quốc, là một sự thất bại. Trung Quốc đă phóng ra cuộc tấn công của nó trong một nỗ lực để buộc Việt Nam phải rút lui khỏi Căm Bốt. Trung Quốc đă rút lui khỏi Việt Nam hôm 16 Tháng Ba, 1979, nhưng Việt Nam đă không rời Căm Bốt măi cho đến năm 1989.” ….
“Cuộc chiến tranh theo học thuyết họ Mao chưa dứt, nhưng phía Trung Quốc đă học được một bài học quan trọng.”
Trên đây là phần kết luận chắc nịch của Edward C. ODow’d, một tác giả hàng đầu về Chiến Tranh Biên Giới Trung Quốc – Việt Nam Năm 1979, chủ đề của loạt bài nghiên cứu dưới đây về biến cố quan trọng diễn ra 33 năm trước. Đối chiếu với bài học lịch sử lâu dài của đất nước, rơ ràng vấn đề sinh tử của dân tộc Việt Nam hiện nay là phải t́m mọi cách đê duy tŕ được sự độc lập và vẹn toàn lănh thố, đồng thời thoát ra khỏi sự lệ thuộc ngoại giao và quân sự đáng tủi hổ đối với Trung Quốc.
11. Alexander Woodside
DÂN TỘC
CHỦ NGHĨA VÀ
NẠN NGHÈO ĐÓI
TRONG SỰ TAN VỠ CÁC QUAN HỆ
TRUNG QUỐC – VIỆT NAM
Nationalism and poverty in the Breakdown
of Sino-Vie6namese Relations,
Pacific Affairs, Fall 1979,
các trang 381-409.
12. Dennis Duncanson
13. James Mulvenon
14. Andrew Scobell
15. Daniel Tretiak
16. Bruce Burton
17. Ramesh Thakur
18. Todd West
19. Colonel G.D Bakshi
20. Bruce Elleman
21. Henry J. Kenny
22. Xiaoming Zhang
23. Edward C. O’Dowd & John F. Corbett, Jr.
24. Douglas E. Pike,
25. Henry Kissinger,
26. Jimmy Carter,
GHI NHỚ VỀ
CHIẾN TRANH TRUNG QUỐC – VIỆT NAM
NĂM 1979
cựu
Tổng Thống Hoa Kỳ, trích dịch từ các hồi kư
Keeping Faith, Memoirs Of A President,
A Bantam Book: New York, November 1982, các trang 194-211, và White House
Diary, New York: Farrar, Straus and Giroux, 2010,
các trang 281-296, và rải rác, cùng các phụ lục trích
dịch phần ghi nhớ về Chiến Tranh Trung Quốc
– Việt Nam năm 1979 của:
Phụ Lục 1: Cyrus Vance, cố Ngoại
trưởng Hoa Kỳ, Hard Choices, Critical Years In America’s
Foreign Policy, New York: Simon and Schuster, 1983, các trang 120-127.
Phụ Lục 2: Zbigniew Brzezinski, cựu Cố
Vấn Tổng Thống Hoa Kỳ về An Ninh Quốc Gia, Power
and Principle, Memoirs of the National Security Adviser, 1977-1981, New
York: Farrar, Straus and Giroux, 1983, các trang 404-414.
Phụ Lục 3: Anatoly Dobrynin, cựu Đại
Sứ Liên Sô tại Hoa Kỳ, In Confidence, Moscow’s Ambassador
to America’s Six Cold War Presidents, New York: Times books, a division of
Random House, Inc., 1995, các trang 418-19.
Henry J. Kenny
Center for Naval Analysis
CÁC NHẬN THỨC CỦA VIỆT NAM
VỀ CUỘC CHIẾN TRANH NĂM 1979
VỚI TRUNG QUỐC
Ngô Bắc dịch
*****
Tiến Sĩ Henry J. Kenny, là một nhà khoa học nghiên cứu tại Trung Tâm Phân Tích Hải Quân (Center for Naval Analysis: CAN) nơi ông đă điều khiển các dự án cho Hải Quân Hoa Kỳ, Thủy Quân Lục Chiến và Bộ Tư Lệnh Thái B́nh Dương trong hơn thập niên qua. Từng là một Đại Đội Trưởng, Trưởng Toán Lực Lượng Đặc Biệt, và Cố Vấn Cấp Tỉnh tại Việt Nam, ông đă điều hành vier^.c huấn luyện nhiệm vụ cho Các Lực Lượng Đặc Biệt sang Việt Nam tại Ft. Bragg. Bị thương trong cuộc Công Kích Tết Mậu Thân 1968, ông sau đó đă giảng dạy về các quan hệ quốc tế tại Trường Vơ Bị West Point, các giảng khóa cao học về các nguyên nhân của chiến tranh và và các lư thuyết giải quyết xung đột tại các trường American University và George Washington University, và về chính trị quốc tế tại Học Viện Quan Hệ Quốc Tế tại Hà Nội. Ông đă từng phục vụ tại Cơ Quan Giải Giới và Kiểm Soát Vũ Khi Hoa Kỳ, Ṭa Đại Sứ Mỹ tại Tokyo (Phụ Tá Đặc Biệt cho Đại Sứ Mike Mansfield), và Ủy Ban Ngoại Giao Thượng Viện Hoa Kỳ. Ông là tác giả của các công tŕnh nghiên cứu "Unfinished Business in Afghanistan: Công Việc Chưa Hoàn Tất Của Mỹ Tại A Phú Hăn," "Smaller, Faster, Smarter: Retooling the Military to Combat Terrorist Threats: Nhỏ Hơn, Nhanh Hơn, Tinh Khôn Hơn: Chỉnh Đốn Quân Đội Để Chiến Đấu Với Các Đe Dọa Khủng Bố ," "Strengthening and Embattled Nation: A Strategy for Contenting with the Three Wars in Iraq: Quốc Gia Đang Tăng Cường và Dàn Trận: Một Chiến Lược để Thỏa Măn Ba Cuộc Chiến Tranh Tại Iraq” , The American Role in Vietnam and East Asia (Vai Tṛ Của Mỹ tại Việt Nam và Đông Á Châu), cùng các ấn phẩm khác. Quyển sách mới nhất của ông, Shadow of the Dragon (Bóng Của Con Rồng), phân tích mới quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam và các hàm ư của nó cho chính sách của Hoa Kỳ tại Á Châu. (Nguồn: Wikipedia)
***
Dẫn Nhập
Vào ngày 17 Tháng Hai, 1979, Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Quốc (CHNDTQ) đă phóng ra một trận tấn công trên đất liền với quy mô rộng lớn dọc biên giới phía nam của nó vào Việt Nam. Băng qua biên giới tại hai mươi sáu địa điểm khác nhau, các binh sĩ của Quân Đội Giải Phóng Nhân Dân Trung Quốc (QĐGPNDTQ) đă tập trung đông đảo để xâm nhập xa hơn các tiền đồn biên giới đă bị chiếm đoạt vào hôm đó. Ư định của Trung Quốc, theo lời của Đặng Tiểu B́nh, là “dạy cho Việt Nam một bài học” mà Việt Nam sẽ không mau quên. Việt Nam tức thời lên án hành động này. Bằng ngôn từ không khác với ngôn từ của Franklin Roosevelt trong bài diễn văn của ông đọc tại Quốc Hội [Mỹ] hôm 8 Tháng Mười Hai, 1941, từ báo Quân Đội Nhân Dân Việt Nam đă tường thuật vào ngày kế đó: “Ngày 17 Tháng Hai, 1979 sẽ đi vào lịch sử như một bản án nghiêm trọng về các tội ác của “bọn bành trướng Đại Hán” trong việc mưu toan khuất phục và sáp nhập Việt Nam…. Chúng ta hăy trừng trị một cách nghiêm khắc quân xâm lược man rợ và cường quyết bảo vệ chủ quyền và nền độc lập quốc gia thiêng liêng của ḿnh!” 1
Việt Nam và Trung Quốc đă giao chiến. Trung Quốc đă từng ủng hộ Hồ Chí Minh trong lúc lưu vong, cung cấp một mô h́nh cho cuộc đấu tranh cách mạng của Việt Nam chống lại người Pháp, trao quân khí chiến tranh trọng yếu cho cuộc chiến thắng năm 1954 tại Điện Biên Phủ, đă phái 50,000 binh sĩ để trợ giúp đánh bại “quân xâm lược Hoa Kỳ”, đă cung cấp các vũ khí cỡ nhỏ có phẩm chất cao cho sự việc phần lớn là một cuộc chiến tranh sử dụng vũ khí cỡ nhỏ chống lại người Mỹ, và ngăn chặn các cuộc tấn công trên đất liền của Hoa Kỳ vào Bắc Việt Nam, giờ đây đang tấn công vào chính địa điểm đă né tránh được cuộc chiến tranh trên không của Mỹ nhờ sự lo sợ của Hoa Kỳ không muốn khiêu khích Trung Quốc. 2 Điều ǵ đă dẫn dắt đến sự đảo ngược trong các quan hệ Trung Quốc – Việt Nam? Làm sao hai nước đă từng mô tả mối quan hệ của chúng th́ “mật thiết như môi với răng” đi đến chỗ xung đột vũ trang? Tại sao Trung Quốc lại nhất quyết có ư định “dạy cho Việt Nam một bài học”? Đâu là những nguyên nhân gần nhất của cuộc xung đột? Đâu là những nguyên nhân tâm lư trường kỳ hơn của nó? Cuộc chiến tranh đă bộc lộ những ǵ liên quan đến các quyết định của Bắc Kinh để sử dụng vũ lực? Sự điều hành chiến tranh có cung cấp các cái nh́n quán triệt vào cung cách theo đó Trung Quốc có thể sử dụng vũ lực trong tương lai hay không? Chương sách này sẽ chú tâm vào các câu hỏi này với một sự nhấn mạnh đến quan điểm của Việt Nam. Dĩ nhiên, có các cái nh́n Việt Nam khác nhau nhưng, như sẽ được tŕnh bày, các quan điểm thắng thế về cuộc chiến th́ đồng nhất một cách rơ rệt.
Chương sách này được chia làm năm phần. Trước tiên, nó phân tích các nguyên nhân gần nhất của cuộc xung đột, chiếu rọi cái nh́n của Trung Quốc về vai tṛ của nó tại Đông Nam Á, cuộc xâm lăng năm 1978 của Việt Nam vào Căm Bốt, sự tái sắp xếp hàng ngũ chiến lược của các quyền lực quan trọng, vị thế của Hoa kiều hải ngoại tại Việt Nam, và các cuộc tranh chấp lănh thổ song phương. Thứ nh́, nó khảo sát sự điều hành bản thân chiến dịch, bao gồm các sự chuẩn bị quân sự của Trung Quốc cho cuộc tấn công và các quan điểm của Việt Nam về các cuộc hành quân của QĐGPNDTQ. Thứ ba, bài viết thảo luận về kết cuộc của cuộc xung đột, cả về mặt chính trị lẫn quân sự. Thứ tư, bài viết khám phá các chiều kích tâm lư trong các quan hệ Trung Quốc – Việt Nam và các hàm ư của chúng cho tương lai. Sau cùng, bài viết tóm tắt các bài học lĩnh hội được như được nh́n thấy bởi phía Việt Nam.
Các sự phán đoán đạt tới khắp bài viết này được rút ra từ sự khảo sát nguồn tài liệu chính yếu, sự nghiên cứu của các học giả hàng đầu, các quan điểm được phát biểu trong các cuộc phỏng vấn gần đây với các viên chức cao cấp tại Hà Nội, cùng các lời b́nh luận và nhận xét được cung cấp cho tác giả về thời khoảng ba mươi lăm năm dính líu đến Việt Nam. Chương sách giả định có một sự hiểu biết căn bản về bối cảnh của cuộc xung đột, bao gồm các cuộc chiến tranh của Việt Nam chống lại người Pháp từ 1946 đến 1954, người Mỹ từ 1959 đến 1975, và chống phe Khmer Đỏ từ Tháng Mười Hai 1978 đến 1979. 3
Các Nguyên Nhân Gần Nhất Của Cuộc Xung Đột
Cái Nh́n Của Trung Quốc Về Vai Tṛ Của Nó Tại Đông Nam Á
Theo các viên chức Việt Nam cao cấp, năm 1975 Bắc Kinh đă nh́n một Việt Nam thống nhất và tự tin như một chướng ngại vật trường kỳ tiềm ẩn cho sự hành xử ảnh hưởng của nó tại Đông Nam Á. V́ thế, nó đă muốn kiểm soát các chính sách ngoại giao và quốc pḥng của Việt Nam. Bắc Kinh đă lo ngại rằng một Việt Nam thống nhất, hùng mạnh sẽ thách đố các tham vọng của Trung Quốc trong vùng. 4
Đây là một vấn đề đầu tiên và trên hết tại Đông Dương. Bắc Kinh có hay biết về Bản Chúc Thư Cuối Cùng của Hồ Chí Minh, trong đó họ Hồ đă xác định vai tṛ của Việt Nam như quyền lực tôi cao phải thừa kế, trong thực tế, chiếc áo choàng khoác ngoài của Pháp để hành xử bá quyền tại Đông Dương. Nó cũng hay biết về các kế hoạch của Hà Nội cho một Liên Bang Đông Dương, trong đó Căm Bốt và Lào sẽ liên minh với Việt Nam trong các chính sách ngoại giao và quốc pḥng, và tương thích về mặt kinh tế và chính trị với Việt Nam. Theo các nguồn tin Việt Nam, bất kỳ sự sắp xếp nào như thế đă thách đố các tham vọng của Trung Quốc muốn sau rốt mang Lào và Căm Bốt nằm trong khu vực ảnh hưởng của nó. Hậu quả, Bắc Kinh đă tiến hành sự tấn công vào Việt Nam một phần để buộc Việt Nam phải từ bỏ bất kỳ ư đồ nào trên việc kiểm soát Đông Dương. 5
Thứ nh́, Trung Quốc đă muốn cảnh cáo các nước Đông Nam Á khác rằng một sự thách đố lại các quyền lợi nền tảng của Trung Quốc sẽ không được dung chấp. Nó sẽ trừng trị một quốc gia, ngay cả [với] một đồng minh to lớn như Liên Bang Sô Viết, đang vượt quá ư muốn chính trị của Trung Quốc. Nó đă muốn cảnh cáo các quốc gia Đông Nam Á đừng gia nhập vào bất kỳ liên minh hay các kế hoạch an ninh nào với siêu cường. Trung Quốc đă lợi dụng cảm tính chống Việt Nam nơi một số thành viên của Hiệp Hội Các Nước Đông Nam Á (Association of Southeast Asia Nations: ASEAN), đặc biệt Thái Lan, để đốt lên các sự lo sợ về sự thông đồng giữa Sô Viết và Việt Nam tại Đông Nam Á. 6
Sau cùng, các viên chức Việt Nam cao cấp vạch ra rằng Trung Quốc muốn sự kính trọng. Bắc Kinh cảm thấy rằng các nước khác tại Đông Nam Á đă xem Trung Quốc quá nhẹ, và muốn nêu lên một điều rằng Trung Quốc, chứ không phải Liên Bang Sô Viết hay Hoa Kỳ, là nước chủ yếu để kế đó cần cứu xét đến, khi đưa ra các quyết định quốc pḥng và chính sách ngoại giao quan trọng. 7
Các Nhận Thức Của Việt Nam Về Vai Tṛ Căm Bốt Đóng Giữ
Trong Cuộc Tấn Công Của Trung Quốc
Hà Nội nh́n mối quan hệ của nó với Căm Bốt từ một quan điểm lịch sử. Các chuyên viên Việt Nam về Đông Nam Á vạch ra rằng lịch sử đă dẫn dắt giới lănh đạo tại Phnom Penh đến việc tin tưởng rằng một Việt Nam thống nhất sau rốt có thể sáp nhập Căm Bốt.
