B. ROBERTSON

 

BÁO CÁO CỦA B. ROBERTSON,

LĂNH SỰ ANH QUỐC, LIÊN QUAN ĐẾN

CUỘC THĂM VIẾNG HẢI PH̉NG VÀ HÀ NỘI TẠI BẮC KỲ, 1876

 

Đệ tŕnh cả hai viện của Quốc Hội
theo lệnh của Nữ Hoàng

1876

 

Ngô Bắc dịch

 

 

LONDON: Ấn hành bởi Nhà In Harrison and Sons,

[C.—1556], Giá 2 xu

 

---

 

BÁO CÁO CỦA B. ROBERTSON LIÊN QUAN ĐẾN CUỘC THĂM VIẾNG CỦA ÔNG TẠI HẢI PH̉NG VÀ HÀ NỘI , BẮC KỲ, 1876

 

---

 

Sir B. Robertson gửi Bá Tước vùng Derbỵ -- (Đà nhận ngày 11 tháng Bẩy)

 

Kính thưa Ngài,

 

     Tôi xin hân hạnh chuyển một bản sao điện văn và các tài liệu đính kèm mà tôi đă gửi đến Sứ Thần của Nữ Hoàng tại Bắc Kinh, báo cáo việc tôi trở lại từ Hải Pḥng và Hà Nội thuộc Đông Kinh [Bắc Kỳ].

 

     Kính tŕnh,

     (Đă kư tên)       B. Robertson, Lănh Sự

 

-----

 

 

Đính kèm 1.

 

Ngài B. Robertson gửi Ngài T. Wade,

 

(Trích lại)                                                  Thành Phố Quảng Châu, ngày 9 tháng Năm 1876

 

     Tôi hân hạnh để thông tin ông rơ là tôi đă khởi hành, đúng theo chỉ thị của ông ngày mồng 2 cùng tháng này, trên con tàu “Egeria” của Nữ Hoàng để thăm viếng các hải cảng Hải Pḥng và Hà Nội, được mở ra sau này bởi người Pháp tại Đông Kinh [Tonquin trong nguyên bản, để chỉ Bắc Kỳ, chú của người dịch] và trước tiên đă thả neo ở Apuwan [?], một nhóm các đảo gần cửa sông mang tên Cửa Cấm, một chi nhánh của Sông Cái [trong nguyên bản ghi là Songkoi, chú của người dịch] hay sông Hồng, Hải Pḥng tọa lạc nơi của sông kể trên, và Hà Nội trên chi nhánh kể sau.  Có được một hoa tiêu, người đă dẫn tàu vượt qua băi cát ngầm của con sông và thả neo con tàu bên ngoài Khu Định Cư tại Hải Pḥng trước buổi trưa ngày 7 tháng này.

 

     Hải Pḥng tọa lạc trên bờ phải của Cửa Cấm và có một con kinh thẳng góc dẫn đi từ đó, tại giao điểm có một đồn Pháp được xây dựng vũng chắc, đắp bằng đất.  Vùng đất hoàn toàn phẳng ở cả hai bên, với các rặng đồi cách xa khoảng bốn dậm, và Khu Định Cư Pháp đă được tạo dựng bởi việc nâng cao nền bằng bùn đất, hay đúng hơn bằng đất sét, được đào từ một con kinh sẽ bao quanh khu nhượng địa, như nó được gọi, khá giống như kiểu cách theo đó Khu Định Cư của Anh Quốc tại Shamien, thuộc Thành Phố Quảnng Châu đă bị hỏa lực càn quét một bên sườn.  Hiển nhiên đây là một công tŕnh đ̣i hỏi nhiều lao động, đă được theo đuổi một cách tích cực dưới sự chỉ huy của các kỹ sư Pháp, với sự trợ lực của các phu An Nam, một lực lượng lao động vô giới hạn, với giá 6 xu (3d.)  [giá biểu tương đương với (3d.) tức 3 pennies của đồng bảng Anh, được chua kèm trong nguyên bản, chú của người dịch] mỗi người một ngày.  Tôi phải nói rằng ít nhất bốn mươi mău Anh (acres) đang được xây dựng, và các ṭa nhà đă sẵn được dựng lên trên các phần đă hoàn tất, và khi cứu xét rằng công tŕnh này mới chỉ được khởi sự hồi tháng Chín năm vừa qua, nó cho thấy sự tiến triển rất mau.  Trong khi chưa có ảnh hưởng xấu nào được cảm thấy từ việc lật úp cánh đồng bùn đất bao la này, nhưng rất có thể điều đó sẽ xảy ra khi cơn nóng dữ dội sẽ chế ngự từ tháng Năm đến cuối tháng Chín tiến tới.  Ngôi làng là một con đường đơn sơ nằm dọc theo bờ bên phải của con kinh, bắt đầu từ công trường phía đằng trước lối vào đồn, và được cấu thành bởi các túp lều rạ trông rất tồi tàn, được cư ngụ bởi dân bản xứ, và xen kẽ đó đây bởi các cửa hàng Pháp trông thuộc hạng khá hơn, chính yếu là các nơi bán rượu nho và rượu mạnh.  Tuy nhiên có một ngôi chợ rất tốt, tràn ngập cá, gà vịt, và thịt ḅ, nhưng không có thịt trừu, và các loại rau, và một lần trong tuần có tổ chức một phiên chợ gọi là “hội chợ lớn’, khi người dân quê lũ lượt kéo đến với hàng hóa và sản phẩm của họ.  Trước khi người Pháp đến chiếm đóng, hiếm có một túp lều, ngay cả ở trong Hải Pḥng, và nay đă có một ngôi làng khá lớn, với các ngôi nhà tranh thông thường của An Nam được dựng lên ở khắp hướng.  Tuy nhiên, vào những ngày mưa, con đường hoàn toàn không thể đi lại được bởi ngập trong bùn, nhưng gần đồn, một lớp ngói gỗ đă được lót lên con đường, có giúp cải thiện đôi chút đối với t́nh trạng sự việc b́nh thường.

