C. P. FITZGERALD
SỰ BÀNH TRƯỚNG CỦA TRUNG HOA
TRÊN ĐẤT LIỀN: TRƯỜNG HỢP VÂN NAM
Ngô Bắc dịch
Lời Người Dịch:
Đây là bản dịch bài viết thứ Ba trong loạt bài có chủ đề Sự Bành Trướng CủaTrung Hoa Xuống Phương Nam của cùng tác giả C. P. FitzGerald:
1. Sự Bành Trướng Trên Đất Liền Của Trung Hoa: Trường Hợp Vân Nam
2. Sự Bành Trướng Trên Đất Liền Của Trung Hoa: Trường Hợp Việt Nam
3. Các Viễn Ảnh Về Sự Bành Trướng Xuống Phương Nam Của Trung Hoa.
***
Vân Nam, một trong các tỉnh nằm ở góc xa nhất phía tây nam của Trung Hoa, đă là một phần liên hợp của Đế Quốc và Cộng Ḥa sau này kể từ giữa thế kỷ thứ mười ba, khi nó bị chinh phục bởi quân Mông Cổ, vào lúc đó đang cai ttrị phần lớn lănh thổ Trung Hoa. Thế kỷ thứ mười ba trong lịch sử Trung Hoa gần như thời kỳ hiện đại, chắc chắn không phải là một giai đọan quá cổ xưa. Bởi mười lăm thế kỷ trước khi có cuộc chinh phục của Mông Cổ tại Trung Hoa, Vân Nam đă không được biết đến như một tỉnh, mà như một vị trí của một vương quốc xa lạ và thường đối nghịch. Danh xưng Vân Nam được đặt ra lần đầu tiên hồi thế kỷ thứ ba sau Công Nguyên khi triều đại phía tây, nhà Thục Hán (Shu Han), một trong ba nước thời Tam Quốc, đă áp đặt quyền chủ tể ngắn ngủi trên một vài phần của xứ sở này. Vân Nam có nghĩa “Phía Nam Của Các Đám Mây”, và cái tên mang nhiều chất thơ này thực sự mô tả đặc tính khí hậu của nước này. Cao nguyên của Vân Nam, ở phía tây có cao độ 7,000 bộ Anh (feet), đổ dốc theo hướng đông nam xuống c̣n khoảng 4,000 bộ Anh, thực sự là nằm ở phía nam của các đám mây, các tỉnh nhiều mây giăng ẩm ướt của Tứ Xuyên và Quư Châu. Tục ngữ có câu nói về tỉnh thứ nhất không mấy tốt “các con chó của Tứ Xuyên sủa lên khi mặt trời rọi sáng”, ám chỉ sự hiếm hoi của hiện tượng này. Về tỉnh thứ nh́, Quư Châu, tục ngữ nói “Quư Châu không bao giờ có ba ngày khí hậu tốt (liền nhau)” – và bổ túc thêm rằng nó không bao giờ có khoảng đất bằng dài ba dặm [li, tiếng Hán trong nguyên bản, ND] hay ba đồng tiền bạc, với âm điệu theo vần trong tiếng Hán. ( “Kueichou mei yu san t’ien ch’ing, san li p’ing, san k’uai yin.”). Nhưng tại Vân Nam khí hậu th́ khô và ấm, thời tiết nhiệt đới của nó được ôn ḥa nhờ cao độ, mùa đông khô ráo kéo dài được đền bù bởi các gịng suối và sông luôn luôn tràn trề chảy xuống từ các rặng núi cao của nó.
Các rặng núi vĩ đại ôm sát cạnh sườn của cao nguyên này, từ bắc xuống nam, chia xứ sở tại bên phía tây thành các thung lũng hẹp và sâu, và tại bên phía đông thành các thung lũng rộng hơn, mở ngỏ thoáng hơn, gồm chứa các hồ nước lớn, hay được tạo thành từ đáy các hồ mà nước đă rút đi. Về hướng tây bắc núi vươn cao tới 20,000 bộ Anh, giảm dần khi chúng xuôi nam, xuống c̣n ít hơn phân nửa cao độ đó. Nhưng các ngọn núi hiếm khi cao hơn cao nguyên dưới bốn hay năm ngh́n bộ Anh tại bất kỳ khu vực nào. Các ngọn núi th́ dốc và tại nhiều nơi c̣n bị rừng rậm bao phủ, không thích hợp cho việc canh tác; các cao nguyên và các thung lũng là các vùng đất phong phú được tưới nước rất tốt trong mọi mùa, không bao giờ sợ gặp nạn hạn hán, và thường cũng tránh được nguy cơ bị lụt. Đó là một đất nước được sắp đặt bởi thiên nhiên để ưu đăi cho sự định cư nặng tính chất địa phương của các dân tộc canh nông bị ngăn cách, bởi các rặng núi cao không người ở, với các láng giềng gần cận nhất. Điều này trong thực tế là lịch sử chủng tộc của Vân Nam, một lich sử của sự chia cắt manh múng, không phải chỉ thành các nhóm chủng tộc khác biệt tại các thung lũng khác nhau, mà cũng c̣n giữa một dân tộc trên các vùng đất tốt với các dân tộc kém tiến bộ hơn ở các rặng núi trên cao so với họ. Chính bởi thế đă luôn luôn có, và hăy c̣n kéo dài đến nay, các sự phân chia theo hàng dọc cũng như hàng ngang trong các cư dân của Vân Nam. Những dân tộc mạnh hơn chiếm cứ các thung lũng trồng lúa gạo, kẻ yếu hơn bị đẩy lên trên núi, rất thường lại xua đuổi các dân tộc sơ khai hơn nữa lên đến các mức độ cao nhất. Các sắc dân sinh sống bằng săn bắn và thu lượm thực phẩm có thể sống sót ở đó, bởi có đầy thú để săn bắn. Dưới thấp hơn, kiểu canh tác “chặt cây rồi đốt rẫy, làm hủy hoại các khu rừng, được thực hành rộng răi. Bằng chứng về các tầng lớp c̣n lưu tồn của các dân tộc biến đổi, rất khác biệt về văn hóa, ngôn ngữ và lối sống, cho thấy người Trung Hoa không thể nào là các kẻ xâm lăng đầu tiên đến chiếm chỗ các kẻ canh tác tại các thung lũng và bờ hồ màu mỡ.
Vân Nam đă nhiều lần bị xâm lăng, và chiếm ngụ, một phần hay trên một quy mô rộng lớn bởi các dân mới tới. Nguồn gốc của các sự di chuyển thời tiền lịch sử này và các dân tộc cấu thành họ không thể bị khám phá, và khảo cổ học vẫn chưa chiếu rọi ít ánh sáng nào về thời tiền sử của Vân Nam. Ít nhất có thể nói rằng các con đường theo đó họ phải đi qua có thể phỏng đoán được, nếu không phải chỉ v́ có quá ít con đường khả dĩ thông lưu. Một số dân tộc đă xuống từ cao nguyên Tây Tạng, vẫn c̣n cao hơn cao nguyên Vân Nam, bởi vùng thung lũng cao của sông Dương Tử và thượng lưu sông Cửu Long, các con đường hiện vẫn c̣n được sử dụng như các xa lộ từ Vân Nam sang Tây Tạng. Các ngọn đèo th́ cao, các thung lũng thường rất hẹp, và các con sông nhiều đá ngầm và chảy thật xiết khiến không thể hải hành. Các con đường như thế chỉ có thể được sử dụng với sự chấp thuận của các cư dân vùng thung lũng, bởi chúng dễ dàng bị phong tỏa. Rất nhiều phần rằng sự thẩm nhập chứ không phải là xâm lăng đă là khuôn mẫu của sự di chuyển từ phương bắc vào Vân Nam. Về phía đông bắc một con đường hơi dề dàng hơn dẫn tới Vân Nam từ miền tây của Tứ Xuyên, thành phố Suifu trên thượng lưu sông Dương Tử đă là điểm khởi hành. Tuy thế, con đường này, như không thể tránh khỏi đối với bất kỳ hành tŕnh nào tại Vân Nam, băng qua nhiêu rặng núi cao, chính yếu xuyên ngang cao nguyên. Nó vẫn c̣n được sử dụng trên một tầm mức lớn bởi các đoàn lữ hành bằng la và lừa, vận tải lụa Tứ Xuyên sang Miến Điện và từ đó, bằng tàu chạy bằng hơi nước trên sông và hành lang trên biển đến Calcutta, măi cho tới thời Thế Chiến Thứ Nh́. Con đường đoàn lữ hành đi từ Suifu đến Bhamo trên sông Irrawaddy [Miến Diện, ND] dài hơn sáu trăm dặm. Con đường này là con đường mà nhiều đạo quân đă đi qua, đặc biệt trong các thế kỷ trước đó khi mà Quư Châu chưa được b́nh định.
Con đường rơ rệt nhất, từ điểm giới hạn hải hành trên các con sông thuộc phía tây tỉnh Hồ Nam, các con sông là phụ lưu của sông Dương Tử, là con đường chạy ngang qua tỉnh Quư Châu. Các rặng núi ở đây thấp, mặc dù gồ ghề; rặng núi giáp ranh với Vân Nam lại là rặng cao nhất. Trong hồi cuối thời đế chính (triều đại Măn Châu), đây là con đường chính từ Bắc Kinh đến Vân Nam. Cũng chính do con đường này mà hoàng đế Vĩnh Lạc nhà Minh đă có các phiến đá cẩm thạch to lớn, vẫn c̣n tô điểm cho các bậc thang của Cấm Thành, được kéo hàng trăm dậm băng ngang núi đồi và thung lũng cho đến khi chúng được thả thành bè tại miền tây Hồ Nam và đến Bắc Kinh qua ngả sông Dương Tử và Đại Vận Hà (Grand Canal), một khoảng cách hơn ba ngh́n dặm một chút. Trong các thời trước đây, con đường Quư Châu ít được sử dụng hơn, bởi v́ tỉnh vẫn chưa được b́nh định và vẫn c̣n bị chia cắt bởi các nhóm thị tộc đối nghịch nhau cho đến khi các hoàng đế nhà Minh chinh phục nó vào hồi đầu thế kỷ thứ mười tám. Ít trực tiếp hơn, mặc dù quan trọng cho một vài ngành mậu dịch, là con đường từ điểm giới hạn hải hành trên sông Tây Giang (West River) (chảy ra biển ở phía dưới Thành Phố Quảng Châu (Canton), xuyên qua miền tây bắc của tỉnh Quảng Tây và sau đó băng ngang cao nguyên Vân Nam để đến Côn Minh (K’unming), tỉnh lỵ. Đây là con đường nối liền Vân Nam với miền nam Trung Hoa, không phải với các tỉnh miền bắc nơi mà từ đó thẩm quyền, các đội quân và quyền lực thường được phóng ra.