Cuộc nam tiến của Việt Nam đă dẫn tới sự chiếm cứ của nó tại vương quốc Chàm [nam trung phần của Việt Nam ngày nay] trong các thế kỷ thứ mười sáu và mười bảy. Cuộc nam tiến của chúng tôi tiếp tục chạy xuống vùng Châu Thổ sông Mekong và, cùng với áp lực của Thái Lan từ phía tây, sẽ đưa đến sự kết liễu của Căm Bốt nếu không có sự can thiệp của Pháp. Với sự chấm dứt chiến tranh và sự củng cố của Việt Nam, Căm Bốt đă lo sợ trở thành một khu vực ảnh hưởng của Việt Nam. 8
Tuy nhiên, theo phía Việt Nam, sự lo sợ này không có căn cứ. “Sau cuộc giải phóng Miền Nam, ưu tiên của chúng tôi là an ninh và phát triển kinh tế. Chúng tôi đă không mấy chú ư đến phe Khmer Đỏ và các hoạt động chống Việt Nam của nó”. 9 Đúng hơn, các viên chức Việt Nam vạch ra rằng Việt Nam đă từng trợ giúp Khmer Đỏ giành được thắng lợi, để chỉ khám phá ra rằng khi Pol Pot nắm giữ quyền hành tại Phnom Penh, ông ta đă biểu lộ một thái độ chống Việt Nam một cách mạnh mẽ. Ông ta đă chỉ huy các cuộc tấn công không chỉ nhằm chống lại người Việt sinh sống tại Căm Bốt, mà c̣n bắt đầu tấn công vào các tiền đồn Việt Nam dọc theo biên giới. Trong Tháng Mười Một 1977, ông ta cắt đứt các quan hệ ngoại giao với Việt Nam . Sau đó, ông ta chỉ thị Khmer Đỏ leo thang hành động thực hiện các cuộc tấn công trên quy mô rộng lớn sâu hơn vào nội địa Việt Nam, đốt cháy và cướp bóc toàn thể các làng xă. Hà Nội cảm thấy tuyệt đối cần tái lập an ninh dọc biên giới, và sau một loạt các cuộc phản công nhỏ bị thất bại, không chấm dứt được các sự xâm nhập, đă quyết định rằng cách duy nhất để ngăn chặn Pol Pot là phải lật đổ ông ta. 10
Vào ngày 25 Tháng Mười Hai, 1978, các binh sĩ QĐNDVN đă vượt qua biên giới Căm Bốt trong một cuộc tấn công toàn lực. Mười hai ngày sau đó Phnom Penh rơi vào tay QĐNDVN. Hà Nội hiểu rằng cuộc tấn công đă nâng cao một số rủi ro về một sự đáp ứng của Trung Quốc, nhưng nó cũng cảm thấy rằng Bắc Kinh là một phần của vấn đề. Các chuyên viên Việt Nam về Trung Quốc đă vạch ra nhiều phương cách trong đó Trung Quốc đă cổ vũ sự thù hận của Khmer Đỏ chống lại Việt Nam. Trung Quốc đă là nước đầu tiên thừa nhận Pol Pot như là quốc trưởng trong năm 1975. Pol Pot sau đó đă mời Trung Quốc vào Căm Bốt và Trung Quốc đă đáp ứng bằng việc cung cấp cho Phnom Penh các khối lượng lớn lao về vũ khí, quân trang, và sự ủng hộ kinh tế, và bằng vi8ệc gửi các cố vấn sang trợ giúp Khmer Đỏ. Ngay cả khi Pol Pot thanh lọc người gốc Hoa tại Căm Bốt, Bắc Kinh đă không nói ǵ cả. Khi cuộc diệt chủng khởi sự, nhiều người gốc Hoa và dân Căm Bốt đă chạy trốn sang Việt Nam. 11
Bản Đồ 18 Cuộc Xâm Lăng Của Việt Nam Vào Căm Bốt, 1978-1979
Trong thực tế, Hà Nội đă cảm thấy rằng Trung Quốc đứng đàng sau phần lớn sự xâm lược của phe Khmer Đỏ dọc theo biên giới Căm Bốt của Việt Nam – rằng Bắc Kinh muốn tạo ra một cuộc chiến tranh trên hai mặt trận: “Chúng tôi nh́n sự trợ giúp của CHNDTQ cho Căm Bốt là để tạo thành một mặt trận thứ nh́. Từ đó chúng tôi cảm thấy chúng tôi cần tấn công tại phía nam [Căm Bốt] để loại bỏ mối đe dọa ở đó, sao cho để không phải đối diện với mối đe dọa hai mặt trận từ Trung Quốc. 12 Cuộc chiến tranh là cần thiết từ cái nh́n của chúng tôi, nhưng chúng tôi quan ngại về việc phải để lại binh sĩ tại Căm Bốt – phải bị sa lầy”. 13 Do đó: “Vào ngày 7 Tháng Một chúng tôi chiếm cứ Phnom Penh, giáng một trận nặng nề vào tập đoàn Pol Pot. Với lời yêu cầu của nhân dân Căm Bốt, chúng tôi đă ủng hộ phong trào giải phóng Heng Samrin, một mặt trận thống nhất cứu nguy Căm Bốt”. 14
Việt Nam c̣n tuyên bố thêm đă hành động v́ quyền lợi của nhân loại. “Trong năm 1978 chúng tôi đă hay biết về nạn diệt chủng bên trong Căm Bốt. Hoa Kỳ và Trung Quốc bị quy trách bởi họ đă ủng hộ phe Khmer Đỏ. Chúng tôi đă gửi các binh sĩ vào Căm Bốt theo lời yêu cầu của nhân dân Căm Bốt, để đánh đuối phe Khmer Đỏ. Trong tất cả các nước, chỉ ḿnh Việt Nam làm điều đúng”. 15
Theo các viên chức Việt Nam, sự sụp đổ của Phnom Penh trước QĐNDVN tượng trưng cho một sự thất bại trong chính sách của Trung Hoa: “Khi Việt Nam tiến vào Phnom Penh, Trung Quốc đă bị mất mặt. Trung Quốc đă chĩa các sự tố cáo nhắm vào Việt Nam – rằng Việt Nam đă xúi giục các sự xô xát biến giới với Căm Bốt và đă xâm lăng Căm Bốt nhằm giành đoạt bá quyền tại Đông Dương. Vào ngày 17 Tháng Hai, họ đă phóng ra một cuộc tấn công toàn diện vào biên giới phía bắc của chúng tôi. Chúng tôi đă chờ đợi cuộc tấn công.” 16 Sự chuyển động của Việt Nam đến gần Liên Bang Sô Viết (LBSV) cũng liên hệ trực tiếp với sự đe dọa của Trung Quốc:
Trung Quốc nhất quán muốn ngăn cản bất kỳ ảnh hưởng nào của Việt Nam tại Căm Bốt. Khi chúng tôi sắp sửa gửi quân sang Căm Bốt, chúng tôi đă phải có các sự đề pḥng chống lại sự xâm lược khả hữu của Trung Quốc dọc theo biên giới phía bắc. Chúng tôi đă kư kết một Hiệp Ước Hữu Nghị với LBSV trong năm 1978 như một sự khống chỉ đối với Trung Quốc. Chúng tôi cũng củng cố các sự pḥng thủ của chúng tôi tại khu vực biên giới phía bắc. Chúng tôi có dự liệu sự xâm lược của Trung Quốc, nhưng không ở quy mô lớn lao như thế và với lực lượng như thế. Bản hiệp ước đă cung cấp một sự cấm chỉ hạn chế để giữ Trung Quốc khỏi sự xâm nhập sâu vào nội địa. 17
Một cựu nhân viên ngoại giao cao cấp tại Hà Nội đă tóm tắt các nguyên do cho cuộc tấn công của Trung Quốc vào Việt Nam như sau: “Bắc Kinh đă cảm thấy sự khả tín của Trung Quốc bị đe dọa bởi Trung Quốc đă từng ủng hộ phe Khmer Đỏ với viện trợ và các cố vấn trong vài năm. Nó c̣n tin tưởng rằng QĐNVN sẽ bị kéo căng thật mỏng khi cùng lúc chiếm giữ Căm Bốt và pḥng vệ biên giới Trung Quốc – Việt Nam. Ở mức tối thiểu, nó đă muốn cuộc sống củaViệt Nam bị khốn khổ v́ sự can thiệp của Việt Nam tại Căm Bốt. 18
Các Sự Tái Sắp Xếp Chiến Lược Của
Các Quyền Lực Quan Trọng
Mặc dù các nhà lănh đạo Việt Nam tin tưởng Căm Bốt là một nguyên nhân trực tiếp và đáng kể cho cuộc tấn công của QĐGPNDTQ, họ cảm thấy lư do sâu xa hơn phải liên quan đến sự tái sắp xếp chiến lược của Trung Quốc, một sự tái liên kết được thúc đẩy bởi một chiến dịch toàn dân cho sự hiện đại hóa. Họ đă phát biểu rằng Trung Quốc nổi lên từ sự xáo trộn của Cuộc Cách Mạng Văn Hóa, nó đă tái thiết lập sự hiện đại hóa như ưu tiên quốc gia hàng đầu, sao cho trong trường kỳ, nó có thể đảm nhận “vị thế chính đáng” của nó tại Á Châu. 19
Phía Việt Nam tin tưởng rằng đối với Trung Quốc, vị thế chính đáng này có nghĩa, trước tiên và trên hết, sự hoàn thành trách vụ đă khởi sự trước khi có Cuộc Cách Mạng Văn Hóa – mở rộng các sự tuyên xác trên các khu vực biên giới mà nó cảm thấy đă bị mất trong các thế kỷ trước.