 

     Hải Pḥng là điểm cao nhất mà các con tàu ngập dưới nước mười bốn bộ Anh (feet) có thể ngược gịng sông (Cửa) Cấm, và hiện nay, là hải cảng chuyển vận của Hà Nội, thủ phủ của Tỉnh [Province trong nguyên bản, đúng ra phải là của cả miền bắc, chú của người dịch], vốn tọa lạc trên Sông Cái hay Sông Hồng, cách khoảng 60 km theo đường thẳng và 145 cây số theo đường thủy.  Từ các công tŕnh rộng lớn đang được kiến tạo, có vẻ như người Pháp có ư định biến nó thành nơi thả neo cho các tàu quốc tế; nhưng Sông Hồng, đổ ra biển ở khoảng mười hai dậm phía nam Cửa Cấm, là một con sông điều ḥa, với mực lên cao và mực hạ thấp khi con nước lên dâng cao từ hai muơi sáu đến ba mươi bộ, mặc dù trong mùa này của năm, gịng nước rất thấp; trong thực tế, việc này làm tôi liên tưởng đến Dương Tử Giang, các cồn cát và bờ cát ngăn trở sự tiến tới từ ngoài biển.  Khi được khảo sát kỹ càng, tôi có thể tưởng rằng sẽ không có khó khăn to lớn nào cho sự hải hành đến Hà Nội hơn những ǵ mà sông Dương Tử đă đặt ra cho thành phố Hán Khẩu, và chúng ta biết rơ rằng khó khăn đó đă được khắc phục.  V́ thế tôi không nh́n thấy tầm hữu dụng của các công tŕnh hiện nay đang được theo đuổi với một phí tổn lớn lao tại Hải Pḥng, nhưng có thể có những lư do cho việc đó mà tôi không hay biết được.

 

     Hải Pḥng nối liền với Hà Nội hoặc bằng Sông (Cửa) Cấm hay bằng các con kinh đào, mà con kinh sử dụng nhiều nhất mà tôi đă đề cập đến có lối vào (con kinh) ở ngă ba đó [Hải Pḥng].  Sau khi chạy khoảng hai mươi ba dậm theo con kinh này, các tàu thuyền quẹo vào một con kinh đào khác, và, sau khi đi khoảng bảy mươi bảy dậm, sẽ tiến vào con sông chính, Sông Cái hay Sông Hồng, và theo đó đến Hà Nội, cách xa khoảng bốn mươi lăm dậm.  Nước tại các kinh đào này trong mùa này th́ rất thấp và chỉ lên cao chút ít với thủy triều của hai con sông bồi tiếp chúng.  Trong mùa hè các cơn nước dâng đủ cao cho các tàu chạy nhanh bằng hơi nước hay các tàu chạy hơi nước cỡ nhỏ ngập dưới nước bốn hay năm bộ Anh, hay có thể sâu hơn.