Rất ít, nếu có, ḍng sông nào của Vân Nam là lối đi cho du lịch hay mậu dịch, và không có ḍng sông nào có thể hải hành trong biên giới của tỉnh. Tại phía tây, ba con sông vĩ đại, Salween, Cửu Long và Dương Tử, chảy vào các thung lũng song song rất sâu trong vài trăm dặm, chỉ bị phân cách bởi các rặng núi cao, lởm chởm. Sau đó chúng phân tán, sông Dương Tử hướng về phía bắc và rồi quay sang phía đông, sông Cửu Long tiếp tục xuôi nam đến Căm Bốt và Lào, sông Salween chảy vào Miến Điện. Ba con sông mà các ḍng nước chỉ lần lượt cách nhau ba mươi dặm tại miền tây Vân Nam đă đổ ra biển ở những địa điểm cách xa nhau biết bao, ở vùng phụ cận của Thượng Hải, Sàig̣n và Ngưỡng Quang (Rangoon). Các thung lũng cao của chúng ở phía đông có độ cao hơn vài ngh́n bộ Anh (feet) so với phía tây: sông Salween chảy ở độ cao khoảng 2,000 bộ Anh tại Vân Nam, sông Cửu Long ở độ cao khoảng 4,000 bộ Anh, và sông Dương Tử trên cao, có cao độ 6,000 bộ Anh trên mặt biển khi nó đột ngột uốn khúc về hướng bắc và hướng đông, cắt đôi rặng núi có độ cao 20,000 bộ Anh. Nằm giữa các thung lũng sâu này là các rặng núi thường vượt quá 12,000 bộ Anh và lên cao hơn nữa khi hướng về phía đông. Các thung lũng th́ hẹp, cung cấp rất ít đất khả canh, và độ dâng cao và hạ thấp của ḍng sông giữa mùa hè và mùa đông (hè là mùa của nước dâng cao) có thể đo bằng hàng bộ Anh. Các thung lũng này, đặc biệt các thung lũng của sông Cửu Long và sông Salween, bị tàn phá bởi một loại sốt rét; đặc biệt hiểm ác, và người Trung Hoa sẽ không định cư tại những nơi đó; ngay các khách du hành cũng vội vă đi ngang qua chúng và không bao giờ nghỉ đêm tại vùng thung lũng. Sông Tây Giang, tạo thành lộ tŕnh huyết mạch của các tỉnh miền nam Trung Hoa, Quảng Tây và Quảng Đông, được nâng lên cao tại cao nguyên Vân Nam, nhưng không thể hải hành được cho đến sau khi nó đến được Quảng Tây.
Các rào cản cho việc giao tiếp với các người bên ngoài xem ra, và thực đáng sợ, ở các biên giới phía tây của Vân Nam, hơn là ở phía đông hay phía nam; song chúng đă được qua lại trong nhiều thế kỷ bởi các nhà mậu dịch và các khách du hành, nếu c̣n ít thường xuyên hơn nhiều bởi các đội quân. Một khi khách du hành đă chuyển sang con sông Salween và phụ lưu của nó, độ dốc xuống ở Miến Điện và thung lũng Irrawaddy th́ tương đối dễ dàng, dù đôi khi có nguy hiểm. Con sông vĩ đại mang lại một sự tiếp cận dễ dàng đến biển, và các chuyến du hành cận duyên đă có thể nối liền Miến Điện và Ấn Độ. Ít có sự nghi ngờ nào rằng một vài loại tiếp xúc đă hiện diện dọc theo con đường gián tiếp này từ những thời kỳ ban sơ nhất, ngay dù nó bị giới hạn lúc đầu vào hoạt động mậu dịch giữa các thị tộc. Con đường trực tiếp sang Ấn Độ, băng ngang qua các cánh rừng của miền bắc Miến Điện tới Manipur và các thung lũng vùng Assam th́ khó khăn hơn và ít an toàn hơn. Ngay tthời hiện đại, các khu rừng này vẫn c̣n là căn cứ của các bộ lạc săn người, chỉ đem lại một sự đón tiếp rùng rợn cho các khách lữ hành. Sự nối kết giữa Vân Nam là với Đông Nam Á, Miến Điện và Việt Nam, chứ không trực tiếp với Ấn Độ. Con đường tới Việt Nam, ngày nay là con đường rầy xe hỏa được xây dựng trong những năm đầu tiên của thế kỷ thứ hai mươi bởi người Pháp, không phải dễ dàng hay được sử dụng nhiều trong thời cổ xưa. Độ đổ dốc từ cao nguyên Vân Nam th́ rất cheo leo, và nhiều khe sông cắt ngang con đường. Thung lũng sông Hồng, tạo thành châu thổ ph́ nhiêu của Bắc Kỳ, bị nhiễm chứng sốt rét và chật hẹp, mặc dù ḍng sông này, phát sinh từ cao nguyên Vân Nam, có vẻ mang lại một sợi dây liên kết tự nhiên và hiển nhiên giữa Vân Nam và Việt Nam. Như quá thường xảy ra tại Vân Nam, con sông này thực sự là vô dụng cho mục đích này, và khách du hành phải đi t́m một con đường xem ra gian lao hơn, xuyên qua núi đồi. Khi người Pháp có được đặc nhượng mở đường xe hỏa, chính phủ đế triều Trung Hoa đă từ chối chấp thuận con đường dẫn tới thung lũng sông Hồng, vốn sẽ tương đối dễ dàng hơn để xây cất, với lư do rằng khu vực đó quá nguy hại cho sức khỏe, và rằng một đường rầy hỏa xa sẽ không phục vụ ǵ cho mục đích kinh tế ở đó. Lư do thực sự rằng họ tin con đường qua núi sẽ quá khó khăn và quá dốc khiến không một đường sắt nào trong thực tế lại có thể xây cất được trên hàng lối đó. Tuy thế người Pháp đă xây dựng nó, một trong những lộ tŕnh ngoạn mục nhất của thế giới, bắc ngang các khe sông sâu và chui qua từ rặng núi này sang rặng núi kia. Về mặt chiến lược, như được chứng tỏ trong Thế Chiến Thứ Nh́, nó th́ vô dụng; chỉ cần giựt sập vài cây cầu và phong tỏa một ít đường hầm sẽ làm cho lộ tŕnh không thể thông qua được. Người Nhật Bản không bao giờ xâm nhập vào Vân Nam bằng con đường này. Về mặt kinh tế, nó chỉ có giá trị tối thiểu, nhưng như thành tích về kỹ thuật, nó thật tuyệt diệu.
Các sự tiếp xúc đầu tiên được ghi chép lai giữa Trung Hoa và Vân Nam có niên đại từ cuối thế kỷ thứ tư trước Công Nguyên, và đă không phải được thực hiện bởi các vương quốc Trung Hoa vào thời khoảng đó tại miền bắc Trung Hoa, mà bởi nhà Ch’u [?], vương quốc phương nam đặt trung tâm tại trung lưu sông Dương Tử, nhưng cũng bao gồm tỉnh Hồ Nam ngày nay. Nước Ch’u không đúng nghĩa là một vương quốc Trung Hoa; nó không bao giờ được chấp nhận một cách thoải mái như một trong các thành viên của khái niệm cổ thời về Vương Quốc Trung Tâm (Miđle Kingdom), trên đó các nhà vua nước Chou [? Chu] đă trị v́ hơn là cai trị. Ch’u căn bản có thể thuộc sắc dân T’ai (Thái hay Đại [?]) hay Miao (Mèo), hay như một số tác giả xem xét, thuộc một sắc dân hỗn hợp, bao hàm một loạt nhiều dân tộc cổ xưa tại miền nam và trung Trung Hoa. Chính nước đó về văn hóa chịu ảnh hưởng Trung Hoa sâu đậm là điều chắc chắn từ nhiều sự khám phá khảo cổ đă được t́m thấy tại các khu vực vốn là một phần của nước Ch’u và cũng từ nhiều bằng chứng văn hóa Trung Hoa. Vào cuối thế kỷ thứ tư trước Công Nguyên, cuộc tranh chấp giữa các vương quốc của Trung Hoa dành quyền chủ tể tối cao thế giới Trung Hoa đă gia tăng mănh liệt. Các nước cạnh tranh chính yếu sẵn có mặt là vương quốc tây bắc của nước Ch’in [? Tần], được nghĩ rằng chỉ có một phần nào Trung Hoa về tính chất chủng tộc, và vương quốc miền nam của nước Ch’u, là nước, như được nhận thấy, chắc chắn có phần lớn giống dân phi-Hán (non-Han). Nước Ch’in liên tục sáp nhập phần lớn các vương quốc miền bắc cũ, và v́ thế, trở nên mạnh hơn. Nước Ch’u, có các nước cạnh tranh nằm phía hạ lưu sâu hơn của sông Dương Tử, bị ngăn cản không cạnh tranh hữu hiệu với kẻ thừa kế phương bắc bởi các sự phân trí này, và vào cuối thế kỷ thứ tư đă t́m kiếm một vài sự bù đắp bằng cách bành trướng về phương nam, vào các miền vượt quá Hồ Nam, khi đó bị chiếm ngụ bởi một số dân tộc ít tiến bộ hơn.
Vua Wei của nước Ch’u (339-329 trước C0ông Nguyên) đă phái một viên tướng, thành viên của hoàng gia, tên là Chuang Ch’iaso đi mở rộng uy quyền của ông theo hướng này. Chuang Ch’iao có vẻ đă dùng lộ tŕnh xuyên qua Quư Châu cho ít nhất một phần trong lực lượng của ḿnh, mặc dù các đơn vị tăng phái khác có thể đă đi theo con đường từ vùng cao trên sông Dương Tử tại Suifu xuyên qua Chaot‘ung để đến Côn Minh. Con đường này khi đó đi ngang qua vương quốc Pa (Ba) tại miền nam Tứ Xuyên, là nước đă giao chiến với láng giềng phía bắc của nó, nước Shu [Thục?] và có lẽ v́ thế không thể ngăn cản bước tiến của quân đội nước Ch’u. Tướng Chuang Ch’iao đă có thể tiến hành lộ tŕnh của ḿnh đến đồng bằng Côn Minh, bên bờ của hồ nước vĩ đại Tien Lake [Điền Tŕ?]. Đây là khu vực lớn nhất và là một trong những khu vực canh tác lúa gạo ph́ nhiêu nhất của Vân Nam, và thành phố Côn Minh ngày nay, tỉnh lỵ của tỉnh, tọa lạc ở đó. Chuang Ch’iao đă sáp nhập miền này vào nước Ch’u, và gọi nó là Tien [đất Điền?]. Từ ngữ này không có nghĩa nào khác trong Hoa ngữ ngoài địa danh để chỉ hồ và miền đất, ngoại trừ một tĩnh từ phát sinh khả hữu có nghĩa “vô giới hạn, bao la”. Nhiều phần đó là một danh từ phát sinh từ các [họ của, ND] người làm chủ quận huyện trước đây.
Rất ít điều được hay biết về các người dân có thể đă sống ở đó. Một khám phá khảo cổ học gần đây không quá xa Côn Minh, tại địa điểm đồi núi được gọi là Shih Chia Chai, đă phơi bày ra ánh sáng các đồ vật bằng đồng được trang trí với các h́nh dạng rơ ràng có tính cách phi-Trung Hoa (non-Chinese), và có vẻ để mô tả một sắc dân chăn dắt các loại gia súc trên các cánh đồng đă được tŕnh bày một cách phong phú. Niên đại của các đồ vật này được phỏng đóan trên căn bản cách vẽ là gần hay cùng thời với sự chinh phục của nước Ch’u, và nếu các đồ vật chứng tỏ sự du nhập kỹ thuật đồ đồng Trung Hoa, chúng cũng phô bày sức mạnh của một truyền thống nghệ thuật phi-Trung Hoa. Quân đội nước Ch’u chắc chắn không đủ mạnh để đánh đuổi dân bản xứ tại vùng đất đó, và có lẽ đă không được tháp tùng bởi nhiều phụ nữ của họ. Không bao lâu các sự phát triển tại miền tây Trung Hoa khiến cho thuộc địa xa xôi này c̣n bị cô lập hơn nữa.