Trong mười ba nước giáp ranh với Trung Quốc, Việt Nam đă chứng tỏ là kẻ khó khăn nhất. Việt Nam trong lịch sử đă chặn đứng sự bành trướng về phía nam của Trung Quốc. Trung Quốc đă đối phó với các nước khác trước, nay đến lượt Việt Nam. 20
Thứ nh́, điều đó có nghĩa là sự xếp hàng của Trung Quốc với Hoa Kỳ chống lại Liên Bang Sô Viết, nước bị đặt tên là bá quyền cấp miền. Trung Quốc đă sử dụng Hoa Kỳ để đối đầu với áp lực khả hữu từ LBSV dọc theo biên giới Trung Quốc – Sô Viết, và chiến thuật này ăn khớp một cách khéo léo với các nỗ lực của Hoa Kỳ muốn chơi lá bài Trung Quốc. Các sự biến đổi then chốt đă xảy ra trong năm 1975, khi Tổng Thống Hoa Kỳ Gerald Ford đến thăm viếng Trung Quốc và Hoa Kỳ đă thừa nhận một ghế đại diện của Trung Quốc tại Liên Hiệp Quốc và gỡ bỏ sự cấm vấn mậu dịch của Hoa Kỳ. Sau đó trong Tháng Mười 1975, Bộ Trưởng Ngoại Giao Henry Kissinger đă yêu câu Trung Quốc ủng hộ Hoa Kỳ chống lại Việt Nam, ghi nhận rằng Trung Quốc bị bao vây ở mọi phía – bởi Liên Bang Sô Viết, Ấn Độ, và Việt Nam. 21
Thứ ba, và quan trọng nhất trong cái nh́n của Việt Nam, Trung Quốc đă t́m kiếm các quan hệ chặt chẽ với Hoa Kỳ ngơ hầu tiếp thu được tư bản và kỹ thuật có tính cách sinh tử cho sự hiện đại hóa của nó. Các triển vọng nâng cao về sự chuyển giao kỹ thuật đă là một lư do chính yếu cho cuộc viếng thăm của Đặng Tiểu B́nh tại Hoa Kỳ trong Tháng Một 1979. 22
Cuộc thăm viếng của họ Đặng tại Hoa Kỳ cũng hệ trọng v́ một lư do khác. Trong cuộc thăm viếng, họ Đặng có nói với Tổng Thống Jimmy Carter rằng Trung Quốc sẽ phải “dạy cho Việt Nam một bài học, và rằng ông ta sẽ tấn công Việt Nam”. 23 Các viên chức quân sự Việt Nam cao cấp đă giải thích cuộc thăm viếng như sau, giải thích nó như đèn xanh của Hoa Kỳ cho Trung Quốc tấn công:
Họ Đặng đă muốn “dạy cho Việt Nam một bài học” như thế để các nước khác tại Á Châu có thể chứng kiến sự bại trận của Việt Nam trước quyền lực Trung Quốc. Tổng Thống Carter thoạt đầu bị ngạc nhiên nhưng sau đó đă đồng ư. {Cố Vấn An Ninh Quốc Gia} Zbigniew Brzezinski có nói với Tổng Thống Carter rằng LBSV sẽ không có hành động chống lại Trung Quốc bởi nó không có quyền lợi sinh tử bị đe dọa. Ông ta đă đúng, và chúng tôi đă không kỳ vọng sự trợ giúp quân sự của Sô Viết. Trong thực tế, LBSV đă bắt đầu giảm bớt viện trợ quân sự sau Hội Nghị Paris năm 1973. Hơn nữa, đă có một sự thỏa thuận ngầm giữa Hoa Kỳ và LBSV rằng nước kể sau [LBSV] sẽ không ủng hộ Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa (VNDCCH) về mặt quân sự. Hoa Kỳ và LBSV đă theo dơi và không làm ǵ cả. Bài học cho Việt Nam là tự lực. Điều này có nghĩa là chiến tranh nhân dân và chúng tôi đă đúng khi vũ trang cho các công dân chúng tôi tại các tỉnh giáp ranh Trung Quốc. 24
Phía Việt Nam tin tưởng nợi sự tự lực được tăng cường bởi sự giải thích của họ về các biến cố bao quanh sự chiếm đoạt của Trung Quốc ở Quần Đảo Hoàng Sa (Paracels hay Xisha trong tiếng hán) năm 1974. Mặc dù QĐGPNDTQ đă chiếm đoạt chúng từ các binh sĩ Nam Việt Nam, Hải Quân Hoa Kỳ (mà phía Việt Nam nói có hiện diện tại Vịnh Bắc Phần vào lúc đó) đă không phản ứng. Trung Quốc ngầm hiểu rằng sẽ không có phản ứng bởi v́ nó biết rằng Hoa Kỳ muốn có sự sáp lại gần hơn với Trung Quốc. Trắc nghiệm thành công phản ứng của Hoa Kỳ trong vụ Quần Đảo Hoàng Sa, phía Trung Quốc cảm thấy nó có thể hành động mà không khiêu khích một phản ứng của Hoa Kỳ trong việc tấn công Việt Nam trên đất liền. 25
Tuy nhiên, lập trường tự lực của Việt Nam bị tiết chế bởi khoản viện trợ đáng kể mà nó đă nhận được trong các năm chiến tranh từ cả Liên Bang Sô Viết lẫn Trung Quốc. Theo các chuyên viên Việt Nam, các đ̣i hỏi của Hoa Kỳ trong năm 1971 và 1972 rằng Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa phải cắt giảm viện trợ của họ cho Việt Nam đă đưa đến một sự cắt giảm viện trợ từ 60% đến 70%. Phản ứng của Trung Quốc là để cho Việt Nam dựa vào viện trợ của Sô Viết. Cách nào đi nữa, khoản viện trợ sẽ quá nhỏ bé, và Việt Nam sẽ phải quay trở lại với Trung Quốc. Trung Quốc đă cắt bỏ hoàn toàn viện trợ kinh tế trong năm 1978 và rút về các kỹ thuật gia và các chuyên viên của nó. Viện trợ của Sô Viết vẫn tiếp tục, dù ở các mức độ thấp hơn. 26
Bắc Kinh tiếp tục thái độ thù nghịch của nó. Trong Tháng Sáu 1978, Bắc Kinh thông báo cho Hà Nội rằng nó cho đóng cửa các ṭa lănh sự của Việt Nam tại Quảng Châu, Nam Ninh và Côn Minh, và trong Tháng Mười Một 1978, nó đă cắt đứt các tuyến đường xe hỏa giữa Trung Quốc và Việt Nam. 27 Việt Nam hay biết một cuộc tấn công nhiều phần xảy ra dọc biên giới phía bắc và, như được đề cập trước đây, đă kư kết một Hiệp Ước Hữu Nghị và Hợp Tác với Liên Bang Sô Viết trong một mưu toan nhằm ngăn chặn hay giới hạn khuôn khổ của bất kỳ cuộc tấn công nào của Trung Quốc. Bắc Kinh kế đó đă xem bản hiệp ước như một hành vi thù nghịch bởi Việt Nam, và sự ngờ vực của Bắc Kinh về Liên Bang Sô Viết đă dẫn dắt nó đến việc tin tưởng liên minh mới là một phần của một mưu toan của Sô Viết nhằm bao vây Trung Quốc. Nh́n Việt Nam như một mặt trận trong cuộc đấu tranh chống Sô Viết của ḿnh, Bắc Kinh đă gán nhăn hiệu cho Việt Nam là tiểu bá quyền và LBSV là đại bá quyền. Đó là lư dó trung tâm cho Trung Quốc muốn dạy Việt Nam một bài học để các nước khác nh́n thấy. 28 Lo lắng về an ninh quá đáng, phía Trung Quốc đă nh́n liên minh Sô Viết – Việt Nam như một trở ngại cho sự tái khẳng định vị trí thích hợp của Trung Quốc tại Á Châu. Cuộc tấn công đă được thiết kế để phá vỡ liên minh này và cảnh cáo Hà Nội rằng trong trường kỳ, nó sẽ cưỡng bách Việt Nam từ bỏ bất kỳ liên minh với đại cường nào. 29
Tuy nhiên, Việt Nam đă không cho phép LBSV sử dụng Việt Nam như một căn cứ chống lại Trung Quốc. Mối quan hệ vẫn c̣n chặt chẽ nhưng chưa đến mức mà Việt Nam nghĩ rằng nó có thể phải lệ thuộc vào sự can thiệp quân sự của Sô Viết, ngay dù LBSV có hay biết trước rằng CHNDTQ có ư định tấn công Việt Nam. “Việt Nam đă kư thác ḿnh vào sự tin tưởng nơi chủ nghĩa quốc tế vô sản và nghĩ rằng t́nh liên đới của nó sẽ củng cố liên minh với LBSV, nhưng vào năm 1979, điều rơ ràng rằng nguyên tác này không c̣n có nhiều ư nghĩa với bất kỳ nước nào”. 30
Người Hoa Như Một Nguyên Nhân Của Cuộc Xung Đột
Các nhà nghiên cứu và các viên chức Việt Nam không nh́n vấn đề người gốc Trung Quốc tại Việt Nam (người Hoa) là một lư do quan trọng cho cuộc tấn công của Trung Quốc vào Việt Nam. Họ nói phần lớn người Hoa, đặc biệt các người thuộc cộng đồng Trung Quốc to lớn ở Chợ Lớn (tại Sàig̣n), đă cư trú tại Việt Nam qua nhiều thế hệ. Lư do người Hoa được trưng dẫn như là nguyên nhân của cuộc xung đột, theo lời họ, là bởi v́ cuộc chiến tranh không được ḷng dân ngay tại chính Trung Quốc, và Bắc Kinh cần khuấy động sự tức giận của quần chúng nơi sự ngược đăi giả định các công dân Trung Quốc tại Việt Nam. Theo luồng tư tưởng này, phần lớn người dân Trung Quốc cảm thấy Việt Nam là thân hữu của họ và đă không hiểu tại sao Trung Quốc sẽ tấn công. Trong thực tế, Bắc Kinh đă sử dụng vấn đề Hoa kiều hải ngoại như một duyên cớ để biện minh sự xâm lược của Trung Quốc đối với nhân dân của chính họ. 31
Một thành tố quan trọng của quan điểm này là hàm ư rằng sự bất măn phổ biến tại Trung Quốc có thể thực hiện một ảnh hưởng kiềm chế trên tác phong của Trung Quốc, rất giống như sự bất măn của quần chúng tại Mỹ đă làm trong việc chấm dứt sự can dự của Hoa Kỳ tại Việt Nam. Truyền thông Việt Nam vào thời điểm đó đă truyền đi nhiều lần các sự đề cập tới các cuộc biểu t́nh của người dân Trung Quốc chống đối chiến tranh. Điển h́nh của sự tường thuật lúc đó như sau: “Các nhà cầm quyền Trung Quốc đă ngăn cấm mọi cuộc biểu t́nh, tập họp công cộng và sự ấn hành các bản tin tường thuật của nhân dân liên quan đến cuộc xâm lược của Trung Quốc tại Việt Nam”. 32
Các sự giải thích cho cuộc di cư của người Hoa khỏi Bắc Việt về Trung Quốc chú tâm đến các sự khiêu khích của Trung Quốc: “Phía Trung Quốc, thi hành một ư đồ có tổ chức và xảo trá, đă dụ dỗ và cưỡng bách hàng trăm ngh́n người Hoa đi về Trung Quốc trong một mưu toan gây ra sự xáo trộn chính trị, xă hội, và kinh tế tại Việt Nam”. 33 Bên trên các sự khiêu khích này, Trung Quốc đă tố cáo Việt Nam đă ngược đăi các người Hoa. 34
Hà Nội có thể chính xác trong sự phán đoán rằng động thái của nó đối với người Hoa không phải là một yếu tố quyết định trong quyết định của Trung Quốc để tấn công. Tuy nhiên, không có ǵ phải ngờ rằng nó đă là một yếu tố lớn hơn các lời giải thích đă được đưa ra. Trước tiên, sự đàn áp các phần tử tư sản mại bản tại miền Nam Việt Nam trước đây vốn tập trung đông đảo tại cộng đồng người Trung Hoa to lớn trong Chợ Lớn. Ở nơi đó, trong Tháng Ba 1978, các nhà cầm quyền Việt Nam đă tung ra một sự kiểm tra đột ngột ồ ạt trên hoạt động kinh doanh, tước đoạt của cải của các cư dân và buộc nhiều người trong họ phải lưu vong. 35 Thứ nh́, rơ ràng đă có các mưu toan của Việt Nam để xua đuổi nhiều người Hoa tại Bắc Việt về Trung Quốc. Động lực của việc này th́ không rơ rệt, nhưng có thể bị thúc đẩy bởi các sự lo ngại về an ninh do cảm tính chống Việt Nam trong số các người này.
Về phần ḿnh, Bắc Kinh, đặc biệt với các tham vọng của nó về một vai tṛ có ảnh hưởng tại Đông Nam Á, đă không thể đứng yên và ngắm nh́n hàng trăm ngh́n người gốc Trung Hoa bị xua đuổi ra khỏi Việt Nam. V́ thế, nó đă ồn ào kết án các hành vi của Việt Nam và đă gửi ít con tàu đến Vịnh Bắc Việt trong một nỗ lực vô ích để cứu vớt những người Hoa muốn hồi hương về Trung Quốc. Tuy nhiên, Việt Nam đă không cho phép các chiệc tàu này tiến vào các hải phận của nó, và Bắc Kinh đă rút chúng về trước khi có cuộc tấn công qua biên giới của nó. 36
Các Sự Tranh Chấp Biên Giới Đât Liền
Bắc Kinh đă muốn giải quyết các vấn đề biên giới có lợi cho nó. Sự phân định các biên giới trên đất liền là một việc khó khăn, nhưng đây chỉ là chuyện nhỏ khi so sánh với các tham vọng của Trung Quốc tại Biển Nam Hải, bao gồm cả các sự tuyên xác tại Vịnh Bắc Bộ và tại Các Quần Đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Việt Nam không nhận thức các vụ tranh chấp tại biên giới đất liền như một yếu tố quan trọng trong quyết định của Trung Quốc. Dọc theo toàn thể biên giới dài 797 dậm Anh, Trung Quốc tuyên xác ít hơn sáu mươi cây số vuông. 37 Việt Nam ghi nhận rằng khu vực biên giới đă được hưởng một thời kỳ ḥa b́nh lâu dài, và các nhóm dân tộc ở hai bên biên giới đă có một mối quan hệ chặt chẽ. Biên giới, theo lời họ, đă không phải là một vấn đề quan trọng trước khi có các sự tranh chấp trong thập niên 1970:
Về mặt lịch sử, biên giới luôn luôn vô định h́nh. Việt Nam đă là một quốc gia triều cống nhưng độc lập trong nhiều năm, trong một t́nh trạng tương tự như mối quan hệ giữa Phần Lan và Nga – nó đă là một khu vực an ninh và ảnh hưởng của Trung Quốc. Với sự trổi dậy của CHNDTQ, Trung Quốc đă t́m cách xác quyết chủ quyền của Đại Hán trên các vùng như thế, kể cả Bắc Hàn, nơi mà Trung Quốc đă bảo vệ bằng việc tiến đến chiến tranh với Hoa Kỳ. Nhưng ít nhất VNDCCH vẫn c̣n chưa phải là một vùng như thế. Điều này có lợi cho chúng tôi trong suốt cuộc chiến tranh với Hoa Kỳ. 38
Sau đó, làm sao mà cuộc xung đột biên giới đă phát sinh? Rơ ràng, đă có các sự giải thích khác nhau về thỏa hiệp phân định biên giới Pháp – Hoa năm 1887. Trong sự thi hành thỏa hiệp đó, “333 cột mốc biên giới đă được đặt vào lúc chuyển đổi thế kỷ, nhưng chúng đă không được bảo tŕ kỹ lưỡng. Một số cột mốc trên đất liền đă bị di dời xuống phía nam, nhưng Việt Nam th́ quá bận tâm với các cuộc chiến tranh của nó để chú ư đến việc đó. Trong suốt hai cuộc chiến tranh Đông Dương, CHNDTQ đă nói với VNDCCH rằng biên giới trên đất liền không phải là một vấn đề và có thể được giải quyết sau này. Cùng giọng điệu như thế đối với Vịnh Bắc Bộ”. 39
Các sự khác biệt trong các sự giải thích đă có ư nghĩa lớn hơn trong thập niên 1970. Theo cái nh́n của Việt Nam, “bởi các quyền lợi chiến lược của nó đă biến đổi trong thập niên 1970 và 1980, Trung Quốc đă đưa ra các đ̣i hỏi mới trên đất liền và trên biển. Bắc Kinh đă nói nó đă phải ‘ổn định hóa biên giới để làm cho lănh thổ Trung Quốc an toàn hầu phát triển’. Trung Quốc đă cáo buộc Việt Nam đang tấn công Trung Quốc, nhưng Việt Nam chưa hề có thể tấn công và chiếm cứ Trung Quốc”. 40 Các nguồn tài liệu khác công nhận rằng Hà Nội đă trở nên khiêu khích quá đáng tiếp theo sau sự chiến thắng của nó trên Sàig̣n. Việt Nam đă đưa ra các sự tuyên xác vượt quá biên giới được phân định trong thỏa hiệp Trung Quốc – Pháp Quốc, và đă bắt đầu nêu lên vấn đề một đường biên giới “lịch sử” để hậu thuẫn cho các sự tuyên xác đối với mười lăm khoảnh đất riêng biệt tại các tỉnh Vân Nam và Quảng Tây. “Chúng tôi phạm phải các sai lầm trong thái độ của chúng tôi đối với Trung Quốc”, một viên chức Bộ Ngoại Giao Việt Nam thú nhận như thế. 41 Các sai lầm này rơ ràng khiến Trung Quốc tức giận, đổ thêm dầu vào các nguyên nhân khác của cuộc xung đột năm 1979.