 

     Tại Hải Pḥng ít có ǵ để xem và không có nhiều điều để t́m hiểu, bởi công việc được giải quyết tại thủ phủ, Hà Nội, nơi mà người dân bản xứ và các thương nhân Trung Hoa cư ngụ.  Đă có lúc tôi gần như tuyệt vọng về việc có thể tiến tới địa điểm kể sau, bởi các tàu lưu thông bản xứ không có cái nào cả, không có boong tàu hay có mái che tối thiểu, và khoảng cách th́ quá xa để có thể liều đến đó bằng tàu hơi nước truyền tin của chiếc “Egeria”.  Tuy nhiên, tôi đă t́m thấy một chiếc thuyền thương mại hơi nước chạy nhanh có tên là tàu “City of Whampoa: Thành Phố Hoàng Phố”, mà tôi đă thành công trong việc thuê bao, bởi tôi cảm thấy, trừ khi ḿnh đến được thủ phủ, mục tiêu của cuộc thăm viếng của tôi tại Bắc Kỳ sẽ bị thất bại.  Chính bới thế, tôi vui ḷng thuê mướn thuyền đó, bất kể đến tiện nghi của nó ra sao.

 

     Đại Tá Castle, tư lệnh chiếc tàu Egeria của Hoàng Gia, và cá nhân tôi đă được đón tiếp một cách tử tế và ân cần nhất bởi ông Turc, Tổng Lănh Sự Pháp tại Hải Pḥng, vị Chỉ Huy đồn, Thiếu tá Dubeaux, và ông Gres, Giám Đốc Quan Thuế.  Viên lănh sự kể trên trao cho tôi mọi tin tức mà tôi yêu cầu liên quan đến công cuộc mậu dịch của vùng đất đó, và các tài nguyên của nó; nhưng nói một cách thẳng thắn, nó hăy c̣n trong t́nh trạng sơ khai, và nằm trong tay người Trung Hoa ở Hà Nội; và liệu nó có phát triển thành tầm mức quan trọng hay không tùy thuộc chính yếu vào việc tái lập các mối giao thương với miền Vân Nam của Trung Hoa.  Ông đă cung cấp cho tôi một danh sách các món hàng chính yếu được nhập cảng và xuất cảng xuyên qua Hải Pḥng, và bảng kê các hàng xuất cảng, từ 15 tháng Chín năm 1875 đến ngày 12 tháng Tư năm 1876, cho thấy một tổng trị giá là 198,914.46 lạng [ vàng ?, trong nguyên bản đính kèm có quy định 72 lạng bằng 100 đô la (Tây Ban Nha ?), chú của người dịch[; về nhập cảng không có ǵ hết.  Ông có thể t́m thấy các bản sao các tài liệu này trong phần phụ lục của bản Báo Cáo này.

 

     Sở Quan Thuế tại Hải Pḥng đặt dưới quyền kiểm soát của một viên chức người Pháp, ông Jules Gres, với chức vụ Thanh Tra; nhưng có ba hay nhiều hơn người An Nam cũng tự xưng là Thanh Tra hay Phó Thanh Tra Quan Thuế.  Tôi đến gặp các viên chức này tại Văn Pḥng Quan Thuế và được tiếp đón với sự lịch sự tối đa; nhưng họ đă trao, hay chỉ có thể trao rất ít thông tin liên quan đến công cuộc mậu dịch của xứ sở, cùng bày tỏ ước muốn của họ được trông thấy các thương thuyền Anh Quốc cặp bến hải cảng.

 

     Vào ngày 10 tháng này, được tháp tùng bởi Đại Tá Castle, tôi đă dùng tàu chay nhanh bằng hơi nước để đến Hà Nội.

 

     Có it điều để được xem về xứ sở này, các bờ của con kinh đào th́ quá cao; nhưng từ những ǵ tôi trông thấy, nó có vẻ ph́ nhiêu, và có trồng ngô và đường mía, khoai lang, và các sản phẩm khác của thổ ngơi này.  Tuy nhiên, khi đổ vào sông chính, Sông Cái hay Sông Hồng, ta có thể nh́n thấy dễ dàng hơn; và nơi đây là hàng tre và các loại cây khác, với làng mạc và các cánh đồng, tất cả cùng tạo ra một quang cảnh đẹp tự nhiên hơn nhiều, và cho thấy bằng chứng của một t́nh trạng tiến bộ về canh nông.  Tôi có được thông báo là ít hay không có sự lưu thông thuyền hay thuyền buồm sẽ được trông thấy, nhưng tôi lại nhận thấy khá đông hoạt động giao thông đó; và từ số lưới cắm cọc và các thuyền sử dụng, hiển nhiên có một số cung cấp lớn về cá; các chiếc bè bằng gỗ hay tre thường hay được bắt gặp; và nói chung có khá nhiều bằng chứng về một dân số giàu có và lấy làm thỏa măn.