Trong năm 316 trước Công Nguyên, vương quốc nước Ch’in hung hổ, lợi dụng cuộc chiến tranh tương tàn giữa hai vương quốc Tứ Xuyên là Shu và Ba (lần lượt tập trung tại Thành Đô (Ch’engtu) và Trùng Khánh (Chungking) ngày nay) đă xâm lăng và chinh phục cả hai vương quốc, sáp nhập toàn thể tỉnh rộng lớn Tứ Xuyên vào nước Ch’in. Biến cố này, nguyên làm gia tăng vượt mức quyền lực và tài nguyên của nước Ch’in, có lẽ đă là một yếu tố quyết định cho sự chiến thắng tối hậu của nó trong các cuộc tranh chấp không ngừng của thời Chiến Quốc (Warring States). Hậu quả tức thời của nó là cắt đứt thuộc địa tại đất Điền (Tien) ra khỏi sự tiếp xúc trực tiếp với nước Ch’u. Tướng Chuan Ch’iao có vẻ đă cố gắng để tái lập giao thông băng ngang Quư Châu, nhưng gặp phải sự kháng cự của các thị tộc địa phương quá mạnh mẽ. Chính nước Ch’u giờ đây đang gặp mối nguy hiểm lớn lao hơn từ cuộc xâm lăng của nước Ch’in vẫn tiếp tục đe dọa nó cho tới khoảng 90 năm sau đó, trong năm 223 trước Công Nguyên, nó đă bị chinh phục bởi nước Ch’in trong sự sụp đổ toàn diện của các vương quốc cũ. Nước Tần (Ch’in), thbông nhất Trung Hoa lần đầu tiên, đă không quan tâm đến việc theo đuổi cuộc chinh phục này bằng một chiến dịch tiền vào miền tây nam xa xôi, và đất Điền (Tien) đă được để yên. Chung Ch’iao đă cai trị nó như một phó vương kinh lược của nước Ch’u, nhưng các người kế vị ông đă trở thành vua đất Điền (Tien).
Có lẽ (có một số chỉ dẫn văn hóa về sự kiện này) rằng nhiều người tỵ nạn từ vương quốc Pa trước đây tại Tứ Xuyên đă chạy trốn xuông phương nam, đến đất Điền (Tien). Nó trở nên một tiêu điểm biệt lập của văn hóa Trung Hoa tại một khu vực chính yếu vẫn chưa bị đụng chạm bởi các ảnh hưởng như thế, và Côn Minh, vùng thừa kế hiện đại của nó vẫn c̣n là trung tâm chính của quyền lực và văn minh Trung Hoa tại Vân Nam cho đến thời hiện đại. Trong hai thế kỷ kế tiếp của đế quốc đại Hán tại Trung Hoa, đất Điền (Tien) vẫn có thể duy tŕ nền độc lập cho đến thời trị v́ của Hán Vũ Hoàng Đế (140-86 trước Công Nguyên). Nhà vua đó đă tiến hành nhiều cuộc chinh phục và chiến tranh để mở rộng lănh địa của ḿnh, và vua đất Điền (Tien), chắc hẳn bị ấn tượng bởi cuộc chinh phục của nhà Hán tại Nam Việt (Quảng Châu) và sự xâm nhập ngoại giao đồng thời tại vương quốc Yeh Lang [? Dạ Lang, ND], thuộc Quư Châu (quanh vùng Ts’unyi ngày nay) đă t́m cách sự công nhận với sự thỏa thuận của chính ông bằng cách thừa nhận quyền chủ tể của Hoàng Đế nhà Hán. Việc này được chuẩn thuận, và vương quốc của ông ta đă được cải danh trên h́nh thức thành Yi Chou Đô Hộ Phủ. BởI Nhà Vua được xác nhận là người cai trị, điều này không tạo ra mấy sự khác biệt, mà cho phép ông cảm thấy an toàn và bảo đảm. Nó cũng khai mở một băng tần mới để tiếp xúc với Trung Hoa, và như thể tăng cường ảnh hưởng của Trung Hoa trong vùng. Không có vẻ là Hán Vũ Đế hay các kẻ thừa kế ông đă đưa ra bất kỳ nỗ lực nào để áp đặt sự cai trị trực tiếp hơn của Trung Hoa hay mở rộng lănh địa của họ tại Vân Nam.
Họ có duy tŕ một sự quan tâm đến tỉnh hạt xa xôi này v́ một lư do khác. Trong năm 138 trước Công Nguyên, Hán Vũ Đế có phái một sứ giả, Chang Ch’ien, đến các vương quốc vùng trung Á Châu vốn được thành lập từ các mảnh vỡ của đế quốc của đại đế Alexander tại miền giờ đây là Trung Á thuộc Nga. Vị sứ giả có nh́n thấy tại đó vải vóc và nhiều cây tre, được trao đổi từ Ấn Độ, mà ông ta nh́n như là các sản phẩm của Tứ Xuyên, một tỉnh lớn ở phía tây của đế quốc Hán. Khi trở về ông đă báo cáo sự kiện này, trong số nhiều tin tức khác, và Triều Đ́nh Trung Hoa lần đầu tiên đă khám phá rằng một con đường mậu dịch đến Ấn Độ có hiện diện từ Tứ Xuyên băng ngang qua Vân Nam. Nhiều sứ giả sau đó đă được phái đi thăm ḍ về con đường, nhưng điều đuợc ghi chép là không có người nào lại hoàn tất hành tŕnh bao giờ, và rằng phần lớn đă không quay trở về. Điều bị nghi ngờ rằng liệu Chang Ch’ien lại không có thể bị nhầm lẫn một số sản phẩm của Ấn Độ với sản phẩm của Tứ Xuyên hay sao, nhưng sự đề cập đên “cây tre lớn” có vẻ khiến ta nghĩ rằng ông ấy đă nói đúng. Các cây tre rất lớn mà một cộng đồng có thể chế tạo thành một cái rổ nhỏ hữu dụng, được biết là chỉ có tại Trung Hoa. Nếu “vải vóc” của nước Shu là một vài loại sản phẩm lụa sống, sản phẩm chỉ có từ Trung Hoa vào thời điểm đó, sự xác định sẽ vũng chắc.
Con đường đă hiện hữu trong các thời đại sau này, như đă được nói tới, băng ngang Vân Nam đến Miến Điện. Có thể ngay vào thời điểm đó, hàng hóa mậu dịch khi đó đổ dọc xuống sông Irrawaddy và theo đường biển sang Ấn Độ. Thuật hải hành của Ấn Độ, như ảnh hưởng của Ấn Độ Giáo khắp Đông Nam Á chứng thực, đă sẵn được phát triển tốt đẹp. Các sứ giả nhà Hán có thể đă ngần ngại đi xa đến mức phải băng ngang các biển không hay biết ǵ (như sứ giả được phái bởi Trung Hoa đến La Mă sau này lấy làm nhụt chí trước việc băng ngang hoặc Vịnh Ba Tư hay Hắc Hải) hay có thể họ đă t́m cách vươn tới Ấn Độ bằng con đường trực tiếp xuyên qua miền bắc Miến Điện. Nếu đúng như thế, số phận của họ đă bị giải quyết bởi các bộ lạc săn người trong vùng. Xu hướng này sẽ không nhất thiết có nghĩa rằng không có con đường mậu dịch nào lại có thể hiện hữu xuyên qua xứ sở của họ, bởi trong thời điểm rất gần đây, các thương nhân Trung Hoa có thực hiện một công cuộc mậu dịch như thế, theo các điều khoản đặc biệt và độc quyền.
Các cánh rừng miền bắc Miến Điện là một trong các khu sinh sống cuối cùng của loài tê giác Á Châu và cũng sản xuất ra nhiều thảo mộc hiếm có, giống như các sừng tê giác, là các sản vật vô cùng quư giá trong ngành mua bán dược liệu Trung Hoa. Cho đến Thế Chiến Thứ Nh́ người mua từ khắp nơi của Trung Hoa, và cũng từ Đông Nam Á, thường tụ tập tại Đại Lư (Tali) miền tây Vân Nam trong một hội chợ hàng năm được tổ chức vào tháng Tư, nơi mà các sản phẩm này có thể mua với các giá cả có lợi cho những người thu gom chúng, và vẫn c̣n sinh lợi rất nhiều cho những kẻ sẽ bán chúng tại các thành phố lớn của Trung Hoa và vùng đất phía nam. Các người sưu tập là các thương nhân Trung Hoa địa phương thuộc vào các gia tộc đă thiết lập các quan hệ thân thiết với các bộ lạc săn người và là các kẻ duy nhất có thể tiến vào xứ sở họ một cách an toàn. Chỉ có các thành viên của các gia tộc này mới có thể tiến vào lănh địa của các bộ tộc. Họ mang các sản phẩm chẳng hạn như các dụng cụ và vũ khí mà các thị tộc coi trọng, đổi lại họ thu mua các dược thảo và nếu may mắn, một chiếc sừng tê giác, hoặc bằng cách trao đổi hay bằng khả năng mua sắm của chính họ. Nếu muốn gia tăng nhân số, ngay dù chỉ thêm một người, họ phải trước tiên, thương thảo với các nhà lănh đạo thị tộc, những kẻ thường chỉ chấp thuận một thành viên mới, kẻ phải có một sự liên hệ gần gũi với những người đă sẵn được chấp nhận. Người nào khác sẽ mất đầu, ngay dù anh ta đi theo một nhà mậu dịch đă được thừa nhận. Nhân số được giữ thấp, và sự cạnh tranh ở mức tối thiểu. Nhưng công việc mậu dịch có lợi cho cả đôi bên được thực hiện một cách có hệ thống từ năm này sang năm kia. Tại các huyện xa hơn, người Trung Hoa chỉ đến trong mùa đông khô ráo và không được phép, với lệnh tử h́nh, ở lại hết năm. Không có phụ nữ nào được chấp thuận. Tại ven biên của vùng, đôi khi có thể đi ngang qua trong mùa hè, nếu gia đ́nh mậu dịch rất nổi tiếng và lư do cho một sự tŕ hoăn lâu dài, chẳng hạn như bệnh tât, th́ rơ ràng.
Hệ thống này đă tiếp diễn ttrong nhiều thế hệ, và có lẽ lâu đời hơn bất kỳ tài liệu hay hồi ức c̣n lưu tồn nào. Có vẻ với khả tính ít nhất, rằng loại mậu dịch này, được biết từ các nơi khác trên thế giới, đă sẵn hiện hữu từ thời nhà Hán và rằng một số sản phẩm của Trung Hoa được truyền từ bộ tộc này sang bộ tộc khác, băng ngang qua miền bắc Miến Điện để tới Ấn Độ. Nhưng nếu các t́nh trạng mậu dịch khi đó cũng giống như trong hiện thời, điều rất bất thường rằng bất kỳ sứ giả Trung Hoa nào từ một vùng xa xôi lại có thể được chấp nhận, hay sống sót sau một mưu toan nhằm xâm nhập vào vùng đất của các bộ tộc.