Các Tranh ChấpTại Biển Nam Hải
Các sự tranh chấp Biển Nam Hải (South China Sea) giữa Trung Quốc và Việt Nam đă hiện hữu ít nhất từ năm 1947, khi Trung Hoa [Dân Quốc] vạch đường gồm chín đoạn rời để bao gồm các sự tuyên xác trên các ḥn đảo chiếm đại đa số diện tích của biển này. “Về mặt lịch sử, Hoàng Sa (Paracels: Xishas) và Trường Sa (Spratlys: Namshas) là của Việt Nam. Chúng được gọi là Trường Sa [sic, trong nguyên bản viết sai là Trường Xa, chú của người dịch]. Tưởng Giới Thạch tuyên xác nhưng không có hành động ǵ”. 42 Như với biên giới đất liền trong suốt hai cuộc chiến tranh Đông Dương, các tranh chấp trên biển đă được triển hoăn cho sự giải quyết tương lai. Tuy nhiên, trong năm 1974, với sự chiếm đoạt của QĐGPNDTQ các đảo nhỏ nằm phía tây của Quần Đảo Hoàng Sa từ Nam Việt Nam, Hà Nội trở nên bối rối. Nó đă không ủng hộ bước tiến của Trung Quốc đánh Nam Việt Nam cũng không kết án sự chiếm đóng kế đó của Nam Việt Nam trên sáu đảo tại Quần Đảo Trường Sa mà Trung Quốc đă tuyên xác. Trong thời hậu chiến, khi các sự căng thẳng lên cao với Trung Quốc, nó bắt đầu nh́n Trung Quốc như một mối đe dọa c̣n lớn hơn nữa đối với các tuyên xác trên biển của nó. Bởi v́ Trung Quốc rơ ràng đă hướng ra ngoài trong khi nó phát triển tiềm năng quân sự và kinh tế của nó, Hà Nội trong một bước tiến phủ đầu một cách quả quyết đă khởi sự đồn trú trên nhiều ḥn đảo khác nhau của Quần Đảo Trường Sa. 43
Mặc dù cả hai bên đều tuyên xác cả Quần Đảo Hoàng Sa lẫn Trường Sa, không bên nào có các lực lượng hải quân có khả năng phóng chiếu nhiều quyền lực trong vùng. Hải quân QĐGPNDTQ có một hạm đội các tàu cũ có thể vuơn tới Quần Đảo Trường Sa, nhưng Việt Nam vẫn c̣n đang dựa vào hạm đội Sô Viết có năng lực hơn nhiều làm kẻ bảo kê an ninh cho chuỗi mở rộng từ từ các ḥn đảo được củng cố. Như một phần trong các sự chuẩn bị của nó cho việc tấn công Việt Nam, Trung Quôc đă tập họp một hạm đội nhỏ ngoài khơi đảo Hải Nam hồi đầu năm 1979. Hạm đội đă không bao giờ được sử dụng, bởi Trung Quốc đă quyết định hạn định sự tấn công của nó đánh Việt Nam vào sự chiến đấu trên đất liền, mà nhiều phần cũng v́ bốn chiếc tàu chiến của Sô Viết đă di chuyển vào Biển Nam Hải hồi đầu Tháng Hai. Bốn chiếc tàu chiến này sau rốt đă thả neo tại Vịnh Cam Ranh, nhưmg sự hiện diện của chúng trong vùng đă là một sự cảnh cáo rơ ràng cho Bắc Kinh không được đẩy cuộc tấn công của ḿnh vượt quá một sô lằn ranh nào đó. 44
Bản Đồ 19: Biển Nam Hải [sic]
Sự kiện rằng các cuộc tranh chấp Biển Nam Hải rơ ràng đă không đóng giữ một vai tṛ quan trọng trong việc dẫn dắt đến cuộc xung đột năm 1979 không có nghĩa là chúng không thể dẫn đến một cuộc tranh chấp giữa hai nước trong tương lai. Theo các nguồn tin Việt Nam, Trung Quốc đă muốn mở rộng các biên giới trên biển của nó và có thể tạo ra một duyên cớ để chiếm đoạt các ḥn đảo do Việt Nam nắm giữ, “giống y như nó đă làm trong việc tấn công khắp tuyến McMahon trong năm 1962, và Đảo Damamsky trong năm 1969”. 45 Một người có thẩm quyền Việt Nam về vấn đề này đă phát biểu điều đó theo cách sau đây:
Những ǵ xảy ra tại Biển Nam Hải là một chức năng của các quyền lợi chiến lược. Trung Quốc tuyên bố nó cần “không gian cho sự phát triển” và cần kiểm soát các biên giới chiến lược của nó trên biển. Chúng tôi muốn ổn định hóa t́nh h́nh, chính yêu bằng các phương thức đa phương, nhưng cũng gồm cả song phương, xuyên qua các sự thương thảo và có lợi hỗ tương. 46
Sự Tiến Hành Chiến Dịch
Trong việc hoạch định sự xâm lăng của nó vào Căm Bốt, Hà Nội có ngờ vực Trung Quốc có thể đáp ứng bằng hành động quân sự dọc theo biên giới Trung – Việt. Có các dấu hiệu quân sự ở đó.
Trước tiên, các sự xâm nhập của QĐGPNDTQ theo tường thuật, vào Việt Nam đă gia tăng một cách rơ rệt. Theo Hà Nội, con số các biến cố dẫn đến cuộc tấn công Tháng Hai 1979 đă gia tăng từ nhịp độ trung b́nh trong năm 1978 là 49 vụ mỗi tháng lên 171 vụ trong Tháng Một 1979, và 230 vụ trong 16 ngày trước khi có cuộc tấn công hôm 17 Tháng Hai. 47 Vào ngày 1 Tháng Hai, Hà Nội đă tường thuật rằng sự gia tăng rơ rệt trong các vụ đụng độ biến giới đă buộc Việt Nam “phải duy tŕ một sự hiện diện quân sự mạnh mẽ trong khu vực”. 48
Khi chúng tôi nh́n thấy Phnom Penh sắp sửa sụp đổ, chúng tôi có dự liệu cuộc tấn công của QĐGPNDTQ. Chúng tôi có biết CHNDTQ không thể tŕ hoăn cuộc tấn công khi phe Khmer Đỏ sắp sửa bị đánh bại. Chúng tôi đă thực hiện các sự chuẩn bị, trang bị và huấn luyện dân quân (citizen soldiers), và đă báo động các lực lượng địa phương quân. Vào tối trước khi có cuộc tấn công, tôi có mặt cách biên giới ba cây số. Học Viện Quốc Pḥng của QĐNDVN đă phái tất cả nhân viên lên phía bắc làm cán bộ và để lượng giá t́nh h́nh. Các địa phương quân sắp phải chịu lănh áp lực chính của cuộc tấn công. Họ có ba nhiệm vụ: đánh trả và gây tổn thất của QĐGPNDTQ ở mức tối đa, làm chậm bước tiến quân, và hướng dẫn các đường tiến quân của các lục lượng chủ lực. 49
Thứ nh́, Hà Nội có tường thuật các sự chuẩn bị sâu rộng của QĐGPNDTQ cho các cuộc tấn công to lớn về mặt quy mô và phạm vi hơn chỉ là [để sử dụng cho] các vụ đụng độ nhỏ biên giới. Nó có ghi nhận các vụ xâm nhập sâu vào các tỉnh Hoàng Liên Sơn và Lạng Sơn, các vụ đột kích vào các đồn biên giới của Việt Nam, và sự tập hợp đông đảo trọng pháo phía bên biên giới Trung Quốc. 50 Theo các nguồn tin Việt Nam, QĐGPNDTQ đă xúi giục các vụ đụng độ khắp toàn thể các tỉnh biên giới của Việt Nam hầu phân tán công tác quốc pḥng. Trong số 171 vụ xâm nhập được báo cáo trong Tháng Một 1979, thí dụ, 24 vụ tại Quảng Ninh, 40 vụ tại Lạng Sơn, 43 vụ tại Cao Bằng, 18 vụ tại Hà Tuyên, 39 vụ tại Hoàng Liên Sơn, và 7 vụ tại tỉnh Lai Châu. 51
Thứ ba, mặc dù có tường thuật các vụ biến cố sâu rộng suốt Tháng Một và đầu Tháng Hai, nó đă chú tâm đến sự tiến quân vào huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn một cách chi tiết khác thường, bởi Cao Lộc dẫn đường tới thị trấn Lạng Sơn, và cả hai địa điểm nằm trên con đường trực tiếp nhất từ biên giới Trung Quốc xuống Hà Nội. Vào ngày 4 Tháng Hai, có báo cáo rằng khoảng 200 binh sĩ QĐGPNDTQ, được yểm trợ bởi pháo binh và súng máy và được hỗ trợ bởi “hàng ngh́n” binh sĩ QĐGPNDTQ, đă tiến sâu 200 mét vào Việt Nam tại huyện Cao Lộc. Các binh sĩ QĐGPNDTQ được cho hay đă chiếm cứ các địa điểm có địa h́nh then chốt và khai quang các tầm khai hỏa trong các sự chuẩn bị hiển nhiên đối với một sự phản công khả hữu của Việt Nam. 52
Một tuần sau đó, Hà Nội phát thanh các tin tức đáng ngại hơn: “Vào sớm hôm 10 Tháng Hai, sau khi đă bắn súng cối và súng máy hạng nặng vào các thôn xă của nhân dân chúng ta, phía Trung Quốc đă phái các binh sĩ sang xâm lấn và chiếm cứ một khu vực tại xă Thanh Loa [?] được pḥng vệ bởi các dân quân chúng ta … Các kẻ xâm nhập Trung Quốc đă chiếm cứ Đồi 400, 14 cây số bắc-đông bắc tỉnh lỵ Lạng Sơn và hai cây số bên trong lănh thổ Việt Nam”. 53 Giống như trong cuộc tấn công trước đây gần biên giới hơn, QĐGPNDTQ đă hậu thuẫn các hành động của nó bằng việc bố trí các lực lượng mạnh để yểm trợ. “Phía Trung Quốc đă tạo ra một t́nh trạng nghiêm trọng dọc theo biên giới Trung – Việt. Nó đă tập hợp 20 sư đoàn, hàng trăm các phi cơ chiến đấu, nhiều xe thiết giáp và các quân dụng chiến tranh khác sát gần biên giới Việt Nam”. 54
Đă có 600,000 binh sĩ Trung Quốc nói chung liên can đến cuộc tấn công. Ư định của QĐGPNDTQ là tiến sâu từ bốn mươi đến sáu mươi cây số trong lănh thổ Việt Nam. Chúng tôi đă phải chuẩn bị. Chúng tôi không thể tin được phạm vi của cuộc tấn công. Ngay tại Hà Nội, dân chúng được nói cần sẵn sàng. Họ đă được báo động; hồ đào hố, và họ đă chuẩn bị các vị trí pḥng thủ. 55
Tuy nhiên, phía người dân Việt Nam tại Hà Nội tuyên bố vẫn giữ vẻ tự tin. Bất kỳ sự quan ngại nào về sự an toàn của thủ đô đều được dấu kín, cả trên báo chí vào lúc đó lẫn trong các sự thẩm định đương thời của Việt Nam về cuộc chiến. “Chúng tôi có ưu thế trang thiết bị của Nga và Mỹ so với trang thiết bị của QĐGPNDTQ “, một chuyên viên nhấn mạnh, trong khi các người khác tuyên bố:
Cuộc Cách Mạng Văn Hóa đă hạ thâp sự sẵn sàng chiến đấu của QĐGPNDTQ. Các binh sĩ QĐGPNDTQ đă phá hủy kinh tế của các khu vực bị chiếm đóng, nhưng đă phải trả giá với các sự tổn thất lớn lao. Năng lực chiến dấu của QĐGPNDTQ th́ thấp. QĐGPNDTQ cũng có tinh thần thấp. 56
Bất kể sự nhận biết rơ ràng của nó về các dấu hiệu cảnh cáo, Hà Nội vẫn rơ ràng ở vào chỗ tin ttưởng rằng một nước xă hội chủ nghĩa anh em sẽ không bao giờ tấn công nó. Sự tin tưởng này được tăng cường bởi một nhận thức rằng phần lớn người Trung Quốc chống đối chiến tranh và rằng sẽ có áp lực từ dân chúng Trung Quốc để ngăn chặn chiến tranh. 57 Tuy nhiên, có lẽ điều quan trọng nhất đối với Hà Nội là lời b́nh luận bởi Đặng Tiểu B́nh một tuần sau khi mở chiến dịch là cuộc tiến quân của Trung Quốc sẽ không được kéo dài lâu hơn cuộc giao tranh năm 1962 với Ấn Độ (ba mươi ba ngày). 58 Cộng với các ư kiến trước đó của ông ta rằng cuộc xâm lăng sẽ “được hạn chế về không và thời gian”. Hà Nội rất có thể đă kết luận rằng nó có thể cầm chân phía Trung Quốc tại các các tỉnh biên giới trong bất kỳ trường hợp nào.
Một vài khuôn mẫu hành động phát sinh từ các cuộc xâm nhập “tiền chiến tranh” này. Trước tiên, QĐGPNDTQ tạo ra các biến cố suốt một mặt trận rộng lớn, nhất thiết làm phân tán các sự pḥng thủ của Việt Nam và che dấu đến một tầm mức giới hạn trục tấn công chính yếu. Thứ nh́, QĐGPNDTQ đă tập trung các nỗ lực của nó vào việc chiếm đoạt các địa h́nh trọng yếu dọc theo khu vực pḥng thủ trọng yếu nhất của Việt Nam, -- hành lang Lạng Sơn dẫn xuống Hà Nội. Thứ ba, trong cả cuộc tấn công biên giới hôm 4 Tháng Hai lẫn cuộc tấn công hôm 10 Tháng Hai vào Đồi 400, QĐGPNDTQ đă hành động một cách mau lẹ để chiếm đoạt các mục tiêu trước khi các lực lượng Việt Nam có thể đáp ứng. Nó đă tức thời dựng lên các vị trí pḥng thủ theo sau sự chiếm đoạt các mục tiêu của nó, và đă hậu thuẫn sự hiện diện của nó bởi lực lượng áp đảo hỗ trợ cho cuộc tấn công. Hoạt động của QĐGPNDTQ chính v́ thế đă mưu toan áp đặt “sự đă rồi: a fait accompli”.