 

     Vào mùa này, tính từ tháng Mười Hai đến tháng Năm, Sông Hồng (Sông Cái) ở mực nước thấp nhất, các giải cát kéo rất căng dọc theo gịng nước, và các mỏm của chúng nhô gần như đến giữa gịng sông.  Vào khoảng tháng Năm, tuyết và đá tan từ các ngọn núi vùng Phía Trên Bắc Kỳ và Vân Nam đổ xuống và gịng sông dâng lên rất nhanh, đạt tới độ cao ba mươi bộ Anh, và thường cuốn đi các bờ sông, và gây lụt lội cho xứ sở, với sự phá hủy lớn lao về sinh mạng và tài sản.  Chúng tôi có đi ngang qua một vài công tŕnh rộng lớn được theo đuổi để sửa chữa một khoảng [đê] vỡ khổng lồ mà các cơn nước dâng năm qua đă tạo ra, và dọc theo toàn thể con sông và các kinh đào, các sự chuẩn bị được thực hiện bởi việc đắp đề và chống đỡ bờ sông.  An Nam rơ ràng đă bị khốn khổ bởi cùng phạm một lỗi lầm như Trung Hoa trong việc trị thủy.  Thay v́ phải nạo vét ḷng sông, từ năm này sang năm khác bị lấp đầy bởi phù sa, cát và đất sét được đổ xuống từ vùng đất cao, các nhà cầm quyền lại đi đắp đê, và như thế với gịng thời gian, đáy sông được nâng cao hơn mặt đất kề bên, và nếu có xảy ra một cuộc vỡ đê khi nước dâng cao, toàn thể xứ sở bị ngập lụt và trở nên một hồ nước bao la.  Nguyên do gây ra nạn lụt từ sông Dương Tử cũng là như thế, và đặc biệt là đối với con sông Hoàng Hà tại Trung Hoa, và hiển nhiên cũng xảy ra với Sông Cái, hay Sông Hồng tại Bắc Kỳ.

 

     Việc tiến vào thành phố Hà Nội, thủ phủ của Bắc Kỳ, rất êm xuôi, tàu rẽ theo con sông, nơi đây chiều rộng từ bờ bên này sang bờ bên kia khoảng một dậm hay hơn, mang lại một cái nh́n về Thị Trấn và Khu Định Cư Người Pháp đang được xây cất giống như tại Hải Pḥng, với các dẫy nhà quân đội và các ṭa nhà Lănh Sự được dựng trên đó.  Thành phố lên cao dần dần từ con sông, và có trồng cây gỗ và cây che lá xanh và nh́n trong một ngày sáng ánh mặt trời, có một vẻ quyến rũ.  Chúng tôi thả neo ở băi đáp lúc 10:30 sáng ngày Thứ Hai, mồng 10, và tức thời lên bờ để để đến thăm viếng Bá Tước de Kergaradee, Lănh Sự Pháp, sinh sống tại Trường Thi (Khảo Thí) An Nam, cách xa gịng sông ít nhất một dậm rưỡi, nhưng thấy ḿnh không cách chi thuê mướn được các chiếc kiệu, Đại tá Castle và tôi đă đến nơi cư ngụ của Giám Mục, Đức Ông Pergenier [?, đúng là Puginier, như tác giả viết ở phần cuối báo cáo, chú của người dịch] để hỏi mượn kiệu.  Tại nơi đây, trong khi đang nói chuyện với Giám Mục, ông Aumoitte, Chánh thư Kư của Ṭa Lănh Sự ghé đến, cho hay ông Turc, Lănh Sự Hải Pḥng, đă gửi một lời nhắn  theo đường bộ báo tin cho Bá Tước de Kergaradee về chuyến viếng thăm dự định của chúng tôi, và người mang tin mới chỉ vừa đến trước chúng tôi môt tiếng đồng hồ, và các chiếc kiệu đă đến để đưa chúng tôi đến Ṭa Lănh Sự.  Các chiếc kiệu này đến thật đúng lúc và chúng tôi tiếp tục hành tŕnh.

 

     Khi đến Ṭa Lănh Sự tôi được đón tiếp bởi ông de Kergaradee với thật nhiều phép lịch sự, và thấy ông đă sửa soạn pḥng nghỉ cho chúng tôi.