Có thể như một kết quả của các nỗ lực này nhằm t́m kiếm một con đừng sang Ấn Độ băng ngang Miến Điện mà các giới chức thẩm quyền nhà Hán đă thiết lập một xác quyền cai quản vùng nằm phía tây sông Cửu Long. Ở đó họ đă thiết lập, hay đặt tên, một Đô Hộ Phủ (hay Chỉ Huy Sứ) (Commandery) gọi là Yungch’ang tại địa điểm của thành phố mang cùng tên cho đến lúc kết thúc triều đại Măn Châu, nhưng đă được đặt lại tên là Paoshan dưới thời Cộng Ḥa. Người Hán cũng gán tên Lan Thương Giang (Lan Ts’ang Chiang) cho con sông Cửu Long, một cái tên mà ḍng sông vẫn mang tại Vân Nam và thường được biết tới bởi người Trung Hoa qua tên nà,y trên suốt ḍng chảy của nó. Các biên giới của Đô Hộ Phủ Yungch’ang được tuyên bố vươn quá sông Salween đến tận thành phố ngày nay là Tengyueh, là trung tâm hành chính cuối cùng của miền tây Vân Nam ngày nay. Sự xâm nhập về phía tây này không được đi kèm bởi bất kỳ sự bành trướng đáng kể nào vào phương nam của Vân Nam, nơi mặc dù có các rặng núi thấp hơn, chứng bịnh sốt rét lại hoành hành nhiều hơn. Người Trung Hoa có lẽ hay biết rằng khu vực miền nam Vân Nam này giáp ranh với Việt Nam, vùng mà họ đă sẵn cai trị, và là vùng mà sự tiếp cận qua biên giới với tỉnh Quảng Tây ngày nay th́ trực tiếp và dễ dàng hơn nhiều. Đă không có động lực đặc thù nào để thiết lập thẩm quyền tại miền nam Vân Nam. Mặt khác, Yungch’ang (hay Paoshan) lại c̣n là trung tâm giao thương với miền bắc Miến Điện. Nó chiếm cứ một đồng bằng ph́ nhiêu trên cao nguyên nằm giữa sông Cửu Long và sông Salween và là trung tâm tự nhiên cho sự quản trị miền tây Vân Nam. Như tại đất Điền (Tien) (Côn Minh), có lẽ sự cai trị của Trung Hoa mang tính cách gián tiếp, một thủ lĩnh địa phương được nh́n nhận như vị tổng đốc, nhưng bị yêu cầu cung cấp sự bảo vệ và hỗ trợ cho các sứ giả chính thức và khách du hành từ Trung Hoa.
Chính sách của nhà Hán chính v́ thế là một sự cai trị gián tiếp, nhưng nó đă thiết lập các bàn đạp dọc theo chiều ngang của Vân Nam gần như sát tới biên giới Miến Điện ngày nay. Biên giới thực sự được tuyên nhận là bờ phía tây của cao nguyên Vân Nam, trước khi có sự “đổ dốc lớn lao” vào thung lũng sông Irrawaddy, mà Marco Polo đà mô tả bằng các từ ngữ này nhiều thế kỷ sau này. Ngay trong thời hiện đại, xứ sở này c̣n hoang vu và chỉ có ít dân cư ngụ: các thung lũng to lớn của sông Cửu Long và sông Salween, bị chứng sốt rết hoành hành dữ dội, là các rào cản chính, và các rặng núi với rừng rậm nằm giữa chúng cũng là các trở ngại đáng kinh sợ, mọc thẳng đứng từ các khe nước sâu của các con sông. Mười hai thế kỷ sau này, trong thời nhà Minh, người Trung Hoa đă nối liên cả hai con sông bằng các chiếc cầu treo đong dưa trên các sợi xích sắt to lớn, nhưng sự trợ giúp để du hành này c̣n vắng mặt trong thời nhà Hán. Nước sông dâng lên trong mùa hè thường cao hơn cả bảy mười bộ Anh (feet), đến nỗi việc đi phà thành khó khăn và trong thực tế gần như bất khả thi khi con sông gặp lũ. Đô Hộ Phủ tại Yungch’ang hẳn phải bị cô lập khỏi mọi sự truyền thông với Côn Minh và Trung Hoa đôi khi trong nhiều tháng trời. Cần có một động lực mạnh mẽ để thiết lập bất kỳ xác quyền nào đối với xứ sở này, và thật khó khăn để nh́n thấy động lực nào khác hơn là sự t́m kiếm một con đường mậu dịch dẫn tới Ấn Độ, sẽ ngắn hơn hành tŕnh mênh mông băng ngang qua miền trung Á Châu và qua vùng Kush của Ấn Độ, hầu có thể khích động được một Triều Đinh xa vời.
Người Trung Hoa có vẻ đă không thực hiện sự bành trướng nào hơn nữa, hoặc trong sự khám phá hay mở rộng chính quyền của họ trong hai thế kỷ của triều đại Hậu Hán (25-221). Các sự xác quyết quyền chủ tể vẫn được duy tŕ, nhưng không có sự kiểm soát chặt chẽ hơn được thiết lập. Lúc có sự sụp đổ của triều đại nhà Hán, đế quốc bị tranh dành bởi ba kẻ tuyên nhận chính là các người đă lập nên ba Vương Quốc (Tam Quốc), trong đó nước yếu nhất là Thục Hán (hay triều đại nhà Hán tại Từ Xuyên [tức đất Thục, ND], vốn chỉ cai trị ra ngoài tỉnh một chút. Có lẽ các hy vọng bành trướng của nó bị bác bỏ bởi nước Ngụy ở phương bắc và nước Ngô ở phía đông hùng mạnh hơn, nước Thục Hán đă cố gắng bành trướng theo hướng tây nam vào Vân Nam. Đây là chính sách của vị đại tha6`n nổi tiếng Chu-ko Liang [Chư Cát Lượng, theo tiếng Hán, không rơ tại sao sách vở Việt Nam lại dịch thành Gia Cát Lượng?, chú của người dịch ?], kẻ đă khống chế Triều Đ́nh của vị vua thứ nh́ (và sau cùng) của nhà Thục Hán. Chu-ko nổi tiếng trong lịch sử Trung Hoa vừa như một đại thần trung thành, tự kiềm chế việc thoán đoạt ngôi báu của một vị vua yếu đuối, vừa như một vị tướng quân kinh nghiệm và tinh khôn, bậc thầy của mưu lược và đột kích, kẻ đă bành trướng thẩm quyền Trung Hoa đến tận vùng tây nam. Các chiến công này đă trở thành các đề tài của tiểu thuyết và kịch nghệ làm che lấp phần nào bản chất thực sự của công nghiệp táo bạo này. Chu-ko đă giảm hạ nước chư ha6`u trước đây ở đất Điền (Tien) xuống quy chế một Đô Hộ Phủ do Trung Hoa cai trị trực tiếp, và sau đó mở rộng thẩm quyền của ông theo hướng tây khoảng một trăm dặm cho tới Ch’uhsiung.
Các khu vực này dễ dàng được tiếp cận từ Tứ Xuyên bởi con đường phía bắc từ Suifu, và có thể được kiểm soát bởi bất kỳ quyền lực Trung Hoa nào được thiết lập tại tỉnh Tứ Xuyên, căn cứ địa của nhà Thục Hán. Xa hơn về phía tây, nơi mà Chu-ko Liang mở chiến dịch vượt qua sông Cửu Long xuống đến biên giới Miến Điện ngày nay, ông đă kiềm chế khỏi việc thiết lập nền cai trị ttrực tiếp của Trung Hoa và c̣n cự tuyệt cả việc đồn trú các đội quân thường trực. Ông đă đặt chính sách của ḿnh trên ba lập luận. Trước tiên, các đội quân đồn trú thường trực tại các miền không thể tiếp cận xa xôi như thế có thể dễ dàng khô cạn thực phẩm tiếp tế. Chắc chắn rằng việc này đă phản ảnh sự khó khăn lớn lao trong việc băng qua các khe sông sâu trong mùa nước dâng cao. Thứ nh́, các đội quân đồn trú yếu sẽ là đối tượng để tấn công bởi các dân bộ lạc hăy c̣n thù hận sau khi bị đánh bại. Thứ ba, ông tranh biện rằng một sự chiếm đóng thường trực sẽ nuôi nấng sự nghi ngờ nơi chính sách của Trung Hoa, dẫn các thị tộc đến việc tin tưởng rằng cuộc chinh phục trọn vẹn đă được nhắm tới. Ông cũng bác bỏ chính sách nâng cao các sắc thuế bộ tộc hay trưng dụng lúa gạo. T́m hiểu xứ sở từ các chiến dịch của chính ḿnh, ông nhận thức được sự nghèo đói và nh́n thấy rằng sự cai quản trực tiếp hà khắc sẽ chỉ dẫn đến sự xáo trộn và phản kháng.
Chính v́ thế, từ nhật kỳ sớm sủa này mà chính sách thuộc địa của Trung Hoa, nếu người ta có thể sử dụng một từ ngữ rất thường có vẻ gây tổn thương, đă mang một tính chất mà nó đă giữ lại trong nhiều thế kỷ. Sự kiểm soát trực tiếp của chính quyền Trung Hoa sẽ là giai đoạn cuối cùng của sự xâm nhập. Trước tiên là các nhà mậu dịch phiêu lưu đên nơi, hay các sứ giả; kế đó các thủ lĩnh của các thị tộc quan trọng được thuyết phục và dụ dỗ với các tước hiệu để nh́n nhận quyền chủ tể của Trung Hoa và cung cấp sự bảo vệ cho các khách du hành. Khi quyền lực Trung Hoa trở nên ổn cố một cách chắc chắn tại miền kề cận, các lănh địa bộ tộc gần nhất, vào một thời cơ thuận tiện, có thể được đặt dưới thẩm quyền Trung Hoa. Các thị tộc xa hơn, sau các chiến dịch trừng phạt, một lần nữa được để tự quản dưới quyền chủ tể của Trung Hoa. Tại Vân Nam, sự phân biệt giữa các lănh thổ bị sáp nhập hoàn toàn cùng các cư dân của chúng với những vùng hăy c̣n nằm bên ngoài thẩm quyền trực tiếp của các quan chức tỉnh hạt được gọi là giữa thành phần “shu” với thành phần “sheng”, dịch sát nghĩa “đă nhuần thục (cooked})” (hay “đă chin nhừ” (ripe) với “c̣n sống sượng”(raw). Dân chúng thị tộc đă chấp nhận phong tục Trung Hoa và hoàn toàn tùng phục, ngay dù nó vẫn c̣n sử dụng một ngôn ngữ phi-Trung Hoa trong khi đàm thoại, được chấp nhận như “kẻ đă thuần thục”. Các bộ tộc hăy c̣n sống bên ngoài sự cai trị trực tiếp và đă chấp nhận rất ít hay không chấp nận văn hóa Trung Hoa, là “c̣n sống sượng”. Điều được hiểu rơ ràng rằng những ǵ c̣n sống sượng hôm nay có thể trở thành nhuần nhuyễn ngày mai.
Chu-ko Liang vẫn c̣n là một anh hùng địa phương tại Vân Nam, tiêu biểu, trong cái nh́n của ngườii Trung Hoa, cho một nhà hành chính lư tưởng của các vùng đất mới được chinh phục, cương quyết, cẩn trọng, nhân đạo và nh́n xa. Song công việc của ông ta được chứng minh, theo một nghĩa, có tính cách chuyển tiếp. Sự chinh phục của nhà Thục Hán tại Vân Nam chỉ kéo dài hơn chính triều đại Thục Hán một chút, đă bị đè bẹp trước sự chinh phục của triều đại nhà Tsin (Tấn) mới, đặt căn cứ tại miền bắc Trung Hoa, trong năm 264. Sự trị v́ của nhà Tấn th́ ngắn ngủi trên toàn cơi Trung Hoa, bởi trong năm 316 miền bắc bị thất trận trước cuộc xâm lăng to lớn của các dân tộc Tatar (Thát Đát), đă giữ Trung Hoa bị chia đôi thành hai đế quốc, bắc và nam, trong gần ba trăm năm. Các đề quốc miền nam tiếp theo, và một đế quốc được thiết lập ngắn ngủi chính yếu ở vùng tây bắc Trung Hoa (nhà Bắc Chu: Northern Chou, 558-81) có tuyên xác cai trị trên phần đất cũ của nhà Thục Hán ở Tứ Xuyên. Trong thực tế, sự tuyên xác này hoặc là quyền chủ tể trên danh hiệu, hay không có bất kỳ nền tảng nào. Vân Nam, trong thời kỳ phân chia giữa nam và bắc, đă dành lại nền độc lập thị tộc, và rơi vào sự xáo trộn giữa các bộ lạc.