Bản Đồ 20: Cuộc Xâm Lăng Của Trung Quốc Vào Việt Nam, năm 1979
Sự mở màn các chiến sự hôm 17 Tháng Hai đă diễn ra không có sự bất ngờ. Ngoài nhiều biến cố trong sự chuẩn bị cho cuộc tấn công của QĐGPNDTQ, các sự chuẩn bị quân sự th́ ồ ạt. Mười trong mười một quân khu của Trung Quốc đă đóng góp các lực lượng. Các lực lượng này gồm khoảng 20 sư đoàn, 300,000 binh sĩ, 700-1000 máy bay, 1,000 xe tăng, và 1,500 khẩu pháo. 59 Các đơn vị xâm nhập Việt Nam một cách điển h́nh được trang súng bắn hỏa tiễn phóng lựu đạn, các súng máy, và súng 12.7 li. Trong các tuần lễ trước khi có cuộc tấn công, Hà Nội có tuyên bố rằng các máy bay Trung Quốc đă bay qua không phận của Việt Nam, trong khi “các tàu và thuyền Trung Quốc đă thực hiện hơn 1,500 vụ đột nhập vào hải phận của Việt Nam”. 60
Cuộc tấn công thực sự đă bắt đầu vượt qua toàn thể vùng biên giới trong một cuộc công kích vào lúc rạng sáng bởi sáu sư đoàn bộ binh được yểm trợ bởi các loạt trọng pháo. QĐGPNDTQ đă tiến vào Việt Nam tại hơn hai mười sáu địa điểm, nhưng đă sớm tập trung cuộc tấn công của họ dọc theo năm ngả tiến quân chính, tất cả đều nhắm vào tỉnh lỵ của năm trong sáu tỉnh biên giới của Việt Nam (ngoại trừ tỉnh duyên hải Quảng Ninh và tỉnh lỵ của nó là Ḥn Gai). Các mục tiêu quân sự Trung Quốc bao gồm không chỉ việc chiếm đoạt các tỉnh này, mà c̣n cả sự triệt hủy các đơn vị quan trọng của QĐNDVN được xem là cốt yếu cho sự pḥng thủ của họ. Bắc Kinh đă đặt tên cho các sự chuyển động của nó là một cuộc “hoàn kích tự vệ”, và đă cẩn thận không bày tỏ bất kỳ ư định nào muốn tiến quân vượt quá các tỉnh biên giới tiến xuống vùng Châu Thổ sông Hồng. QĐGPNDTQ cũng giới hạn cuộc tấn công của nó bằng cách không sử dụng không hay hải lực. 61 Ở cực điểm, các lực lượng QĐGPNDTQ bên trong Việt Nam được ước lượng là tám sư đoàn và hơn 100,000 quân. 62
Việt Nam đă dựa chính yếu vào dân quân, bao gồm các binh sĩ-công dân và các lực lượng địa phương, để đối đầu với cuộc xâm lăng. Theo các sĩ quan cao cấp của QĐNDVN, Hà Nội đă cung cấp các vũ khí nhỏ và huấn luyện cho các công dân của vùng biên giới trong vài tháng trước cuộc tấn công. Một khi cuộc tấn công bắt đầu, các binh sĩ-công dân này và các lực lượng địa phương quân đă phải chịu đựng áp lực chính của cuộc tấn công. Năm sư đoàn chính quy của QĐNDVN được giữ làm quân trừ bị, sẽ chỉ giao chiến nếu QĐGPNDTQ đe dọa chọc thủng xuống vùng Châu Thổ sông Hồng. Hà Nội đă muốn phá hỏng một mục tiêu của QĐGPNDTQ nhằm tiêu diệt các đơn vị lực lượng chủ lực, nhưng cũng cảm thấy rằng nó sẽ vững mạnh hơn về mặt chiến thuật để chỉ tung ra các đơn vị quân chủ lực sau khi các tuyến đường lưu thông của các đơn vị Trung Quốc bị căng mỏng ra. Hà Nội cũng đă giữ các đơn vị chủ lực quân đàng sau ngay từ lúc khởi đầu trong một nỗ lực nhằm giữ bất kỳ chiến sự nào phải được giới hạn ở khu vực biên giới. Trong thực tế, một ít đơn vị QĐNDVN đă tham gia vào sự pḥng thủ Lạng Sơn hồi đầu Tháng Ba, nhưng ngay ở đó các dân quân đă thực hiện việc giao tranh chính yếu. Một số ước lượng từ 75,000 đến 100,000 dân quân Việt Nam đă tham gia vào sự giao tranh. 63
Các chiến thuật của QĐGPNDTQ đă không phải là một điểm mạnh của Trung Quốc. Quân đội đă bị tàn phá bởi các sự rối loạn của Cuộc Cách Mạng Văn Hóa, đă không tham gia vào sự chiến đấu trong mười năm, và vẫn chưa hiện đại hóa các lực lượng của nó để chiến đấu “một cuộc chiến tranh kỹ thuật cao độ dưới các điều kiện địa phương”. Các xe tăng và xe vận tải bị giữ chân tại một ít con đường uốn khúc giữa các ngọn núi, đồi cao, phần lớn được che phủ bởi rừng và rải rác các bờ đá vôi dốc đứng. Địa thế hành lang Lạng Sơn không hoàn toàn gập ghềnh, nhưng bao gồm nhiều ngọn đồi dốc đứng với các khu vực khai hỏa thuận lợi bảo vệ các tuyền đường tiến tới. 64 Khi bộ binh QĐGPNDTQ mưu toan né tránh tuyến đường, họ có khuynh hướng đổ dồn theo đội h́nh hàng dọc bởi địa h́nh. Ở đó, họ đă gặp phải sự kháng cự mạnh mẽ bởi các lực lượng địa phương quân lưu động am tường rất rơ địa h́nh và thực hiện các cuộc phục kích thường xuyên với hiệu quả đích đáng. Dọc theo các lối đi và đường lộ chính, phía Việt Nam đă sử dụng nhiều ḿn nổ, cuộc tấn công bằng súng cối, và các cuộc phục kích khai hỏa trực tiếp từ các địa thế khống chế. Chỉ sau khi gánh chịu các tổn thất nặng nề cho các đội h́nh mở đường của nó, các đơn vị QĐGPNDTQ mới có thể dựng lên một căn cứ hỏa lực đủ để di chuyển các lực lượng chống lại quân pḥng vệ Việt Nam cố thủ tại các chiến hào. 65
Chúng tôi đă sử dụng nhiều cuộc phục kích địa phương. Chúng tôi đă dựa nhiều vào giới nông dân được vũ trang mà chúng tôi đă huấn luyện. Đây là cuộc chiến tranh nhân dân. Các lực lượng địa phương quân đă cung cấp sự pḥng thủ chính yếu. Các lực lượng chủ lực quân được giữ làm trừ bị. Địa thế dồn các lực lượng QĐGPNDTQ vào các khe núi hẹp. Họ không được huấn luyện và chưa sẵn sàng chiến đấu. Họ đă chỉ phá hủy Lạng Sơn sau khi gánh chịu các tổn thất khổng lồ. 66
Bất kể việc pháo kích dữ dội vào các vị trí của họ, dân quân Việt Nam đă pḥng thủ một cách anh hùng các thị trấn biên giới then chốt tại Đồng Đăng, Cao Bằng, và Đồng Khê, khiến cho QĐGPNDTQ phải trả một giá đắt trước khi sau rốt chiếm cứ được chúng. Sau khi tái tập hợp từ các sự tổn thất nặng nề tại các trận đánh đó, QĐGPNDTQ đă khởi sự điều đối với nó là trận đánh quyết định của chiến dịch, trận đánh chiếm Lạng Sơn. Tác giả Harlan Jencks c̣n cung cấp sự tường thuật rơ ràng và cô đọng nhất về trận đánh đó:
Cuộc bao vây của Trung Quốc ở Lạng Sơn đă khởi sự hôm 27 Tháng Hai bằng một cuộc công kích của xe tăng và bộ binh, mở màn trước bằng một trận pháo kích ồ ạt vào cao điểm then chốt của Khấu Mă Sơn, phía bắc thành phố. Trong những ngày theo sau, các đơn vị QĐGPNDTQ tới cấp trung đoàn đă tiến quân quanh các cạnh sườn của Lạng Sơn, thường giao chiến vào buổi tối và ở tầm gần cận. Cuộc tấn công vào Lạng Sơn đă bắt đầu hôm 2 Tháng Ba, trong khi trận đánh giành một số cao điểm chung quanh đang tiếp diễn. Ba ngày kế đó đă chứng kiến loại chiến đấu dữ tợn nhất, khi quân pḥng thủ di chuyển từng ngôi nhà một, từng căn hầm một, và từng đường hào một. “Sự thất thủ của Lạng Sơn” được tường thuật ngay từ ngày 27 Tháng Hai, và gần như hàng ngày sau đó. Tân Hoa Xă đă công bố một ảnh chụp xác nhận sự chiếm đoạt hôm 3 Tháng Ba, nhưng sự giao tranh c̣n tiếp tục trong hai ngày nữa. 67
Ngay sau khi sau rốt chiếm đoạt được Lạng Sơn hôm 5 Tháng Ba, Bắc Kinh đă tức thời loan báo rằng QĐGPNDTQ sẽ triệt thoái ra khỏi Việt Nam. Trong hai tuần kế đó nó đă làm đúng như thế, tuyên bố rằng đă dạy cho Việt Nam bài học chủ định của nó.
Phần lớn các nhà quan sát Tây Phương cảm thấy bài học ở đường hướng khác, và rằng QĐGPNDTQ đă không tự chứng tỏ ḿnh một cách mỹ măn trong cuộc giao tranh. Ngoài các vấn đề chiến thuật được nêu ra, sự chậm chạp của cuộc tấn công, và các số tổn thất này được tường thuật lên tới 25,000 người bị chết, các sự truyền tin giữa các đơn vị yếu kém, và trong nhiều trường hợp, QĐGPNDTQ đă dùng cờ để truyền tin giữa các trung đoàn. 68 Sự tiếp vận cũng bị trục trặc và đă hạn chế cuộc tiến quân của QĐGPNDTQ, khi các đơn vị chiến đấu đă phải phái lính bộ binh đi hàng chục dậm đường đến các căn cứ yểm trợ tại Trung Quốc hầu tái bổ sung thực phẩm căn bản và đạn dược. Việt Nam có tường thuật rằng QĐGPNDTQ c̣n dùng cả ngựa để di chuyển quân dụng băng ngang biên giới.
Tuy nhiên, QĐGPNDTQ có phô bày một vài sức mạnh. Thí dụ, nó đă biểu lộ một sự sẵn ḷng thúc đẩy cuộc tấn công bất kể các sự tổn thất nặng nề. Trong khi không chắc chắn về mặt chiến thuật, chiến lược tấn công với một tiểu đoàn nơi mà một đại đội bị thất bại, và với một trung đoàn nơi mà một tiểu đoàn bị thất bại, sau cùng đă dẫn đến sự chiếm đoạt năm tỉnh lỵ mục tiêu.
QĐGPNDTQ đă thành công trong việc tập trung pháo binh của nó để hỗ trợ cho cuộc tấn công vào các vị trí cố định. Trong khi bị hạn chế bởi các khó khăn về tiếp vận, pháo binh rơ ràng đă tạo ra một phần to lớn trong các số tổn thất của Việt Nam, được ước lượng có hơn 20,000 người bị chết.