 

     Các giới chức thẩm quyền An Nam tại Hà Nội là Tổng Đốc [viết sai là Tong duc trong nguyên bản, chú của người dịch], hay Kinh Lược Sứ (Viceroy), và Tuần Phủ [Chuan-Phu, tiêng Việt trong nguyên bản, chú của người dịch], hay Futai (?).  Ông de Kergaradee hỏi tôi là liệu tôi có thích gặp họ hay không, hay ít nhất một người trong họ, bởi viên Tổng Đốc đang bị đau ốm, và tôi nói tôi muốn gặp, do đó danh thiếp của tôi đă được gửi đi.  Và không lâu sau đó viên Tuần Phủ đă đến thăm tôi, và tôi nhớ đă nh́n thấy ông ta tại Thành Phố Quảng Châu khi ông đến để nói chuyện với quan Kinh Lược Juilin (?).  Ông nhắc tôi về việc đó, và đề cập đến một vài t́nh huống, và có vẻ hân hạnh để gặp tôi.  Ông mang theo danh thiếp của viên Tổng Đốc, với lời cáo lỗi, rằng ông quá đau ốm để ra khỏi nha môn [yamen, tiếng Hán trong nguyên bản, chú của người dịch].  Dĩ nhiên không có ǵ quan trọng ngoại trừ một cuộc thăm viếng xă giao, và trong buổi chiều, được tháp tùng bởi ông de Kergaradee, Chỉ Huy Trưởng Chapotot, và Đại Tá Castle, cùng với đội quân danh dự dàn chào của Thủy Quân Lục Chiến Pháp, tôi đă đến đáp lễ cuộc thăm viếng của ông ta tại Ṭa Thành.  Các nha môn An Nam, hay các Phủ như họ gọi chúng, rất giống với các công sở của Trung Hoa.  Một hàng lính danh dự đứng xếp hàng dàn chào trong sân, và viên Tuần Phủ ra tận cổng để đón chúng tôi.  Sau một số câu trao đổi ông bày tỏ hy vọng tôi lấy làm hài ḷng về cuộc thăm viếng của tôi, và ghi nhận rằng tôi đă từ nơi rất xa đến thăm Hà Nội; và tôi đă đáp lại rằng khi đến Hải Nam để mở của nó cho công cuộc mậu dịch của Anh Quốc, tôi đă băng qua Vịnh Bắc Việt để thăm viếng Đại Diện của Chính Phủ Pháp tại Hà Nội, Anh và Pháp có t́nh hữu nghi thân thiết nhất, và đó là mục đích duy nhất của tôi.  Sau đó ông có dọ hỏi là liệu có nhiều mậu dịch tại Kiung-chow hay không, và liệu các tàu của Anh có từ đó cặp bến các hải cảng của Bắc Kỳ hay không.  Tôi đă trả lời chắc chắn chúng sẽ đến nếu Chính Quyền An Nam tán thành việc buôn bán với nước ngoài.  Sau đó ông cho hay ông muốn tŕnh diện với tôi binh sĩ và các thớt voi của ông, và v́ thế chúmg tôi đi dến băi thao diễn gần đó, có diện tích khá lớn, nơi có khoảng 2,000 lính An Nam, trang bị vũ khí, và hai con voi phía đàng trước, mà khi chúng tôi an tọa, đă tiến tới, quỳ gối xuống chín lần và làm lễ chào đón.  Các binh sĩ kế đó đă thực hiện một số thao diễn lặt vặt với sự chính xác cao đô.  Họ được ăn mặc tươm tất, nhưng trang bị tồi bằng các súng hỏa mai với kíp kích hỏa cũ kỹ, giáo và gươm.  Tôi ra về sau cuộc tŕnh diễn này.

 

     Kế đó chúng tôi đă thanh sát Điện Cử Hành Nghi Lễ nơi mà các Quốc Vương An Nam nhận sự tấn phong từ Hoàng Đế Trung Hoa.  Chính nơi đây Trung Úy Garnier đă đóng bộ chỉ huy của anh ta sau khi chiếm giữ thành vào ngày 20 tháng Mười Một, và tại một mảnh đất phía sau, anh ta cùng bốn chiến hữu đă được chôn cất sau khi bi hạ sát vào ngày 21 tháng Mười Hai, 1873.

 

     Phần đất của Hà Nội nơi ṭa thành đă được dựng lên tương đối cao hơn các phần khác của thành phố, nền đất lên cao dần dần từ các bờ sông của Sông Cái cho đến độ cao khoảng 180 bộ trên mực nước biển.  Một bức tường gạch dầy khoảng 3 bộ Anh và cao 12 bộ, bao gồm mười hai pháo đài được nối với nhau bởi các tường chắn, bao quanh ṭa thành tạo nên một h́nh vuông ngay ngắn mỗi chiều dài khoảng 3,000 bộ.  Bức tường này được chống đỡ bởi g̣ đất đắp [“terreplain”, tiếng Pháp trong nguyên bản, đúng ra phải là “terreplein”, chú của người dịch] ở một số nơi, lên cao dần dần từ bên trong ṭa thành, trong khi ở các nơi khác, mặt tường thành bên trong của nó được dựng thẳng đứng.