Cũng có vẻ rằng trong thời kỳ này ảnh hưởng ban đầu của Trung Hoa trên nền văn hóa của nó đă bị thử thách, và một phần bị thay thế bởi một ảnh hưởng ngoại lai mới đến từ hướng tây nam, Phật Giáo, lan tràn tại chính Trung Hoa, kể từ thời cuối nhà Hán, và trở nên rất mạnh tại cả hai nam và bắc đế triều, đă vươn tới Trung Hoa bằng con đường mậu dịch trung Á châu từ Ấn Độ. Sau này đường biển từ Tích Lan và nam Ấn Độ đến nam Trung Hoa trở nên quan trọng. Nhưng tại Vân Nam, Phật Giáo thẩm nhập từ Miến Điện, một nước có sự tiếp xúc trực tiếp hơn với Ấn Độ. Hậu quả, đă có tại các đền đài tưởng niệm sớm nhất của Phật Giáo tại Vân Nam một ảnh hưởng Đông Nam Á mạnh mẽ và hiển nhiên phát sinh từ Ấn Độ, chứ không phải từ Trung Hoa. Các đền đài tưởng niệm và các công tŕnh nghệ thuật c̣n tồn tại th́ ít ỏi và thường vụn nát, nhưng tính chất trong thể điệu của chúng th́ rơ ràng. Tại vùng viễn tây của tỉnh, giữa con sông Salween và các biên giới của Miến Điện, các bộ tộc địa phương chấp nhận phái Theravada (hay Hinayana, tức Tiểu Thừa) của Phật Giáo, được thịnh hành tại Miến Điện, Căm Bốt và Thái Lan, và phát xuất từ Tích Lan. Các nước này hăy c̣n ǵn giữ giáo phái này ngày nay.
Vân Nam chính v́ thế trong thời đại kế tiếp đă trở thành điểm tiếp xúc và tranh chấp giữa văn minh Trung Hoa và Ấn Độ. Sự kiểm soát chính trị của Trung Hoa đă bị trôi mất, và sự tái áp đặt của nó đă bị kháng cự một cách mạnh mẽ bởi một vương quốc mới và hung mạnh, bao chùm khắp Vân Nam. Vương quốc Nam Chiếu này chịu ảnh hưởng văn hóa Ấn Độ một cách đáng kể, biểu hiện trong nghệ thuật Phật Giáo như các đền đài tưởng niệm c̣n lưu tồn của nó chứng thực. Nó cũng được tập trung tại một thành phố không được đề` cập đến như một trong các Đô Hộ Phủ cũ của nhà Hán hay các thủ lănh thị tộc triều cống, Tali (Đại Lư). Vân Nam v́ thế không có cùng lịch sử với vương quốc cũ của Nam Việt, vùng Quảng Châu hiện đại. Sau cuộc chinh phục sơ khởi và chiếm đóng một phần của Trung Hoa, Vân Nam đă dành lại sự độc lập, tạo lập một vương quốc hùng mạnh, kháng cự lâu dài trước một triều đại Trung Hoa hùng mạnh nhất, nhà Đường (T’ang), và đă không bị đè bẹp cho đến khi phải khuất phục trước sức mạnh áp đảo của cuộc xâm lăng của Mông Cổ. Trong một vài chiều hướng, lịch sử của nó tương tự như lịch sử của Việt Nam, nhưng kết quả tối hậu lại trái ngược.
Trong năm 589, triều đại nhà Tùy, được thành lập bởi một gia tộc Trung Hoa hợp chủng với các gia tộc cầm quyền người Thát Đát của đế quốc phương bắc trước đây, đă tái thống nhất Trung Hoa bằng một cuộc chinh phục dễ dàng và mau chóng triều đại nhà Ch’en (Trần) suy yếu ở miền nam. Nhưng trong khi chiếm cứ các lănh địa của họ và các sự tuyên nhận mong manh về quyền chủ tể tại miền tây nam, nhà Tùy sẽ nhận ra rằng h́nh trạng trong miền đă thay đổi lón lao. Phần lớn Quư Châu và hầu hết Vân Nam giờ đă được tổ chức thành một số vương quốc có thể triệu tập các đội quân đáng kể. Họ không c̣n là các bộ lạc man rợ bị chia cắt thành các đơn vị lănh thổ nhỏ của một thung lũng hay đồng bằng duy nhất. Chính bản thân nhà Tùy đă sớm bị nhận ch́m vào các sự khó khăn tiếp theo sau các cuộc chiến tranh không thành công của nó với Hàn Quốc (Bắc Hàn, vương quốc Koryugo), và Trung Hoa một lần nữa rơi vào sự hỗn loạn. Màn xen giữa này th́ ngắn ngủi: trong năm 618 triều đại nhà Đường, kẻ chiến thắng trong cuộc nội chiến phức tạp, đă xuất hiện để thống nhất Trung Hoa trên một căn bản lâu dài. Không bao lâu, nó phô diễn để sức mạnh của ḿnh được cảm thấy ở miền viễn nam. Nhà Đường chấp nhận chính sách cổ truyền và đă được thử thách mà đế quốc nhà Hán đă theo đuổi. Các tù trưởng bộ tộc và các nhà vua được mời gọi để thừa nhận quyền chủ tể của Trung Hoa, đổi lại nhận được sự xác định thẩm quyền và các tước phong vinh dự. Hệ thống này có vẻ như vận hành khá tốt trong nhiều năm, và có thể không có ǵ phải nghi ngờ rằng sự phổ biến văn hóa và phong tục Trung Hoa đă được khích lệ. Tuy nhiên, các thẩm quyền nhà Đường đă không thỏa măn với sự phân chia miền thành quá nhiều vương quốc tương đối nhỏ bé, nhận thấy t́nh trạng này phức tạp và khó quản trị. Họ nghĩ đến ư tưởng rằng bằng việc thống nhất nhiều vương quốc nhỏ hơn dưới một nhà cai trị, toàn thể sự quản trị chính trị vùng ven biên đế quốc sẽ được dễ dàng hơn. Việc này, từ quan điểm của họ, là một sai la6`m quan trọng. Nó đă giúp cho sự trổi dậy của vương quốc Nam Chiếu trở nên đáng sợ và hoàn toàn độc lập cũng như đối nghịch với đế quốc nhà Đường.
Nam Chiếu đă là một trong sáu vương quốc, Sáu Chiếu (Six Chaos) (từ ngừ trong tiếng Thái chỉ nhà vua) đă chia cắt miền tây và trung Vân Nam. Nam Chiếu được gọi tên như thế bởi v́ bộ chỉ huy nguyên thủy của vị lănh chúa được đặt tại Menghua, phía nam Đại Lư, sau này trở thành kinh đô của họ, và cũng bởi năm Chiếu kia hoặc là ở phía tây hay phía bắc của Menghua. Nam Chiếu ch́nh v́ thế nguyên thủy là Chiếu Phương Nam (Nan). Sự lựa chọn Đại Lư làm kinh đô là khôn ngoan, bởi đó là một trong các địa điểm được pḥng vệ lư tưởng nhất có thể tưởng tượng được. Tại sao nó chưa hề, như nó sắp, được nhận thức trong thời nhà Hán th́ không rơ, bởi vị trí của nó mời gọi sự thiết lập ít nhất một quyền lực địa phương. Đồng bằng trên đó thành phố tọa lạc có chiều dài khoảng ba mươi dặm, giáp ranh về phía đông với hồ Erh Hai (Nhĩ Hải?) rộng lớn, có nơi rộng tới năm dặm, và phía tây bởi rặng núi Ts’ang Shan cao sừng sững, một rào cảo vươn cao tới 14,000 bộ Anh, hay 7,000 bộ Anh cao hơn đồng bằng Đại Lư. Đồng bằng đó ở cả hai đầu được khép kín bằng các ngọn đèo hẹp nằm giữa hồ nước, các con sông dẫn và thoát nước của nó, và rặng núi Ts’ang Shan. Đèo phía bắc được gọi là Lung T’ou Kuan (Long Đầu Quan), Đèo Đầu Con Rồng, hay theo cách nói thông thường là Shangkuan (Thượng Quan), Đèo Trên; phía dưới, được pḥng vệ bởi thành của Hsiaquan (Hạ Quan), Đèo Dưới, là Lung Wei Kuan (Long Vĩ Quan), Đèo Đuôi Rồng. Con Rồng là hồ Nhĩ Hải (Erh Hai: Nhĩ Hải, theo h́nh dạng [như lỗ tai, ND] của nó). Hai ngọn đèo, ngay dù chúng không được củng cố về pḥng thủ, sẽ là các vị thế lư tưởng để pḥng vệ đồng bằng và ngăn chặn một lực lượng hùng mạnh hơn nhiều. Chúng đă được củng cố bởi thành phố có tường thành vững chức bao quanh ở Hạ Quan, trên cửa vào phía nam ngăn chặn con đương đến Côn Minh ở hướng đông, và đèo hẹp theo đó con đường đi qua hướng tây dẫn đến Yungch’ang và giao điểm với sông Cửu Long. Chính v́ thế, nó là giao lộ chiến lược của miền tây Vân Nam, và mặc dù có thể đi ṿng quanh đồng bằng Đại Lư và du hành lên phương bắc, con đường này khó khăn hơn nhiều. (Dù thế, nó đă là con đường đi bởi Cộng sản trong cuộc Trường Chinh năm 1935, bởi họ không thể chọc thủng lối vào đồng bằng Đại Lư được). Lối vào phương bắc vào đồng bằng Đại Lư được kiểm soát bởi thành tại Thượng Quan, nơi mà một khe nước sâu từ rặng Ts’ang Shan xuống hồ ở cửa sông Nhĩ Hải, đổ nước vào hồ. Ṭa thành được xây dựng bắc ngang lối đi duy nhất giữa khe nước và hồ.
Đồng bằng Đại Lư là vùng đất trồng lúa gạo ph́ nhiêu, không bao giờ bị nguy ngập v́ lũ lụt, và không bao giờ bị nguy hiểm v́ hạn hán, bởi các luồng nước không dứt chảy xuống từ rặng núi Ts’ang Shan vĩ đại (đỉnh núi co tuyết phủ vào khoảng năm tháng) khiến cho việc dẫn nước thường trực trở nên khả dĩ. Nó có khả năng sản xuất các khối lượng ngũ cốc lớn, và vụ thu hoạch gạo mùa hè được thay thế bằng đậu và rau trong mùa đông. Ở trên cao, 7,000 bộ Anh, nhưng thuộc vĩ tuyến nhiệt đới, Đại Lư có một khí hậu gần như lư tưởng với mùa thu và mua đông dài và khô, và một mùa hè ngắn, ẩm ướt nhưng tương đối lạnh, khi gió mùa tây nam mang mưa nhiều đến hàng rào núi. Không rơ rằng bộ tộc hay nhóm nào bị dời cư hay chinh phục bởi các nhà lănh đạo Nam Chiếu khi họ di chuyển theo hướng bắc để chiếm giữ Đại Lư. Các cư dân ngày nay, và chắc chắn trong nhiều thế kỷ đă qua, không phải sắc dân T’ai thuần chủng, mà được biết là dân Pai (trong Hán tự được dịch nghĩa đơn giản là “Bạch: Trắng”). Trong tiếng Pai là Ber Wa Tze, có nghĩa “dân của Bạch Vương: White King”. Ai có thể đă là vị vua thần thoại này th́ không được ghi chép, nhưng một ngôi mộ cổ xưa và to lớn, bị xâm phạm từ lâu, trên sườn rặng Ts’ang Shan gần thành phố Đại Lư được tôn thờ ở địa phương như ngôi mộ của Bạch Vương. Nó có vẻ như một ngôi mộ của một trong các vị vua của Nam Chiếu th́ đúng hơn, và Bạch Vương thần thoại có lẽ là sự ghi nhớ của dân gian về một trong các vị vua chiến sĩ của Nam Chiếu. Có vẻ khá rơ ràng rằng các nhà lănh đạo của Nam Chiếu, và có lẽ các môn đệ của họ, là người T’ai, nhưng c̣n nhiều ngờ vực rằng liệu sắc dân Bạch theo các phong tục và ngôn ngữ c̣n sống sót của họ lại có thể được xếp loại như dân T’ai hay không.