QĐGPNDTQ cũng đă tiếp tục sử dụng chiến tranh chính trị một cách hữu hiệu, nổi bật nhất bằng việc trang bị vũ khí cho một số nhóm dân tộc ít người có truyền thống kháng cự lại nhà cầm quyền Việt Nam. Một số trong các người này bao gồm cả các người gốc Hoa đă từng chiến đấu chống lại Việt Minh trong Cuộc Chiến Tranh Đông Dương Thứ Nhất; nhưng phần lớn là dân miền núi đơn giản t́m cách duy tŕ các phương cách truyền thống của họ đối diện với sự xâm lấn văn hóa của Việt Nam. 69
Kết Cuộc
Trong lúc có cuộc triệt thoái của Trung Quốc, Đặng Tiểu B́nh có tuyên bố rằng QĐGPNDTQ đă có thể đi trọn con đường tới Hà Nội nếu nó muốn làm như thế. Các tướng lĩnh hàng đầu của QĐNDVN không đồng ư. Họ vạch ra rằng QĐGPNDTQ đă không thi hành nhiệm vụ tốt và rằng QĐNDVN, được ủng hộ bởi một dân chúng Việt Nam đă được động viên, sẽ giáng cho QĐGPNDTQ một sự thất trận nghiêm trọng nếu nó di chuyển sâu hơn xuống phía nam. Theo một tướng lĩnh cao cấp Việt Nam, Trung Quốc đă thua về mặt quân sự và đánh tháo lui vội vă: “Sau khi chúng tôi đă đánh bại họ, chúng tôi trải thảm đỏ cho họ rời khỏi Việt Nam”. 70
Phần lớn các tác giả Tây Phương đồng ư rằng Việt Nam trong thực tế đă giao chiến xuất sắc hơn QĐGPNDTQ trên chiến trường, nhưng nói rằng với sự chiếm đoạt được Lạng Sơn, QĐGPNDTQ đă cân nhắc về việc di chuyển vào địa h́nh thuận lợi hơn về mặt quân sự của Châu Thổ sông Hồng, và từ đó đến Hà Nội. 71 Các sĩ quan cao cấp QĐNVN tranh luận về sự xác quyết này. Họ vạch ra rằng Lạng Sơn cách biên giới Trung Quốc chưa đầy 20 cây số, nhưng đường xuống tới vùng Châu Thổ c̣n gấp đôi đoạn đường đó. Quốc Lộ số 1 từ Lạng Sơn xuôi nam chạy ngang qua một thung lũng được kẹp hai bên sườn bởi nhiều đồi núi cung cấp đầy cơ hội để phục kích. Một khi tới Châu Thổ, địa h́nh tiếp tục thích hợp cho sự pḥng thủ, với các tầm khai hỏa rộng mở cho quân pḥng thủ đàng sau các bờ đê ruộng với đầy đủ cây cối để ẩn náu. Hơn nữa, QĐGPNDTQ sẽ kéo dài một cách nguy hiểm các tuyến tiếp tế của nó bằng ngang một địa thế trong đó các lực lượng phi chính quy Việt Nam vẫn có thể phóng ra các cuộc tấn công nghiêm trọng, như đă được chứng tỏ bởi các cuộc đột kích của nó vào bên trong Trung Quốc trong trận đánh Lạng Sơn. Vả lại, ít nhất năm sư đoàn QĐNDVN vẫn c̣n đang ở tư thế sẵn sàng phản công tại vùng Châu Thổ, và 30,000 binh sĩ QĐNDVN bổ túc từ Căm Bốt, cùng với vài trung đoàn từ Lào, đang di chuyển để hậu thuẫn cho chúng. Sau cùng, dân chúng Việt Nam đă được động viên cho một cuộc “chiến tranh nhân dân” kéo dài. 72
Trong bất kỳ trường hợp nào, sự triệt thoái các binh sĩ Trung Quốc ra khỏi Việt Nam vào cuối Tháng Ba đă mang lại cho Hà Nội một sự nhẹ nhơm đáng kể. Sự xây dựng các vị trí pḥng thủ tại và chung quanh thủ đô được chấm dứt, và sự tái xây dựng Lạng Sơn và các thị trấn khác bị phá hủy bởi quân xâm lược đă khởi sự. Sự triệt thoái cũng có nghĩa QĐGPNDTQ đă có thể tiếp tục duy tŕ áp lực trên Pol Pot, trong khi đám quân du kích lẩn trốn của ông ta, nhiều người trong số cán bộ của họ được huấn luyện bởi QĐNDVN tại trung tâm huấn luyện ở Ḥa B́nh, đă t́m cách vượt thoát mạng lưới của QĐNDVN quanh Phnom Penh và tiến vào một cuộc chiến tranh du kích kéo dài.
Tuy nhiên, sự triệt thoái của Trung Quốc đă không có nghĩa một sự chấm dứt cuộc xung đột biên giới. Trong thập niên kế đó, các đơn vị QĐNDVN, cùng với một lớp dân quân được tái huấn luyện và tái trang bị, bị buộc phải duy tŕ nhiều đến 800,000 người tại miền Bắc Việt Nam. Các cuộc chạm súng thường xuyên tiếp tục diễn ra dọc biên giới, điển h́nh đi kèm bởi một cuộc pháo kích của pháo binh, tuần cảnh, và các cuộc tấn công nhỏ cách biên giới trong ṿng vài cây số. Đôi khi, việc nă trọng pháo của QĐGPNDTQ vào Việt Nam trở nên dữ dội, và một vài trận đánh quan trọng đă được giao tranh trong đó các đơn vị QĐGPNDTQ lớn đến cấp sư đoàn đă tham chiên. Trong phần lớn trường hợp, quân pḥng thủ Việt Nam đă t́m cách chống giữ các vị trí then chốt dọc biên giới, nhung các lực lượng QĐGPNDTQ đă có thể chiếm đoạt và nắm giữ trong một thời khoảng đáng kể ít nhất tám địa h́nh then chốt tại phía tây bắc của Hà Giang, gần con sông Lô lịch sử của Việt Nam chảy ngang qua Trung Quốc. 73
Các cuộc tấn công biên giới quan trọng của QĐGPNDTQ nói chung được ấn định thời điểm trùng hợp với hoạt động quân sự của Việt Nam tại Căm Bốt. Vào cuối năm 1983, và lập lại trong năm 1984 và 1985, khi các binh sĩ Việt Nam đẩy mạnh các cuộc tấn công của họ đánh quân Khmer Đỏ đang chạy trốn tại các vùng biên giới Thái Lan - Căm Bốt, các lực lượng QĐGPNDTQ đă lập lại các cuộc tấn công dọc biên giới phía bắc của Việt Nam. Trong mùa xuân 1984, và một lần nữa vào cuối năm đó, khi QĐNDVN đẩy mạnh các cuộc tấn công đánh vào các nơi ẩn náu của Khmer Đỏ ngay bên kia biên giới Thái Lan, QĐGPNDTQ đă phóng ra các cuộc tấn công nhiều sư đoàn được yểm trợ bởi hàng ngh́n quả đạn trọng pháo. Theo các nguồn tin Việt Nam, “Trung Quốc đă cảm thấy nó có thể đặt áp lực trên Việt Nam nhằm cấm chỉ áp lực của chúng tôi trên phe Khmer Đỏ, nhưng điều đó đă sai. Áp lực của Trung Quốc đă không đưa đến bất kỳ lợi thế nào cho phe Khmer Đỏ”. 74 Theo các nhà ngoại giao Việt Nam đă hồi hưu, Trung Quốc cũng vẫn đang t́m cách làm suy yếu QĐNDVN:
Trung Quốc tiếp tục chính sách thù nghịch của nó đối với Việt Nam từ 1979 đến 1990. QĐGPNDTQ đă phát động các cuộc tấn công nhỏ dọc theo biên giới và tạo ra các khó khăn trong một mưu toan làm suy yếu Việt Nam. Từ 1985 trờ đi, Việt Nam đă muốn b́nh thường hóa các quan hệ, nhưng đă chỉ thành công vào năm 1991, bởi v́ vào thời khoảng đó chúng tôi rút ra khỏi Căm Bốt, và bởi v́ Hoa Kỳ và khối ASEAN đă thay đổi chính sách. 75
Theo Bộ Ngoại Giao [Việt Nam], đă không có các sự trao đổi ở cấp cao cho đến năm 1989. 76
Trong năm 1989, chúng tôi bắt đầu các cuộc thuơng thảo ngoại giao về việc b́nh thường hóa các quan hệ. Trong Tháng Một 1989 chúng tôi đă khởi sự các cuộc đàm phán tại Bắc Kinh ở cấp thứ trưởng ngoại giao. Trong Tháng Mười Một 1991, Tổng Bí Thư và Bộ Trưởng Ngoại Giao Việt Nam đă đến Bắc Kinh. Các nhà lănh đạo của hai nước đă đồng ư đặt quá khứ ở phía sau họ và hướng nh́n về tương lai, và để cải thiện và b́nh thường hóa các quan hệ phù hợp với các quyền lợi của cả hai dân tộc, và để phát huy ḥa b́nh, hợp tác và phát triển.
Chỉ khi đó, sau khi Việt Nam đă rút các lực lượng của nó ra khỏi Căm Bốt, ḥa b́nh mới có thể khả hữu dọc biên giới phía bắc. 77
Nh́n Lại: Các Nguyên Nhân Tâm Lư Của Cuộc Xung Đột
Các Sự Khẳng Định Của Việt Nam Về Sự Độc Lập Hoàn Toàn
Trong năm 1975, Hà Nội đă ở trên cao độ. Nó đă đánh bại một cách thành công “quân ngụy” ở miền nam, và đang giương cao ngọn cờ thắng lợi của “độc lập và tự do” trên một xứ sở thông nhất. “Không ǵ quư hơn độc lập và tự do” đă là câu nói nổi tiếng của Hồ Chí Minh trên nóc các công thự và trên cửa miệng của các nhà lănh đạo Việt Nam trong thời kỳ ngay sau chiến tranh. 78 Các sĩ quan cao cấp QĐNDVN đă lập lại câu nói này trong năm 1999, nói thêm rằng “lịch sử của Việt Nam là một lịch sử của cuộc đấu tranh giành độc lập”. 79 Một tướng lĩnh Việt Nam cao cấp đă tóm lược một cách cô đọng lập trường của Việt Nam: “Trong mười ba cuộc chiến tranh chính yếu suốt ḍng lịch sử, chúng ta đă chặn đứng người Trung Hoa. Bằng chứng là chúng tôi vẫn c̣n ở đây sau hai ngh́n năm”. 80
Chống lại mọi điều bất lợi, Hà Nội đă đạt được “chính nghĩa” của nó. Sau khi đánh bại cả người Pháp lẫn người Mỹ, nó đă sẵn sàng để bắt đầu tái xây dựng nền kinh tế tả tơi của nó và đứng lên như một kiểu mẫu phát triển cho Thế Giới Thứ Ba. Nó đă không chịu đựng bất kỳ sự can thiệp nào từ Trung Quốc. 81 Tuy nhiên, trong sự nhiệt thành về vị thế mới của nó, Hà Nội đă không đánh giá đúng và giải tỏa được các sự nhậy cảm của Trung Quốc. “Trung Quốc đă quan ngại bởi v́ chúng tôi đă không phải quay trở lại với họ và khấu đầu (kow tow)”, một nhân vấn Việt Nam có nói. “Trung Quốc đă bán đứng Việt Nam tại Hội Nghị Geneva năm 1954, và đă điều đ́nh với Hoa Kỳ trong Cuộc Chiến Tranh chống Mỹ [tức Chiến Tranh Việt Nam] để cho phép dội bom Việt Nam Dân Chủ Công Ḥa (VNDCCH). Sau Chiến Tranh chống Mỹ, Trung Quốc chỉ t́m cách để tái khẳng quyết sự kiểm soát của nó và chúng tôi đă không nh́n nhận nó đúng lúc. Chúng tôi đă phạm các lỗi lầm trong đường hướng của chúng tôi đối với Trung Quốc”. 82
Các Quan Điểm Của Việt Nam Về Các Sự Kỳ Vọng Của Trung Quốc
Các nhận thức của Việt Nam về chính họ như một dân tộc, và đặc biệt trong vai tṛ mới của họ như một gương mẫu cho cuộc tranh đấu của các nước Thế Giới Thứ Ba giành độc lập và phát triển kinh tế, mâu thuẫn một cách rơ rệt với các quan điểm của Trung Quốc. Trước tiên, theo phía Việt Nam, Trung Quốc cảm thấy Việt Nam mắc nợ nó tiếp theo sau các năm có sự ủng hộ của Trung Quốc cho cuộc “cách mạng”. Trung Quốc đă trợ giúp cho phe Việt Minh luu vong, cung cấp các trang bị trọng yếu cho cuộc chiến thắng tại Điện Biên Phủ, đă cung cấp một “hậu cứ to lớn” cho việc huấn luyện và tiếp vận trong cả hai cuộc chiến tranh chống Pháp và Mỹ, và đă đóng góp các xe vận tải, các vũ khí nhỏ, và năm mươi ngh́n binh sĩ cho cuộc chiến tranh chống Mỹ. Có lẽ điều quan trọng nhất cho sự chiến thắng của Hà Nội là sự ủng hộ của Trung Quốc đă thuyết phục Hoa Thịnh Đốn rằng bất kỳ cuộc tấn công trên đất liền nào đánh vào Bắc Việt Nam sẽ đưa đến việc tham gia của các chí nguyện quân Trung Quốc vào cuộc chiến tranh. 83
Thứ nh́, Trung Quốc đă cảm thấy rằng Việt Nam phải tham khảo với Trung Quốc trên các vấn đề quốc pḥng và chính sách ngoại giao quan trọng. Theo một nhà nghiên cứu cao cấp tại Hà Nội, Trung Quốc đă muốn biến Việt Nam thành một thuộc địa và kiểm soát chính sách ngoại giao và quốc pḥng của Việt Nam. Điều này đặc biệt đúng khi liên quan đến Đông Nam Á, nơi mà Bắc Kinh đă nh́n vai tṛ tương lai của nó như lấp đầy khoảng trống được để lại bởi sự triệt thoái của Mỹ. Trong khi các sự căng thẳng song phương phát sinh với Việt Nam, Trung Quốc đă đóng vai tṛ “kẻ bảo vệ” cho các nước Đông Nam Á chống lại Việt Nam trong một nỗ lực làm gia tăng ảnh hưởng cấp vùng của nó. Theo phía Việt Nam, Trung Quốc đă muốn là không có quyết định quốc pḥng hay chính sách ngoại giao quan trọng nào sẽ được lấy mà không có sự tán đồng của Trung Quốc. 84
Thứ ba và quan trọng nhất, Bắc Kinh đă t́m cách tái khẳng quyết tham vọng đế quốc trong nhiều thế kỷ của nó để kiểm soát Việt Nam xuyên qua một mối quan hệ cha con kiểu Khổng học. Một sĩ quan cao cấp của QĐNDVN có trích dẫn một câu nói của một hoàng đế Trung Hoa về vấn đề này: “Trong ngôi nhà của chính bạn, bạn không thể vứt bỏ chính sách trừng trị các đưa con của chính bạn”. Tương tư, theo lời ông ta, “Bắc Kinh đă không thể bỏ sang một bên chính sách phóng ra chiến tranh đánh Việt Nam. Nó chỉ có vấn đề đánh như thế nào”. 85 Một viên chức Việt Nam khác nói rằng Trung Quốc có một cái nh́n từ lâu về Việt Nam như “một đứa con hỗn hào tại ranh giới phía nam của nó. Cuộc tấn công của nó đă t́m cách cưỡng hành các quan điểm Trung Quốc được ǵn giữ sâu đậm về chủ quyền của nó trên Việt Nam”. Trích dẫn một ngạn ngữ Trung Hoa cổ xưa, ông ta nói;” “Cơn lạnh lẽo của một ngày duy nhất không thể làm đông đặc một ḍng sông sâu ba bộ Anh (feet) (nói rơ hơn, Trung Quốc đă không thể trở nên thù nghịch với Việt Nam chỉ qua một đêm). 86
Các Bài Học Lĩnh Hội Được
Trong khi điều được công nhận một cách tổng quát rằng Việt Nam đă dạy cho Trung Quốc một bài học quân sự trong năm 1979, điều cũng đúng không kém là Trung Quốc đă dạy cho Việt Nam một bài học chính trị. Bài học đầu tiên mà Việt Nam học được là Trung Quốc sẽ sử dụng vũ lực khi cần thiết để đạt được các mục tiêu chính trị quan trọng, bất kể các lời tuyên bố trong quá khứ về nguyên tắc. Một viên chức Việt Nam đă giải thích bài học này như sau: “Bất kể ‘sự sông chung ḥa b́nh’, CHNDTQ sẽ lượng định t́nh h́nh, và khi ở vào đúng thời cơ, sẽ lợi dụng các cơ hội để tiến đánh cho các mục tiêu chính trị”. 87 Một viên chức khác đă bác bỏ bất kỳ khái niệm nào về một ư thức hệ chính trị chung của Trung Quốc – Việt Nam: “Lập trường ư thức hệ của Trung Quốc không có nghĩa ǵ cả. Trước khi có cuộc chiến, chúng tôi đă tin tưởng nơi chủ nghĩa quốc tế vô sản. Sau cuộc chiến, chúng tôi nhận thấy các quyền lợi quốc gia của Trung Quốc là trên hết. Chủ nghĩa quốc tế vô sản là một phần trong hành lư ư thức hệ của Việt Nam”. 88
Bài học thứ nh́ các viên chức Việt Nam lĩnh hội được rằng Trung Quốc nhiều phần sẽ chỉ viện dẫn đến vũ lực khi nó chắc chắn rằng nó sẽ không bị đánh bại và khi nó biết rằng QĐGPNDTQ sẽ không phải nhận các sự tổn thất nặng nề. Với các tiền lệ quân sự lịch sử khác, số ước lượng được trưng dẫn ttrước đây về 25,000 binh sĩ QĐGPNDTQ bị chết trong khi hoạt đông có thể có nghĩa ít nhất 50,000 người khác chịu tổn thương nghiêm trọng, cho một tổng số 75,000 tổn thất trên một lực lượng xâm lăng khoảng 100,000 quân. Trung Quốc chắc chắn lấy làm kinh ngạc về các sự tổn thất mà nó phải gánh chịu ở Việt Nam, và có thể đă lùi lại khỏi các cuộc tấn công thêm nữa ít nhất một phần nhằm tránh các sự tổn thất bổ túc.