 

     Chiều cao của “các cầu đất đắp” này cũng thay đổi rất nhiều, bởi ở một số nơi, kẻ bị bao vây có thể ản ḿnh hoàn toàn, vượt quá phần trên của tường thành, trong khi tại các nơi khác, họ có thể được nh́n thấy nửa người từ bên ngoài.  Bên trong ṭa thành là nhà ở của viên Tổng Đốc và các viên chức cao cấp khác.

 

     Ṭa thành được bao quanh bên ngoài ở khoàng cách độ 25 bộ Anh bằng một hào sâu, chứa nước, với chiều ngang trung b́nh là 60 bộ Anh.  Năm cổng cung cấp lối ra vào ṭa thành, một ở chính giữa mỗi chiều, với ngoại lệ ở hướng nam, có hai cổng cắt ngang các bức tường gần nơi có các pháo đài ở góc thành; chúng có thể được gọi là cửa đông nam và tây nam.  Lối vào cổng thành rộng khoảng 15 bộ Anh và được khép lại bằng các cửa gỗ chắc chắn.  Phía trên mọi cổng là một tháp hay nhà canh gác.

 

     Đằng trước mỗi cổng là một công sự pḥng thủ, có nghĩa, hai bức tường thấp hơn các bức tường thành một ít, các mặt tường gặp nhau tạo thành một góc nhọn hướng ra vùng đất bên ngoài.  Các công sự pḥng thủ này cũng được bao quanh bởi các đường mương thông với đường hào của đồn.  Một cổng được nối bởi một chiếc cầu với thành phố hay các cánh đồng kề cận được mở xuyên qua mặt tường bên phải của mỗi công sự pḥng thủ.  Bên trong các công sự pḥng thủ có các ngôi nhà nhỏ và trại lính được cư ngụ bởi các binh sĩ, và từ giữa “cuống họng” của các công sự pḥng thủ, ba chiếc cầu uốn cong vững chắc mở một lối đi xuyên qua hào để đến các cổng thành tại các pḥng lũy chính.  Đây là công tŕnh của các Kỹ Sư Pháp được tuyển dụng bởi Gia Long, Quốc Vương của An Nam, sau cuộc chinh phục của ông xứ Bắc Kỳ năm 1802.

 

     Bên trong nội thành, ngoài các dinh thự Chính Quyền và một số trại lính, chỉ có ít nhà cửa, và tại chính giữa là một tháp rất độc đáo dựng trên một nền được nâng cao khoảng 20 bộ Anh, và trên nóc của tháp là quốc kỳ được kéo lên.

 

     Thị trấn Hà Nội nằm giữa ṭa thành và gịng sông, và trài dài quá ṭa thành vế hướng tây.  Các đường xá th́ rộng răi và nhà cửa khang trang, và được xây bằng gạch rất tốt tại một số đường phố chính, nhưng có vô số con đường nơi các hàng quán chỉ là các mái tranh được chống lên theo kiểu cách thông thường ở Bắc Kỳ; với một ngoại lệ -- đường phố chính từ gịng sông nơi người Trung Hoa sinh sống --  các đường xá không lát gạch, và trong thời tiết ẩm ướt gần như không thể đi lại được bởi bị ngập trong bùn lầy, nhưng bởi giầy dép là ngoại lệ đối với người An Nam, trở ngại này đối với tiện nghi của Âu Châu không ảnh hưởng đến họ.  Ghế kiệu của Trung Hoa, thật tiện lợi cho sự di chuyển, th́ không được biết đến, các viên chức cao cấp hay những kẻ có khả năng trả tiền được khiêng đi trong một chiếc vơng bằng lụa hay vơng đan bằng gai được treo vào một chiếc đ̣n gánh kê trên vai của hai hay bốn người khiêng, và được vây che chung quanh bởi các tấm màn lụa hay vải.  Có rất nhiều sự khuấy động và di chuyển trên các đường phố; các cửa hàng chất đầy các phẩm vật của tay nghề bản xứ, đặc biệt là đủ mọi loại sản phẩm từ tre, lụa và các tấm vải dệt, giấy, hàng thiếc và thủy tinh, các chiếc hộp, các trống đủ mọi kích cỡ được sơn, sơn mài và mạ một cách lộng lẫy, và bát đĩa bằng sành thô sơ và các đồ men sứ kiểu trung hoa.  Gà, vịt, ngỗng, trâu ḅ và lợn, tất cả đều dồi dào và rẻ tiền, với sự phong phú về trái cây, chuối, các thứ rau, và cá.  Gạo là lương thực chính của người dân, các kẻ trông rất no đủ và mạnh khỏe, và có khá nhiều sự phát triển các cơ bắp.  Tuy nhiên, đàn bà có vẻ là tầng lớp thống trị, bởi họ làm công việc phu, thợ giống như đàn ông và trông coi các cửa hàng.  Họ nói chung trông dễ nh́n, mang dáng dấp thanh nhă, và mặc dù có tập tục nhuộm răng đen, nhiều người có thể được xem là xinh đẹp.  Dân Bắc Kỳ hiển nhiên thuộc loại chủng tộc có thể được gọi là “chuyển tiếp: transitional”, bắt đầu từ Ấn Độ, nguồn gốc mà người Miến Điện và Xiêm La là các hậu duệ; thay đổi đi tại bán đảo Mă Lai và An Nam, và biến đổi một lần nữa tại vùng biên giới phía nam của Trung Hoa, cũng như tại chính Trung Hoa, nơi nó kết thúc với các tính chất của dân Mông Cổ.  Các sự thay đổi từ từ được ghi nhận một cách mạnh mẽ và có thể được truy tầm một cách dễ dàng.