Vân Nam ngày nay, giống như trong quá khứ, là một mảnh chắp vá phức tạp của những người mà giờ đây được gọi là “các dân tộc ít người” – hay các bộ tộc trước đây – thuộc nhiều tŕnh độ văn hóa khác nhau. Dân Bạch trong bản chất là một sắc dân trồng lúa gạo; họ cư ngụ không chỉ ở đồng bằng Đại Lư mà c̣n ở cả các thung lũng phía bắc xa măi đến tại vung sông Dương Tử trên cao, nhưng Đại Lư là trung tâm thực sự của họ. Ở phía nam, chỉ quá Hạ Quan vài dặm, các sắc dân khác chiếm cư đất đai. Bởi thế vương quốc Nam Chiếu không bao lâu đă sáp nhập toàn thể Vân Nam và vượt ra ngoài biên giới của tỉnh hạt hiện tại không thể được mô tả như một vương quốc dân Thái (T’ai), trong ư nghĩa rằng vương quốc sau này tại chính nước Thái Lan, và tại Lào là Thái trong thành phần chủng tộc của dân số của họ. Nam Chiếu là một vương quốc được cai trị bởi một gia tộc có gốc người Thái, được hỗ trợ, có lẽ, bởi một tầng lớp cai trị thuộc cùng giống dân, nhưng cai quản một loạt nhiều sắc dân khác biệt kể cả, khi họ tăng trưởng mạnh hơn, nhiều quận huyện trong đó khu định cư Trung Hoa đă bám rễ. Tính chất này phân biệt Nam Chiếu một cách rất khác biệt với Việt Nam ở phương nam. Tại Việt Nam, người Trung Hoa đă cai trị một dân tộc duy nhất, được cư trú ven biên, thực sự, bởi các bộ tộc miền núi, những các bộ tộc này là ngoại vi và khó được mang đặt dưới sự quản trị trực tiếp. Khi Việt Nam vứt bỏ ách cai trị của Trung Hoa, người Việt trở thành chủng tộc chế ngự và cai trị các bộ lạc như các chư hầu thụ phong.
Tuy nhiên, tại Nam Chiếu đă không có sắc dân chế ngự được trải rộng hay thu gọn. Sắc dân Bạch tại Đại Lư ngay khi đó có thể đông đảo, nhưng khu vực của họ bị giới hạn và chỉ tạo thành một phần nhỏ của Vân Nam. Người Miao (Mèo) th́ rải rác dọc theo nhiều rặng núi; người Na Khi được t́m thấy quanh sông Lichiang (Li Giang) ở phía bắc, nhưng không ở nơi nào khác, và cứ thế danh sách có thể được tiếp tục; nhiều dân tộc nhỏ hơn hay lớn hơn chiếm cứ các thung lũng và đông bằng cạnh hồ nước ph́ nhiêu tách biệt, bị phân cách xa nnhau bởi các rặng núi hoang dại được cư trú, nếu có, bởi các bộ tộc kém tiến bộ chẳng hạn như sắc dân Liu. Sự phân tán này đă là một trợ lực cho sự thành lập một chế độ quân chủ được đặt nền móng vững chắc tại một địa điểm chiến lược, nhưng lại là một trở ngại chí tử cho sự tiến hóa của một dân tộc Nó chính là cá tính dân tộc của giống dân Việt cổ của Việt nam mà ngay dù cả một ngh́n năm dưới sự cai trị trực tiếp của Trung Hoa đă không thể phá vỡ được; chính sự thiếu vắng bất kỳ cá tính dân tộc nào như thế tại Vân Nam đă giúp cho sự sống sót tối hậu của một vương quốc tranh đấu và mạnh mẽ như Nam Chiếu, vốn đă tồn tại trong sáu trăm năm, là điều bất khả thi khi đối diện với sự cố kết và sức mạnh của Trung Hoa. Người Việt Nam, ngay khi độc lập, tiếp tục nằm dưới ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa mạnh mẽ, nhưng từ chối không chấp nhận sự kiểm soát chính trị. Các dân tộc của Vân Nam không bị ảnh hưởng sâu như thế bởi văn minh Trung Hoa, và vẫn có một số bộ phận chưa bị đụng chạm bởi nó, nhưng họ đă không thể duy tŕ được nền độc lập và kết thúc với việc bị sáp nhập toàn bộ vào đế quốc Trung Hoa.
Thật là một sự mỉa mai của lịch sử rằng Nam Chiếu, nước sẽ là, trong một thời gian lâu dài,.trở ngại chính yếu cho sự nới rộng thẩm quyền và ảnh hưởng của Trung Hoa tại phương nam, lại đă được hỗ trợ bởi chính đế quốc Trung Hoa. Vương quốc được cổ vũ trong những năm ban sơ của triều đại nhà Đường để hợp nhất Sáu Chiếu trước đây và thiết lập kinh đô của nó tại Đại Lư (năm 629) vẫn c̣n được nh́n như kẻ thừa kế các quốc gia bé nhỏ vốn nhận được sự bảo trợ của nhà Hán bốn trăm năm trước. Nam Chiếu có vẻ ban đầu chấp nhận vai tṛ này. Năm 647, nó thừa nhận quyền chủ tể của Trung Hoa, và vương quốc được tŕnh bày chính thức như “Khu Hạt hay Quận Huyện Minh: Department of Ming” nằm trong tỉnh miền nam to rộng mới lập là Chien nan. Nhà Đường đă băi bỏ hệ thống Đô Hộ Phủ nhà Hán cổ bằng một hệ thống mới, trong đó các h́nh thức quan trọng của nó vẫn c̣n tồn tại đến ngày nay, là Tao [Đạo?] (sau này là sheng [?]), tức các tỉnh có diện tích lớn. Chien Nan là tỉnh thuộc miền tây và tây nam, bao gồm tất cả phía tây của Tứ Xuyên nằm ở phía nam biên giới ngày nay với tỉnh Cam Túc, và các phần của Vân Nam và Quư Châu như nhà Đường tuyên nhận hay quản trị. Các quan hệ giữa nhà vua Nam Chiếu và các vị hoàng đế ban đầu của nhà Đường th́ tốt đẹp. Các sứ giả đi và đến, và các hoàng tử con các nhà vua đến Tràng An (Ch’angan) để thăm viếng hay học tập. Điều cần phải ghi nhớ rằng vào thời điểm này, đế quốc nhà Đường đang ở chính tột đỉnh quyền lực của nó. Hoàng đế Thái Tông vĩ đại, người thành lập triều đại thực sự, đă không chết cho đến năm 649 và thời gian trị v́ lâu dài của người thực sự thừa kế của ông, Hoàng Hậu họ Vơ [Tắc Thiên, ND], hay sự chế ngự của bà trong chính quyền, kéo dài trong nửa thế kỷ cho đến năm 705, đà bảo đảm cho trật tự và quyền lực liên tục. Thời đại của người cháu trai của bà, Huuan Tsung (Huyền Tông) (hay [Đường] Minh Hoàng (Ming Huang), vị “Hoàng Đế Chói Sáng”) nổi tiếng nhất với hồi kết cuộc bi thảm, trong sự xáo trộn của cuộc nổi dậy của An Lộc Son (An Lu-shan) (755), nhưng chính trong gần nửa thế kỷ đó một thời đại vinh quang trong đó văn minh Trung Hoa sáng chói với một sự huy hoàng chưa hề sánh được.
Đây không phải là các t́nh huống dưới đó một quốc gia phương nam tương đối nhỏ bé lại đi thách đố một cách khôn ngoan quyền chủ tể của Trung Hoa. Nhà vua P’i-lo-ko của Nam Chiếu là một nhà lănh đạo có khả năng. Ông ta đă sử dụng liên minh và quyền chủ tể của nhà Đường để củng cố quyền lực của ḿnh tại miền tây Vân Nam, và điềù này chấp nhận được đối với các vị tổng đốc tỉnh Chien Nan nhà Đường là những kẻ không muốn thấy các sự rắc rối ở biên giới. Ông đă mời năm thủ lĩnh cạnh tranh của ông, các ông hoàng tại Menghua, Paoshan, Chiench’uan, Mitu và Tengch’uan, tất cả đều là các thành phố thuộc miền tây Vân Nam, đến dự buổi tiệc tại kinh đô mới của ông, Đại Lư. Bữa tiệc này được tổ chức tại một ngôi chùa, hay một kiến trúc hai tầng, và khi đám tiệc đă ăn uống đầy đủ và phần nào say rượu, Nhà Vua rút lui, để các khách của ông ở lại. Tầng dưới ṭa nhà vốn đă chất đầy cỏ và rơm, khi đó được châm lửa, tất cả các ông hoàng đều bị chết cháy. Một thần thoại Đại Lư kể rằng ông Hoàng của Tengch’uan có nghi ngờ về lời mời này, nhưng sau cùng có đến dự buổi họp mặt, mang theo một ṿng đeo tay bằng sắt trao cho ông bởi người vợ, có lẽ như một loại bùa chú. Sau bi kịch, các bà vợ của các ông hoàng bị chết đên để nhận xác về chôn cất. Chỉ có bà Hoàng của Tengch’uan là có thể nhận ra thi thể cháy thành than của chồng bà nhờ ṿng tay bằng sắt mà ông vẫn đeo. Người Đại Lư đă mở một lễ hội về biến cố bi thảm này. Một ngôi đền thờ nhỏ đánh dấu địa điểm ngôi chùa làm chết người, và vào ngày 24 của tháng Sáu (khoảng 30 Tháng Bảy [Dương Lịch] các phụ nữ của Đại Lư đă nhuộm đỏ móng tay của họ để tưởng nhớ sự kiện rằng bà Hoàng xứ Tengch’uan bị phỏng ngón tay khi thu hôi lại chiếc ṿng bằng sắt. Có các buổi lễ khác kể cả việc đốt một đống cỏ rơm lớn, để tượng trưng cho ngôi chùa, và một vở kịch được tŕnh diễn có vẻ là nguyên bản địa phương thuần túy dựa trên câu chuyện về sự tàn sát. Một cách kỳ lạ buổi lễ này và các dị đoan liên hệ của nó là một trong số rất ít điều theo đó người dân Đại Lư hiện nay nhắc nhở về lịch sử của họ trong thời Nam Chiếu, mặc dù điều có thể hiểu rơ rằng Nhà Vua P’i-lo-ko khó lấy làm thật hài ḷng để thấy chiến công đặc biệt này được vĩnh cửu hóa trong trí nhớ dân gian.