Thứ ba, Trung Quốc nhiều phần sẽ chỉ sử dụng vũ lực khi nó nhân thấy t́nh trạng đă hoàn toàn chín mùi. Điều này đ̣i hỏi sự phân tích t́nh h́nh quốc tế liên hệ -- cuộc tấn công năm 1979 được phán đoán là thuận lợi bởi Bắc Kinh đă ước tính rằng LBSV sẽ không can thiệp và QĐNDVN bị buộc chân tại một mặt trận thứ nh́ ở Căm Bốt. Sự phân tích của Trung Quốc trải rộng cho đến sự ấn định thời biểu chính xác của cuộc tấn công: nó sẽ theo sau sự b́nh thường hóa với Hoa Kỳ nhưng đi trước các trận mưa to theo gió mùa đổ xuống miền bắc Việt Nam bắt đầu trong mùa xuân.
Thứ tư, phía Việt Nam bị phân hóa về việc QĐGPNDTQ đă hoạch định và chuẩn bị cuộc tấn công năm 1979 trong bao lâu. Các vị chỉ huy quân đội có khuynh hướng tin tưởng rằng Trung Quốc đă không hoạch định cuộc tấn công từ rất lâu bởi một cách đơn giản QĐGPNDTQ thật là quá thiếu chuẩn bị để chiến đấu. Tuy nhiên, các nguồn tin ngoại giao nhấn mạnh rằng cuộc tấn công có mưu tính trước. Một cựu viên chức ngoại giao Việt Nam cao cấp có nói “chúng tôi giờ đây hay biết họ đă chuẩn bị tấn công chúng tôi trong một thời gian dài, tương tự như tất cả các cuộc chiến tranh khác mà Trung Quốc đă tham dự ngoại trừ tại Triều Tiên. Trong tất cả các cuộc chiến tranh khác – Triều Tiên, Tây Tạng, Ấn Độ, LBSV, chống lại người Mỹ tại Việt Nam - chỉ có Triều Tiên là không được hoạch định trước”. 89 Chính v́ thế, trong khi bài học cho giới quân sự là một cuộc tấn công có thể xảy ra đột ngột, các nhà ngoại giao nh́n thấy một thời kỳ đáng kể của sự chuẩn bị cần thiết trong đó họ có thể kỳ vọng để nh́n thấy các sự cảnh báo chính trị.
Thứ năm, mọi người Việt Nam đều đồng ư rằng viễn ảnh một sự kháng chiến mạnh mẽ của Việt Nam đă là yếu tố giới hạn trong cuộc tấn công của Trung Quốc. Việt Nam hứa hẹn sẽ giao chiến đến cùng. “Các cha ông chúng tôi, chỉ dùng cung tên, các con voi, các con ngựa, dao và kiếm, đă đập tan nhiều đội quân của các kẻ xâm lược thuộc nhà Nam Hán, nhà Tống, Nguyên-Mông, và nhà Thanh Măn Châu. Giờ đây [1979] QĐNDVN với các vũ khí tương đối hiện đại chắc chắn sẽ đánh bại các kẻ bành trướng Đại Hán tại Bắc Kinh”. 90
Thứ sáu, Việt Nam lĩnh hội được là đừng ỷ vào các đại cường. Trong khi ca ngợi sự trợ giúp của Sô Viết vào lúc đó, Việt Nam rơ ràng đă thất vọng về mức độ của các sự trợ giúp như thế. Một cựu viên chức chính phủ có nói thông điệp mà Trung Quốc t́m cách chuyển đi là: “Chúng tao có thể trừng phạt mày bất kỳ khi nào, ngay cả khi mày liên minh với một đại cường. Mày không thể chạy trốn được tư thế địa chính trị của mày như một nước triều cống”. 91
Thứ bảy, đối với nhiều người Việt Nam, bài học chính yếu của năm 1979 là Trung Quốc sẽ không cho phép sự độc lập hoàn toàn của Việt Nam. “Thái độ của Trung Quốc, như được phản ảnh trong “việc dạy cho Việt Nam một bài học”, có gốc rễ trong văn hóa chính trị Trung Quốc của mối quan hệ của Vương Quốc Trung Tâm với các nước triều cống. Loại bài học mà Trung Quốc đă t́m cách để truyền đạt là “ mày không thực sự độc lập”. 92
Sau cùng, mọi người Việt Nam đều đồng ư rằng việc đối phó với Trung Quốc sẽ là vấn đề khó khăn nhất đối diện dân tộc họ trong thế kỷ thứ hai mươi mốt: “Chúng tôi đă phải giao tranh mười ba cuộc chiến tranh lớn với Trung Quốc trong lịch sử chúng tôi. Tổ tiên chúng tôi đă biết cách chống trả Trung Quốc và chúng tôi phải chuẩn bị giống như thế. Tổ tiên chúng tôi cũng đă phải thực hiện các biện pháp để loại trừ chiến tranh, và chúng tôi phải có các biện pháp tương tự trong tương lai”. 93 Và, “Chúng tôi phải học để sống với lân bang to lớn của chúng tôi. Chúng tôi giờ đây có một mối quan hệ nhiều mặt với Trung Quốc, và đă tăng cường mọi khía khía cạnh của các quan hệ của chúng tôi. Chính sách của chúng tôi là t́m các phương cách để sống chung với Trung Quốc” [sic]. 94
__
CHÚ THÍCH
1. “He who sows the wind will reap the whirlwind” [“Kẻ gieo gió sẽ gặt băo”], Quân Đội Nhân Dân, từ giờ trở đi viết tắt là QĐND, Hà Nội, Việt Nam Thông Tấn Xă (Viêtnam News Agency: VNA), 18 Tháng Hai, 1979, như được tường thuật trong bản tin của Foreign Broadcast Information Service (Sở Thông Tin Đài Phát Thanh Ngoại Quốc), Washington D. C., (từ giờ trở đi viết tắt là FBIS), các trang K25, K28.
2. Đúng thực có cả hàng ngh́n quyển sách và bài viết đề cập đến các biến cố này; quyển The Two Vietnams: A Political and Military Analysis (New York: Praeger, 1967) của Bernard Fall và quyển The Lost Crusade: America in Vietnam của Chester Cooper (New York: Dodd, Mead, 1970) vẫn nổi bật trong số các tác phẩm hay nhất. Các phi công Hoa Kỳ bị cấm không được dội bom trong ṿng hai mươi lăm dậm của biên giới Trung Quốc; các cuộc thảo luận của tác giả với các phi công của Hải Quân Hoa Kỳ và Không Quân Hoa Kỳ.
3. Người ta có thể lập luận rằng chiến tranh Hoa Kỳ bắt đầu với sự du nhập các đơn vị chiến đấu Mỹ trong năm 1965 và kết thúc với sự triệt thoái chúng vào năm 1973. Tuy nhiên, thời khoảng được lựa chọn ở đây đi theo điều được t́m thấy trên Bức Tường Tưởng Niệm Chiến Tranh Việt Nam tại Hoa Thịnh Đốn. Nó bao gồm thời kỳ cố vấn trước năm 1965 và một thời kỳ ủng hộ về quân dụng và kỹ thuật của Hoa Kỳ sau các Hiệp Định Paris năm 1973.
4. Phỏng vấn với nhà nghiên cứu cao cấp và một cựu đại sứ Việt Nam, Hà Nội, 1999 (từ giờ trở đi, viết tắt là cựu đại sứ Việt Nam).
5. Muốn có một cuộc thảo luận về “Bản Chúc Thư Cuối Cùng” của Hồ Chí Minh, xem Thái Quang Trung, Collective Leadership and Factionalism: An Essay on Ho Chi Minh’s Legacy (Singapire: Institute of Southeast Asian Studies, 1985).
6. Cựu đại sứ Việt Nam.
7. Cùng nơi dẫn trên.
8. Phỏng vấn với các nhà nghiên cứu cao câp, Bộ Ngoại Giao (BNG), Hà Nội, 1999 (từ giờ trở đi viết tắt là các nhà nghiên cứu cao cấp (BNG).
9. Phỏng vấn với các thượng tá của Quân Đội Nhân Dân Việt Nam, Hà Nội, 1999 (từ giờ trở đi viết tắt là các thượng tá QĐNDVN).
10. Phỏng vấn với cựu nhân viên ngoại giao Việt Nam cao cấp, Hà Nội, 1999 (từ giờ trở đị gọi tắt là nhân viên ngoại giao cao cấp). Các cuộc tấn công vào các làng xă Việt Nam dọc theo biên giới được kiện chứng rất đầy đủ bởi tác giả Nayan Chanda trong quyển sách tuyệt hảo của ông ta, Brother Enemy: The War After The War (San Diego: Harcourt Brace Jovanovich, 1986).
11. Phỏng vấn với các nhà nghiên cứu cao cấp, Học Viện Quan Hệ Quốc Tế (HVQHQT), Hà Nội, 1999 (từ giờ trở đi, viết tắt là HVQHQT).
12. Phía Việt Nam đề cập đến chiến lược này là dang [đánh?] nam ra bắc, “đánh phương nam và đi ra phương bắc”, có nghĩa điều cần thiết trong suốt ḍng lịch sử là phải bảo toàn sườn phía nam của Việt Nam trước khi đối đầu với Trung Quốc.
13. Các Thượng Tá QĐNDVN.
14. Nhân viên ngoại giao cao cấp.
15. Các Thượng Tá QĐNDVN.
16. Các nhà nghiên cứu cao cấp, HVQHQT.
17. Nhân viên ngoại giao cao cấp; sự giải thich này mâu thuẫn với quan điểm quân sự cao cấp rằng QĐGPNDTQ lo sợ các đơn vị QĐNDVN ưu tú đă là lư do áp đảo khiến cho QĐGPNDTQ không tiến sâu hơn vào Việt Nam.
18. Cùng nơi dẫn trên.
19. Các nhà nghiên cứu cao cấp, BNG.
20. Phỏng vấn với cựu nhân viên ngoại giao cao cấp và các sĩ quan cao cấp QĐNDVN, 1999. Các lời b́nh luận này dĩ nhiên đă bỏ quên một cách thuận tiện sự đề cập đến các khó khăn biên giới nghiêm trọng chưa được giải quyết của Trung Quốc vào lúc đó với LBSV.
21. Phỏng vấn với tướng lĩnh QĐNDVN, Hà Nội, 1999 (từ giờ trở đi, gọi tắt là tướng lĩnh QĐNDVN).
22. Phỏng vấn với các phụ khảo của Bộ Ngoại Giao, Hà Nội, 1999. Các nhà nghiên cứu Việt Nam nhấn mạnh nhiều lần nhu cầu về kỹ thuật và tư bản như động lực chính yếu của Trung Quốc trong việc t́m kiếm sự ḥa hoăn với Hoa Kỳ.
23. Các Thượng Tá QĐNDVN và tướng lĩnh QĐNDVN. Henry Kissinger được nói có nhận xét: “Chúng ta sắp được nh́n các Anh Em Đỏ đánh nhau”.
24. Các sĩ quan cao cấp QĐNDVN, 1999.
25. Các nhà nghiên cứu Việt Nam và cựu đại sứ Việt Nam. Trung Quốc đă sẵn chiếm cứ phần phía đông của Quần Đảo Hoàng Sa, nhưng trong năm 1974 đă đanh đuổi binh sĩ Nam Việt Nam ra khỏi phân nửa phía tây của quần đảo.
26. Phỏng vấn với các cựu viên chức và các viên chức tại chức của Bộ Ngoại Giao, Hà Nội, 1999.
27. Các viên chức Bộ Ngoại Giao, Hà Nội, 1999.
28. Các nhà nghiên cứu cao cấp, BNG.
29. Cựu đại sứ Việt Nam.
30. Các Thượng Tá QĐNDVN.
31. Các nhà nghiên cứu cao cấp, HVQHQT.
32. Đài Phát Thanh Hà Nội. “Các nhà cầm quyền Ngăn Cấm Các Bản Tường Thuật của Các Công Dân Về Chiến Tranh”, 21 Tháng Hai, 1979, FBIS, 21 Tháng Hai, trang K21.