 

     Trong cung cách, dân Bắc Kỳ và An Nam th́ trầm lặng, và có lẽ bởi họ nằm dưới Chính Quyền độc đoán, chịu khuất phục và lười biếng.  Dân số của Hà Nội, thủ phủ, được ước lượng từ 150,000 đến 200,000 dân Bắc Kỳ, và vào khoảng 3,000 người Trung Hoa.

 

     Bắc Kỳ được chia thành mười ba tỉnh hay trấn [?] (tsan): Thành nội, Thành ngoại, Hưng Hóa, Nam Thượng [trong nguyên bản ghi là Nam thoung?, chú của người dịch], Nam Hà, Hải Đông, Kinh Bắc, Sơn Tây, Cao bằng, Lạng Bắc hay Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang và Quảng yên.

 

     Cả Bắc Kỳ và Trung Kỳ, từ thủa xa xưa, đă từng là môi trường của các cuộc nổi loạn, nội chiến, và đổ máu.  Bỏ qua lịch sử khá tối tăm của các biến cố này, chúng ta chỉ cần kiểm lại giai đoạn từ 1740 đến 1786.

 

     Vào thời điểm đó, Lê Cảnh Hưng là Quốc Vương Bắc Kỳ hay “Ngan-nan” (?) như được gọi, và Hiền Vương là Chúa miền Cochin China, hay An Nam, nhưng bị oán ghét bởi thần dân đến nỗi gia đ́nh Tây Sơn nhiều thế lực đă nổi dậy và hạ sát Chúa Nguyễn.  Ông ta đă lại một người cháu: Nguyễn Ánh, và là kẻ đă chạy trốn vào Sàig̣n khi có sự từ trần của người chú (bác).  Các người cầm đầu gia tộc Tây Sơn gồm có ba anh em: người lớn tuổi nhất, Nguyễn Nhạc (Yin-yac), là một thương nhân giàu có; người thứ nh́, Long Nhương (Long-niang) là một viên Tướng Lănh cao cấp; và người thứ ba là một tu sĩ.

 

Xứ Cochin [trong bài này là để chỉ toàn thể nước Việt Nam, chú của người dịch] khi đó bị chia làm ba phần: miền bắc bị chinh phục bởi dân Bắc Kỳ; Huế được chiếm đóng bởi người anh em thứ  nh́, Long Nhương [Nguyễn Huệ]; và miền hạ lưu Cochin được cai trị bởi Nguyễn Nhạc, trong khi người em thứ ba là vị lănh đạo tôn giáo cho toàn thể Đế Quốc.

 

     Nguyễn Ánh, người cháu của chúa Hiền Vương, kẻ đă chạy trốn vào Sàig̣n, quyết tâm khôi phục lại vương quốc của ḿnh ra khỏi ba anh em thuộc gia tộc Tây Sơn.  Vào lúc chúa Hiền Vương bị giết chết, có một vị Giám Mục Công Giáo tên là Pigneaux de Betraine (viết hay sắp chữ sai trong nguyên bản, chú của người dịch], được gọi là Adran theo địa phận của ông, và ông chính là người đă cứu người cháu tên Nguyễn Ánh, và dẫn ông hoàng vào Sàig̣n, và từ đó đă dốc ḷng t́m cách đặt ông hoàng lên ngai vua tại Bắc Kỳ.