Năm 738, ông mở rộng vương quốc của ḿnh bằng cách giảm bớt các bộ tộc ở phương bắc, các người Tây Tạng (T’ufan) và Lolo (hay Nosu) là các kẻ trú ngụ tại thung lũng sông Dương Tử trên cao và các quận huyện lân cận. Các bộ tộc này đă từng là mối phiền nhiễu đối với Triều Đ́nh nhà Đường, hay đột kích biên giới; hành động của P’i-lo-ko được đón nhận, và ông ta đă được tưởng thưởng với các tước phong mới, kể cả tước “Vân Nam Vương” – một trong các sự sử dụng sớm nhất của danh hiệu ngày nay cho một vùng rộng lớn của tỉnh. Trong thời nhà Hán, nó chỉ được áp dụng cho huyện Côn Minh. Năm 742 cháu nội nhà vua Nam Chiếu đi đến kinh đô Trung Hoa, Tràng An, đă được tiếp kiến và kết hôn với một công chúa đế triều. Cuộc thăm viếng của Hoàng Tử Feng-chia-yi tượng trưng cho cao điểm của các quan hệ thân thiện giữa nhà Đường và Nam Chiếu; không bao lâu một sự thay đổi chí tử đă làm biến đổi t́nh thân thiện trước đây thành một sự thù hận lâu dài. Hoàng Đế Hsuan Tsung trở nên già lăo; lịch sử thời trị v́ của ông xác nhận việc ông mất sự phán đoán và kiểm soát trong các năm tháng này – thường và ưa bị gán cho ảnh hưởng của nàng hầu sủng ái của ông, Dương Quư Phi, một trong những mỹ nhân nổi tiếng nhất trong lịch sử Trung Hoa. Có lẽ đáng kể hơn là ảnh hưởng và quyền lực lớn lao của người anh của bà ta, Yang Kuo-cheng, đại thần đầu triều và các thái giám trong Triều. Nhà Vua P’i-ko-lo được thừa kế bởi con trai, Ko-lo-feng. Những tên họ này y như người Trung Hoa đă ghi chúng, và không phải Hán tự trong sự cấu tạo, nhưng tượng trưng một cách rơ ràng các từ ba vần (ba âm tiết) trong ngôn ngữ T’ai. H́nh thức Hán tự bên ngoài của chúng không có nghĩa rằng tiến tŕnh Hán hóa chưa đạt đến giai đoạn khi mà danh tính Trung Hoa thay thế cho từ ngữ bản xứ. Tiếng Trung Hoa chỉ có thể (hay ở thời điểm đó chỉ có thể) được viết bằng thứ chữ biểu ư Trung Hoa, và điều cần làm phải lựa chọn từ ngữ có âm tương tự với âm của các từ ngữ ngoại quốc được kư âm. Cách phát âm Hán tự thời nhà Đường giống với tiếng Quảng Đông hiện đại hơn là tiếng Quan Thoại (Mandarin) hiện đại và âm của các danh tính Nam Chiếu này phần lớn không giống với âm tương đương hiện đại.
Trong năm 750, Nhà Vua Ko-lo-feng du hành ngang qua Vân Nam để đến thăm viếng vị phó vương kinh lược Trung Hoa của tỉnh Chien nan, chắc chắn để tiếp nhận sự xác nhận việc thừa kế ngôi vua của ông. Trên đường trở về, ông bị quấy rầy bởi các đ̣i hỏi tống tiền bởi một quan chức Trung Hoa địa phương, và khi ông khiếu nại lên Tràng An, các sự trần t́nh của không được đếm xi/a tới. Ông lập lại lời khiếu nại, phái một sứ bộ quan trọng hơn để mang theo các sự phàn nàn của ông. Một lần nữa, chúng không được ngó ngàng tới, như được nói rằng v́ các lời khiếu nại không bao giờ được tấu tŕnh lên vị hoàng đế già cả bởi các thái giám quá e ngại cho chính họ, một khi các vụ tiống tiền có nguy cơ bị phát giác. Nhà Vua Ko-lo-feng sau đó đă dựng lên một đội quân và tấn công các quận huyện do nhà Đường cai trị lân cận tại miền đông Vân Nam và miền tây Quư Châu (nơi mà sự cai trị của nhà Đường chỉ có trên danh nghĩa). Các quan chức cấp tỉnh nhà Đường khi đó đă lập ra một đôi quân 80,000 người để trấn áp kẻ “nổi loạn”. Ko=lo-feng, kinh hoảng trước các hậu quả này, lại gửi các sứ bộ đến Tràng An, nhưng mục đích của chúng, là để xin lỗi và giải thích, không bao giờ được phép đến được sự hay biết của Hoàng Đế. Đội quân Trung Hoa đi tới vùng phụ cận của Hạ Quan, cửa ngơ phía nam tiến vào đồng bằng Đại Lư. Ở đó nó đă đụng độ và bị đánh bại bởi các lực lượng của Nam Chiếu (năm 751). Điều được tường thuật là 60,000 binh sĩ nhà Đường bị hạ sát, bao vây và chiến đấu đến chết. Một g̣ đất lớn vẫn c̣n được chỉ cho các khách lữ hành như để đánh dấu ngôi mộ tập thể của họ. Trận đánh hăy c̣n được ghi nhớ bởi người dân Đại Lư và trong quận. Một đền thờ nhỏ được dựng trên sườn núi, bên trên g̣ mộ các binh sĩ nhà Đường, và được dành để thờ Li Ming, vị tướng nhà Đường đă hy sinh tính mạng trong đại họa này. Bức tượng của ông đặt trên bàn thờ, và trong năm 1938, khi tin tức sau cùng đă tới được Đại Lư rằng Nam Kinh đă thất thủ trước quân xâm lăng Nhật Bản, điều được loan báo rằng cánh tay phải của Tướng Quân Li Ming bắt đầu rỉ máu. Khách hành hương từ các nơi xa xôi bị thu hút đến xem điều kỳ diệu, thường được giải thích như một điềm rất xấu.
Người Trung Hoa không chấp nhận trận đánh ở Hạ Quan là chung cuộc; trong năm 754 một đội quân khổng lồ khác đă được lâp lên, lần này toan tính xâm lăng vùng Đại Lí từ hướng đông bắc, nhưng nó cũng đụng độ và bị đuổi chạy tại thung lũng Tengch’uan, một trong những con sông chảy theo hướng nam đổ vào hồ Đại Lư. Sự thất trận bị che dấu đối với hoàng đế, kẻ trong thực tế bị đánh lừa để tin tưởng rằng đă có một sự chiến thắng. Trong bất kỳ trường hợp nào, Hoàng Đế Hsuan Tsung sớm có nhiều lo âu thúc bách hơn là việc không có sự thành công tại một biên giới xa xôi. Cuộc nổi loạn lớn lao của An Lộc Sơn đă bùng nổ trong năm 755 và trong mười năm, sau khi đă chiếm giữ chính kinh đô và đánh đuổi vị hoàng đế già nua phải chạy trốn về Tứ Xuyên, đă tàn phá khắp miền bắc Trung Hoa. Khi sau cùng nó đă được trấn áp, Hoàng Đế Huyền Tông đă thoái vị, và người thừa kế ông, khôi phục một cách đau khổ thẩm quyền tại miền bắc, và rằng một cách bất ṭan, đă không có đủ tài nguyên đề dành cho các cuộc chiến tranh tại miền tây nam xa xôi. Nam Chiếu đă lợi dụng bởi cuộc nổi loạn để củng cố chiến thắng của nó. Liên minh với người Tây Tạng, nó đă thực hiện các cuộc đột kích và đột nhập vào lănh thổ nhà Đường đă mở rộng một cách rộng lớn lănh địa của Nam Chiếu. Ở phía tây, Ko-lo-feng, giờ đây nhận thức rằng sự căi cọ của ông với nhà Đường khó có thể kết thúc mau lẹ, đă hướng sự chú ư của ông vào việc khai mở con đường khác để tiếp xúc với thế giới bên ngoài vương quốc của ông. Trong các năm từ 757 đến 763, ông đă xâm lăng Miến Điện và chinh phục các vùng đất ph́ nhiêu của thung lũng miền thượng lưu sông Irrawaddy. Cuộc chinh phục này có ảnh hưởng đến việc tan ră của vương quốc ban sơ Pyu, tại miền Hạ Miến, và sau hết, đă giúp cho các cuộc đột nhập của người Miến Điện trở nên khả thi, và, xem ra, cho sự tiêu diệt phần nào toàn bộ các cư dân nguyên thủy thuộc chủng tộc Mon.
Nam Chiếu giờ đây là một quyền lực phải được ước tính tới, và bởi triều đại nhà Đừng không bao giờ hồi phục hoàn ṭan từ các ảnh hưởng của cuộc nổi loạn của An Lộc Sơn, nó không bao giờ có thể nghĩ đến sự tái chinh phục Vân Nam. Ngược lại, vương quốc Nam Chiếu tiếp tục các cuộc xâm lấn của nó vào đế quốc suy yếu trong nguyên một thế kỷ, chỉ với các khoảng cách ḥa b́nh ngắn ngủi. Trong những năm tiếp theo sau sự kết thúc cuộc nổi loạn của An Lộc Sơn (763), các đội quân của Nam Chiếu nhiều lần xâm nhập Tứ Xuyên trong sự liên minh vơi người Tây Tạng là những kẻ khi đó là một dân tộc tích cực và tạo bạo thường xuyên đột kích biên giới Trung Hoa và c̣n xâm nhập sâu vào các tỉnh. Phần lớn miền nam Tứ Xuyên bị sáp nhập vào vương quốc Nam Chiếu trong các năm này. Ḥa b́nh được thiết lập trong một lúc năm 793, khi Nam Chiếu thừa nhận quyền chủ tể của Trung Hoa, đă gửi cống phẩm tượng trưng, nhưng giữ lại nền độc lập thực sự của nó. Các sự thất bại gần đó trong các chiến dịch tại Tứ Xuyên có thể đă xui khiến nhà vua Nam Chiếu thực hiện cử chỉ này, nhưng cũng là bởi sự kiện rằng cách thức Trung Hoa vào thời đại đó (và của nhiều thời kỳ sau này) đă không nh́n nhận bất kỳ mối quan hệ nào giữa Trung Hoa với một vương quốc láng giềng khác hơn mối quan hệ của quy chế chủ tể - triều cống. Cống phẩm có thể nhỏ, hay kém trị giá hơn nhiều các tặng phẩm mà hoàng đế Trung Hoa ban tặng để bồi đáp, nhưng sự thừa nhận quyền chủ tể là thiết yêu.
Sau một thế hệ ḥa b́nh tương đối, Nam Chiếu đă tái lập chính sách hiếu chiến của nó vào năm 829 với một cuộc xâm lăng vào Tứ Xuyên, thực sự đă diễn ra tại tỉnh lỵ của nó, Thành Đô (Ch’engtu), và đă vươn tới các phần phía bắc của tỉnh này. Dĩ nhiên, Tứ Xuyên cho đến giờ là cuộc chinh phục đáng mong ước nhất trong phạm vi quyền lực của Nam Chiếu. Nó là một tỉnh với sự phong phú vô cùng lớn lao, một cánh đông lúa mênh mông, và các khu định cư rất gần cận. Cuộc chinh phục vĩnh viễn Tứ Xuyên sẽ tạo ra một quyền lực mới vĩ đại tại tây nam, có thể không bao giờ lại phải chịu thần phục trước các triều đại thống trị ở bắc Trung Hoa. Giao tranh ít nhiều liên tục diễn ra để quyết định số phận của tỉnh này măi cho đến năm 873 khi một cuộc xâm lăng lớn lao của Nam Chiếu bị đánh bại và đẩy lui ra khỏi tỉnh sau khi mở cuộc bao vây Thành Đô và các thành phố quan trọng khác. Cùng lúc, và để đánh vào cạnh sườn các sự pḥng thủ của Tứ Xuyên, Nam Chiếu đă nhiều lần tấn công các phần do Trung Hoa chiếm giữ tại miền đông Quư Châu và miền tây Hồ Nam, chiếm cứ và sáp nhập nhiều huyện nằm trong phạm vi vương quốc. Trung Hoa khi đó cai trị phần giờ đây là Bắc Việt Nam, châu thổ sông Hồng, và tỉnh này cũng bị xâm lăng bởi Nam Chiếu ba lần, giữa các năm 861 và 866, chỉ có cuộc xâm lăng cuối là đă bị đánh bại một cách rơ rệt. Trong khi các cuộc xâm lăng phương nam này đang tiến hành, các đội quân của Nam Chiếu đă xâm nhập vào miền tây tỉnh Quảng tây, để cắt đứt người Trung Hoa tại An Nam (Bắc Việt Nam) khỏi sự ttruyền thông trực tiếp với quê hương của họ.