33. Giác Thư Bộ Ngoại Giao Về Các Sự Thù Nghịch Của CHNDTQ, 14 Tháng Hai, 1979, FBIS, 15 Tháng Hai, trang K2.
34. Viên chức Bộ Ngoại Giao, Hà Nội, 1999.
35. Xem Chanda, Brother Enemy, 1986, các trang 231-47.
36. Các viên chức Bộ Ngoại Giao đă viện dẫn câu chuyện chuyến tàu như một thí dụ về sự can thiệp của Trung Quốc vào các công việc nội bộ của Việt Nam.
37. Pao-min Chang, The Sino-Vietnamese Territorial Dispute (New York: Praeger, 1986), các trang 11-12.
38. Các Thượng Tá QĐNDVN. Các sĩ quan QĐNDVN đă nhận xét một cách t́nh cờ rằng LBSV trợ lực việc xúi bẩy cuộc Chiến Tranh Triều Tiên nhằm tạo hố phân cách sâu xa giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc.
39. Cùng nơi dẫn trên; và Pao-min Chang, The Sino-Viêtnamese Territorial Dispute.
40. Nhân viên ngoại giao cao cấp.
41. Gặp gỡ với các viên chức Bộ Ngoại Giao tại Hà Nội, Tháng Mười 1993.
42. Viên chức Bộ Ngoại Giao, Hà Nội, 1999. Trong năm 1947, Trung Hoa đă vẽ đường chín vạch bỉ ổi trên bản đồ Biển Nam Hải của nó, để chỉ sự kiểm soát bất kỳ khu vực hải đảo nào được vây quanh trong đó.
43. Pao-min Chang, The Sino-Vietnamese Territorial Dispute.
44. Cùng nơi dẫn trên; và The Daily Telegraph, “Soviet Warships Heading for Cam Ranh Bay”, London, 9 Tháng Hai, 1979, FBIS, 9 Tháng Hai, trang K1.
45. Gặp gỡ với các chuyên viên Việt Nam về các vấn đề an ninh, Hà Nội, Tháng Một 1999.
46. Cùng nơi dẫn trên.
47. Đài Phát Thanh Hà Nội, 6, 9, và 14 Tháng Hai, 1979, FBIS, 7 Tháng Hai, trang K1, ngày 9 Tháng Hai, trang K9, và ngày 15 Tháng Hai, trang K1. Các sự việc bắt đầu gia tăng khi Hà Nội tiến xuống và sau đó đạt được thắng lợi tại Nam Việt Nam. Hà Nội đă tường thuật 179 vụ trong năm 1974, 294 vụ trong năm 1975, 812 vụ trong năm 1976, và 873 vụ trong năm 1977.
48. Thông Tấn Xă Việt Nam, 1 Tháng Hai, 1979.
49. Tướng lĩnh QĐNDVN.
50. Hà Nội, Thông Tấn Xă Việt Nam, “SRV Defies Economic ‘Trilateral’ Washington-Peking Axis”, và “QĐND Tố Cáo CHNDTQ về các sự vi phạm biên giới”, 1 Tháng Hai, 1979, FBIS, các trang K1-5.
51. Các Thượng Tá QĐNDVN; và Đài Phát Thanh Hà Nội, 6 Tháng Hai, 1979, FBIS, 7 Tháng Hai, trang K1.
52. Đài Phát Thanh Hà Nội, “Các Vụ Đột Nhập Vũ Trang của CHNDTQ được tường thuật”, 5 Tháng Hai, 1979, FBIS, trang K1. Các binh sĩ Trung Quốc đă dùng dao và ŕu để khai quang các khu rừng, hủy hoại thảo mộc, và tháo gỡ và di chuyển các cột mốc biên giới.
53. Đài Phát Thanh Hà Nội, 13 Tháng Hai, 1979 và Tuyên Bố Của Bộ Ngoại Giao, 14 Tháng Hai, 1979, như được tường thuật trong FBIS, trang K1.
54. Đài Phát Thanh Hà Nội, “Các Nhà Cầm Quyền Bắc Kinh Đang Gia Tăng Khiêu Khích và Đe Dọa Chiến Tranh”, 13 Tháng Hai, 1979, FBIS, trang K4.
55. Tướng lĩnh QĐNDVN.
56. Trích dẫn đầu tiên từ một nhà nghiên cứu Việt Nam tại Học Viện Quan Hệ Quốc Tế, trích dẫn thứ nh́ từ một viên chức của Bộ Ngoại Giao, Tháng Một, 1979.
57. Sự tin tưởng này rất có thể phát sinh từ các cảm nghĩ của Hà Nội về phong trào phản chiến mạnh mẽ tại Hoa Kỳ trong thời gian Chiến Tranh Việt Nam, Tướng lĩnh QĐNDVN.
58. David Bonovia, Far Eastern Economic Review (FEER), (9 Tháng Ba, 1979). 12.
59. Harlan W. Jencks, “China’s ‘Punitive’ War on Vietnam: A Military Assessment”, Asian Survey 19 (August 1979), 807, và Russell Spurr, FEER, “Holding Back the Angry Giant” (9 Tháng Ba, 1979), 14-15.
60. Đài Phát Thanh Hà Nội, 14 Tháng Hai, 1979, FBIS, 15 Tháng Hai, trang K2.
61. Russell Spurr, FEER (2 Tháng Ba, 1979), 10. Cũng xem King C. Chen, China’s War with Vietnam, 1979: Issues, Decisions and Implications (Stanford: Hoover Institution Press, 1987).
62. Guang Jiao Jing, Hong Kong, số 78, 16 Tháng Ba, 1979 (như được tham chiếu trong bài của tác giả Jencks, “China’s War with Vietnam”, các trang 807-8, có trích dẫn một con số là 80,000, nhưng tác giả Nayan Chanda, viết trong tờ FEER một tuần sáu đó, trích dẫn sự phân tích t́nh báo Tây Phương khi ước lượng con số là 125,000 người. Cũng xem, Bonovia, FEER (9 Tháng Ba, 1979), 12.
63. Cựu đại sứ Việt Nam.
64. Phỏng vấn với Đại Tá Edward O’Dowd, cựu Tùy Viên Quân Sự, Ṭa Đại Sứ Mỹ tại Hà Nội, 1999, và với các sĩ quan Việt Nam và Pháp đă đánh lẫn nhau trên địa h́nh này trong cuộc Chiến Tranh Đông Dương Thứ Nhất, 1946-54. Cũng xem, B. P. Mahony, Nha T́nh Báo Cảnh Sát Liên Bang Úc Đại Lợi, “Sino-Vietnamese Security Issues: Second Lesson Versus Stalemate”, 12 Tháng Năm, 1986.
65. Các Thượng Tá QĐNDVN.
66. Phỏng vấn với tướng lĩnh QĐNDVN đă hiện diện tại trận đánh, Hà Nội, 1999.
67. Jencks, “China’s War on Vietnam”, trang 811.
68. Phỏng vấn với các thông tín viên Nhật Bản, hăng thông tấn Kyodo News và tờ Asahi Shimbun, Tháng Tư, 1979. Các con số tổn thất từ cả hai bên đáng ngờ vực, nhưng các quan sát viên Tây Phương nói chung đồng ư rằng QĐGPNDTQ đă có khoảng 20,000 đến 30,000 người bị chết. Trong một luận án tiến sĩ được kiện chứng một cách kỹ lưỡng, tác giả Paul Marks có ước lượng số quân nhân bị chết trong khi hoạt động của QĐGPNDTQ là 26,000 người. Paul Marks, “The Sino-Vietnamese War of 1979 and China’s Military Modernization” (Luận án tiến sĩ chưa được ấn hành, Far East Department, School of Oriental and African Studies, University of London, 30 Tháng Chín, 1988).
69. Các tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn gồm nhiều người Nùng. Nhóm chủng tộc Trung Hoa [sic] này trước tiên đă đánh nhau với Việt Minh và sau đó một số người Nùng đă chạy trốn trong năm 1954 xuống Miền Nam Việt Nam nơi họ sau này đă phục vụ sát cánh với Lực Lượng Đặc Biệt và Lực Lượng tinh nhuệ Delta Force của Lục Quân Hoa Kỳ. Nhiều quân nhân chuyên nghiệp đă xem họ là những chiến sĩ giỏi giang nhất của cuộc chiến.
70. Các Thượng Tá QĐNDVN; tướng lĩnh QĐNDVN.
71. Thí dụ, tác giả Jencks đă viết rằng sự chiếm đoạt Lạng Sơn đă mở con đường tiến vào Châu Thổ Sông Hồng (“China’s War on Vietnam”, trang 813), nhưng ông thừa nhận rằng QĐGPNDTQ sẽ phải nhận lănh các sự tổn thất khổng lồ trong bất kỳ sự chuyển động nào tới Hà Nội. Muốn có sự lượng giá hơn nữa về đề tài này, xem Ann Gilkes, The Breakdown of the Sino-Vietnamese Alliance, 1970-1979 (Berkeley: Institute of East Asian Studies, University of California, 1992), và Douglas Pike, Vietnam and China (Lubbock, TX|: Vietnam Center, Texas Tech University, 1998).
72. Phỏng vấn với tướng lănh và nhân viên cao cấp của QĐNDVN, Hà Nội, 1999. Cũng xem Russell Spurr, FEER, 2 Tháng Ba, 1979, trang 10. 30,000 binh sĩ QĐNDVN được tường thuật đă được không vận từ Căm Bốt lên vùng Châu Thổ miền bắc trong khi nhiều trung đoàn QĐNDVN di chuyển từ Lào vào tỉnh Lào Cai; AFP, Hông Kông, 23 Tháng Hai, 1979.
73. Tác giả B. P. Mahony có một sự phân tích tuyệt hảo về các trận đánh này trong bài “Sino-Vietnamese Security Issues: Second Lesson Versus Stalemate”. Địa thế Sông Lô trong các truyền kỳ nổi tiếng của Việt Nam, như được thấy, thí dụ, trong tác phẩm Ai Biết Sông Lô.
74. Phỏng vấn với tướng lĩnh Việt Nam cao cấp, Hà Nội, 1999. Tác giả đă ở Hà Nội trong năm 1984 và có thể chứng thực rằng sự lưu thông xe chở hàng duy nhất trong thành phố là của quân đội, hoặc hướng đên hay trở về từ mặt trận phương bắc.
75. Cựu đại sứ Việt Nam.
76. Phỏng vấn vơi viên chức ngoại giao cao cấp của Bộ Ngoại Giao, Hà Nội, 1999.
77. Từ 1989 đến 1991, có các sự tường thuật rằng vài trăm “cố vấn” Việt Nam vẫn c̣n ở lại tại Căm Bốt. Cũng có ít cuộc tấn công riêng rẽ của QĐGPNDTQ dọc theo biên giới phía bắc cho đến 1991.
78. Các nhận xét của tác giả từ các buổi gặp mặt với Thủ Tướng Phạm Văn Đồng, Bộ Trưởng Ngoại Giao Trường Trinh [? Nguyễn Duy Trinh], và các viên chức khác của chính phủ Việt Nam tại Hà Nội, Tháng Mười Hai, 1975.
79. Các thượng tá QĐNDVN.
80. Cùng nơi dẫn trên.
81. Không cần để giải thích từ ngữ “can thiệp: interference”. Hồ Chí Minh đă mô tả nó một cách giản dị trong quyết định của ông ta không chấp nhận các chí nguyện quân Trung Hoa trong cuộc chiến tranh Đông Dương Thứ Nhất: “Thà rằng ngửi phân Pháp trong ít năm c̣n hơn cứt Tàu trong nhiều thế hệ”, phỏng vấn của tác giả với các viên chức chính phủ, Hà Nội, 1975. Tầm quan trọng của “chính nghĩa: just cause” như động lực thúc đẩy của Hà Nội trong Cuộc Chiến Tranh Với Mỹ không thể bị nhấn mạnh một cách thái quá. Các từ ngữ [just cause] là sự phiên dịch từ ngữ Việt Nam chính nghĩa, có nghĩa “ư nghĩa vĩ đại của cuộc sống: the great meaning of life” [sic, sự giải thích có phần chưa được chính xác, chú của người dịch]. Thực hiện được một Việt Nam độc lập, thống nhất chính là chính nghĩa này.
82. Các nhà nghiên cứu cao cấp, HVQHQT. Dĩ nhiên, Trung Quốc đă có các lư do bổ túc cho sự ủng hộ của nó một Việt Nam bị phân chia trong năm 1954, bao gồm đường lối chính sách của nó về sự chung sống ḥa b́nh và quan ngại về sự can thiệp của Hoa Kỳ tại Việt Nam.
83. Theo cựu Thủ Tướng Nam Việt Nam Nguyễn Cao Kỳ, việc này đă quyết định số phận của Nam Việt Nam. Ông đă so sánh cuộc chiến tranh với một trận đấu banh bầu dục (football) trong đó bên Hoa Thịnh Đốn – Sàig̣n không được phép vượt qua lằn ranh năm mươi thước Anh (yards). Các cuộc thảo luận tại West Point, New York, 1972.
84. Phỏng vấn với một nhà nghiên cứu cao cấp và một viên chức của Bộ Ngoại Giao, Hà Nội, Tháng Một, 1999.
85. Sĩ quan cao cấp QĐNDVN.
86. Phỏng vấn với viên chức cao cấp thuộc Bộ Ngoại Giao, Hà Nội, 1999.
87. Các nhà nghiên cứu cao cấp, BNG.
88. Cùng nơi dẫn trên.
89. Cựu đại sứ Việt Nam.
90. QĐND, “Cương Quyết Đánh Bại Cuộc Chiến Tranh Xâm Lược Phát Động Bởi Bọn Bành Trướng Bắc Kinh”, 17 Tháng Hai, 1979, FBIS, 18 Tháng Hai, trang K13. Cũng xem, Đài Phát Thanh Hà Nội, 23 Tháng Hai, 1979, FBIS, 23 Tháng Hai, trang K8.
91. Cựu đại sứ Việt Nam.
92. Các nhà nghiên cứu cao cấp, HVQHQT.
93. Cùng nơi dẫn trên.
94. Tướng lĩnh QĐNDVN./-
____
Nguồn: Henry J. Kenny, Vietnamese Perceptions of the 1979 War with China, Chinese Warfighting: The PLA Experience Since 1949, đồng biên tập bởi Mark A. Ryan, David Michael Frakelstein, Michael A. McDevitt, Chapter 10, các trang 217-241.
Ngô Bắc dịch và phụ chú
24.12.2012
http://www.gio-o.com/NgoBac.html
© gio-o.com 2012