Sự thất trận của cuộc xâm lăng lớn lao sau cùng vào Tứ Xuyên trong năm 879 và vào An nam ít năm trước đó đă đánh dấu sự suy giảm của chủ nghĩa quân phiệt xâm lấn của Nam Chiếu. Nó diễn ra đúng là quá sớm để đạt được một sự thành công kéo dài. Từ năm 868 khi cuộc nổi loạn to lớn của Hoàng Sào (Huang Tsao) làm lung lay triều đại nhà Đường đang suy tàn và mở màn cho một thời kỳ ba mươi năm của sự hỗn loạn và nội chiến sâu xa, kết thúc trong sự sụp đổ của đế quốc trung ương tập quyền và của chính triều đại nhà Đường, một cơ hội được mang đến sẽ, sớm hơn một hay chưa đầy một thế kỷ, đưa đến một sự chinh phục của Nam Chiếu phần lớn miền nam Trung Hoa. Cuộc nổi loạn và hậu quả của các cuộc nội chiến của nó giữa các vị tổng đốc bề ngoài trung thành, hay phản loạn, đối với một Triều Đ́nh bất lực, đă là một sự khai thông sẽ có thể bị khai thác với sự chống đối tối thiểu. Với sự sụp đổ của nhà Đường, miền nam Trung Hoa sắp bị chia cắt trong năm mươi năm thành một số quốc gia, tất cả đều tuyên nhận là “đế quốc”, nhưng trong thực tế, chỉ cai trị chỉ một và nhiều nhất hai tỉnh. Song trong thời đại phân hóa và suy yếu này, Trung Hoa lại được miễn nhiễm khỏi các cuộc tấn công của Nam Chiếu nhiều hơn trước đó. Điều được nhận thấy rằng trong thời kỳ này Việt Nam đă vứt bỏ ách thống trị của Trung Hoa, vốn đă sẵn bị suy yếu nghiêm trọng bởi cuộc nổi loạn của đôi quân Trung Hoa tại biên giới Nam Chiếu – An Nam, một cuộc nổi loạn đă mở màn cho cuộc nổi lọan to lớn của Hịang Sào. Nhưng Nam Chiếu không lợi dụng ưu thế để đẩy mạnh các sự tuyên xác của nó tại nước Việt Nam giờ đây độc lập, hay không quấy phá các nhà vua địa phương nổi dậy tại miền nam Trung Hoa sau khi có sự sụp đổ của nhà Đường.
Trong những năm tại họa cuối cùng của nhà Đường, đă có ḥa b́nh giữa vương quốc và đế quốc đang suy sụp. Một công chúa Trung Hoa được t́m kiếm và kết hôn với Nhà Vua ngay đến tận năm 881 và trong năm 924, Nam Chiếu đă t́m cách liên minh và t́nh hữu nghị với vương quốc thừa kế của nhà Nam Hán, được thiết lập tại Quảng Châu. Có vẻ v́ đă quyết đoán vào cuối thế kỷ thứ chin rằng Trung Hoa th́ quá hùng mạnh khiến cho một cuộc chinh phục vĩnh viễn vào Tứ Xuyên thành một dự án [bất ?] khả thi, trong thế kỷ thứ mười Nam Chiếu hài ḷng để ngắm nh́n sự tan vỡ của đế quốc nhà Đường trong sự bảo đảm rằng sự đe dọa khác nữa cho nền độc lập của nó không thể phát sinh từ Trung Hoa khi mà t́nh trạng này tồn tục. Các khó khăn nội bộ cũng quấy rầy chính Nam Chiếu, và các việc này xem ra có căn nguyên từ các sự bất đồng giữa dân số Trung Hoa đông đảo bị chinh phục , hay các dân số ḥa nhập trọn vẹn hơn vào văn hóa Tru ng Hoa, với các phần tử phi Trung Hoa nhiều dân tộc tính hơn, tại các phần miền tây trước đây của vương quốc. Sự chiếm giữ hơn nữa các miền hay quận Trung Hoa vào một thời điểm như thế chỉ làm gia tăng các khó khăn này, và nhận định này có thể đă đóng một vai tṛ quan trọng trong thái độ ḥa b́nh hơn mà Nam Chiếu giờ đây khoác lên ḿnh.
Điều chưa rơ rệt, hay nó sẽ c̣n là như thế trong rất nhiều năm, rằng giới hạn đặt trên sự bành trướng của Nam Chiếu sau chót dẫn tới sự thu nhỏ và chung cuộc đến sự loại trừ nền độc lập. Không giống như Việt Nam, nước đă có thể và đă bành trướng vào miền nam gần như trống không của xứ sở hiện đại, sau khi đă khắc phục nước Chàm tương đối yếu, Nam Chiếu chỉ có thể bành trướng với sự tổn thất của Trung Hoa. Sự chinh phục vùng Thượng Miến th́ khó khăn để duy tŕ; khí hậu bất lợi cho một đội quân Vân Nam, và các sự truyền thông giữa cao nguyên và thung lũng sông Irrawaddy là một trong các công việc tồi tệ nhất trên thế giới. Để dành được sức mạnh thực sự vượt quá các đồng bằng lúa gạo chật hẹp và các thung lũng của Vân Nam, phân cách như chúng bị phân cách bởi các dải núi non trống không to lớn, Nam Chiếu phải chiếm đóng thường trực và khi đó phải thực dân hóa và đồng hóa trọn vẹn một khu vực thực sự giàu có với dân số đông đảo. Các miền Tứ Xuyên và Hồ Nam đều như thế, nhưng tỉnh kể trước th́ gần cận với sức mạnh chủ yếu của bất kỳ quyền lực nào cai trị miền bắc Trung Hoa, và miền kể sau bị ngăn cách với Vân Nam bởi tỉnh Quư Châu nhiều núi đồi và nghèo kém. Khi nh́n các khó khăn sẽ phải khắc phục trong các chiến dịch được thực hiện bởi Nam Chiếu chống lại nhà Đường, sự thành công của họ là điều đáng ngạc nhiên, và sự thất bại sau chót để củng cố nó là điều được ước định. Nam Chiếu, ở thời đại đó, đối diện với một đế quốc Trung Hoa tan ră, đế quốc mà sự phân ly có thể tồn tục trong nhiều năm, hăy c̣n được chứng minh là chung quyết – không ai có thể nói ǵ được – có thể tin tưởng rằng nó được miễn nhiễm và có thể trở nên được thiết lập một cách vững chắc trong miền mà nó đă sáp nhập trọn vẹn.
Khu vực của vương quốc trong thực tế th́ rộng lớn vào lúc có sự kết thúc các cuộc chiến tranh với nhà Đường. Nó bao gồm tất cả vùng Vân Nam, một phần vùng Thượng Miến, phần tỉnh Tứ Xuyên nằm phía nam sông Dương Tử, nửa phần phía tây của Quư Châu, một phần nhỏ phía tây tỉnh Hồ Nam, và một số các huyện biên giới của phần giờ đây là tỉnh Quảng tây. Một vương quốc rộng lớn, nhưng vẫn mới chỉ có kích thước bằng của một trong mười tỉnh Trung Hoa to lớn trên đó nhà Đường đă tổ chức thành đế quốc của họ. Hơn nữa, phần lớn lănh thổ này hoặc không có người ở hay là nơi cư ngụ của các bộ tộc chậm tiến bộ hơn nhóm dân Nam Chiếu thống trị hay các người định cư Trung Hoa mà họ đă chinh phục. Năm mươi năm sau này, vào khoảng niên đại có sự thành lập của triều đại nhà Tống ở Trung Hoa, Nam Chiếu đă mất sự kiểm soát hữu hiệu trên các bộ tộc tại Quư Châu, và chính v́ thế, đánh mất các huyện tại Hồ Nam; và hơn thế, đă từ bỏ miền nam Vân Nam cho các cư dân bộ tộc của nó và rời khỏi thung lũng sông Irrawaddy. Các lănh thổ này khi đó không quay trở lại về Trung Hoa; chúng chỉ đơn thuần rơi lại vào các sự phân chia nhiều bộ tộc mà Nhà Vua Ko-lo-feng và các kẻ thừa kế ông đă trấn áp một cách dữ dôi.
Lịch sử của Việt Nam và của Nam Chiếu chính v́ thế trong một số đường hướng, chạy song hành với nhau, sau đó đă phân kỳ. Cả hai đều mang nợ văn hóa đầu tiên của chúng nơi sự chinh phục của Triung Hoa; cả hai đều thành công trong việc trục xuất thẩm quyền Trung Hoa, trong khi giữ lại văn hóa; Nam Chiếu dành đạt được sự độc lập này hai thế kỷ trước khi Việt Nam làm được như thế. Nhưng một khi thoát ra khỏi sự thống trị của Trung Hoa, người Việt Nam đă khởi sự cuộc “Nam Tiến” nhằm mở rộng xứ sở của họ trên căn bản tồn tục của sự định cư và di dân, ngay cả khi sự thống nhất về chính trị c̣n suy yếu. Họ đă không t́m kiếm đất đai từ Trung Hoa; không lúc nào trong lịch sử mà một nhà cai trị Việt Nam lại t́m cách lợi dụng từ sự suy yếu diễn ra tại Trung Hoa để xâm lăng đế quốc. Nam Chiếu đă làm đúng điều ngược lai. Đă không có sự nam tiến, bởi không có vùng đất nhiều cám dỗ nhưng hầu như trống không để chiếm cứ. Sự. bành trướng phải mở vào Trung Họa có nghĩa đối đầu với một quyền lực mà ngay khi đang suy giảm cũng vẫn c̣n rất đáng sợ, và một khi tái thống nhất sẽ không thể kháng cự được. Nam Chiếu đă thiết lập một tiếng tăm chết người của việc trở thành một mối đe dọa tiềm ẩn cho sự thống nhất của đế quốc Trung Hoa; Việt Nam đă thiết lập một tiếng tăm vô hại của việc quan tâm đến sự bành trướng về phương nam, cách xa khỏi Trung Hoa, nhưng mang theo văn hóa Trung Hoa – và quyền chủ tể tượng trưng – cùng với nó. Nam Chiếu có thể, và đă, chấp nhận văn hóa Trung Hoa gần như trọn vẹn như Việt Nam đương đại đă làm, nhưng nó đă không có cùng các hậu quả. Tại Việt Nam, nó đă hành động như một lư do có giá trị cho chính sách bất can thiệp sau này của Trung Hoa vào quốc gia đó, bởi Việt Nam không thể bị nh́n như một kẻ thù của đế quốc. Tại Nam Chiếu, vốn là một kẻ thù tích cực, văn hóa Trung Hoa cung cấp một lư do và một phương cách để khắc phục kẻ thù và sau hết sáp nhập vương quốc./-
----
Nguồn: C. P. FitzGerald, The Southern Expansion of the Chinese People, Chapter Three: Chinese Expansion By Land: Yunnan, các trang 39-59, New York & Washington: Preager Publishers, 1972.
Ngô Bắc dịch
14/09/2009
http://www.gio-o.com/NgoBac.html
© gio-o.com 2009