 

     Long Nhương tướng quân, người anh em thứ nh́, kế đó tấn công quân Bắc Kỳ, và sau khi trục xuất họ ra khỏi miền Bắc Cochin, đă tiến vào Bắc Kỳ năm 1786, buộc Chiêu Thống [viết sai là Chin-long trong nguyên bản, chú của người dịch] Nhà Vua đương thời, chạy trốn sang Trung Hoa, nơi ông đă mất đi tại Bắc Kinh, trong cuộc đời lưu vong.

 

     Giám Mục Adran sau đó dẫn con trai trưởng của Nguyễn Ánh cùng đi với ông sang Paris, đề dành viện trợ của vua Louis XVI của Pháp, và một Hiệp Ước Liên Minh đă được kư kết hôm 28 tháng Mười Một năm 1787, và Giám Mục Adran đă quay trở về.

 

     Năm 1791, Long Nhượng băng hà, để lại một đứa con mười hai tuổi; và Nguyễn Ánh, với sự trợ giúp của một số các sĩ quan Pháp, được mang sang từ Âu Châu bởi Giám Mục Adran, đă chiếm đoạt hạm đội của Nguyễn Nhạc năm 1793.  Trong cùng năm đó, Nguyễn Nhạc băng hà, và được kế ngôi bởi người con trai.  Nguyễn Ánh tấn công và đánh bại người con trai này trong năm 1796, và chinh phục phần lănh thổ c̣n lại dưới chính quyền người con vua Long Nhương, và v́ thế Cochin (An nam) một lần nữa thuộc về vị chủ tể hợp pháp.

 

     Cuộc chinh phục Cochin được hoàn tất trong năm 1811 [nhiều phần sắp chữ sai, phải là 1801 mói đúng, chú của người dịch], Nguyễn Ánh sau đó đă chú tâm đến Bắc Kỳ, có vị vua khi đó là Cảnh Thịnh, con trai của vua Quang Trung [nguyên bản ghi sai là Quan hung, chú của người dịch] mà ông đánh bại vào năm 1802, và sau đó là vị chúa tể độc nhất của An Nam, ông lên ngôi Hoàng Đế, đặt vương hiệu là Gia Long, danh xưng mà mà ông được biết tới nhiều nhất, và kể từ đó Bắc Kỳ trở thành một tỉnh [?,] của vương quốc An Mam.

 

     Điều có thể nhận thấy rằng trở lùi về đến năm 1541, nhà Lê [nguyên bản viết sai là Li, chú của người dịch], người thành lập triều đại thứ nh́, trong đó các ông Li-ki-mao [?] hay Li-hy [?], là các người được thừa nhần nối ngôi tại Bắc Kỳ, và mặc dù họ bị truất phế bởi các kẻ tiếm quyền, họ vẫn c̣n được nh́n nhận như thế, và một số các đại diện của họ được nói là vẫn c̣n hiện diện. [Đoạn này chi việc Mặc Đăng Dung tiếm quyền nhà Lê, trong khi Nguyễn Kim vẫn lập Lê Trang Tông lên ngôi vua, tác giả không hiểu rơ nên tŕnh bày không thông suốt về lịch sử Việt Nam, chú của người dịch]

 

     Kể từ sau sự băng hà của Gia Long, ba vị vua đă trị v́ tại Cochin (An Nam) – Minh Mạng, 1820-1840 [trong nguyên bản viết sai là Ning Mạng, chú của người dịch]; Thiệu Trị, 1841-1847 [trong nguyên bản viết sai là Tien-tri, chú của người dịch], và Tự Đức, vị vua hiện nay; nhưng mặc dù họ mắc nợ trong việc lập quốc của họ nơi các nỗ lực của Giám Mục Adran, họ đă không ngừng ngược đăi tín đồ Thiên Chúa Giáo.  Thí dụ, Linh Mục Fernandez bị chặt đầu vào ngày 24 tháng Bẩy, Giám Mục Henarls vào ngày 25 tháng Sáu, và Giám Mục Delgado đă chết trong tù ngày 12 tháng Bẩy năm 1838.  Sau cùng, do hậu quả của sự hành quyết Giám Mục José Maria Diaz vào ngày 20 tháng Bẩy, 1857, và bởi các sự xúc phạm khác, chiến tranh đă bùng nổ giữa An Nam, Tây Ban Nha và Pháp, và sự kiện này được tiếp nối bởi các chiến thắng của các Đô Đốc Rigault de Genouilly tại Đà Nẵng, vào ngày mồng 1 tháng Chín năm 1858; và tại Sàig̣n, vào ngày 17 tháng Hai năm 1859; Chasner [?Charner] tại Kỳ Ḥa, vào ngày 25 tháng Hai, năm 1861; Page tại Mỹ Tho, vào ngày 12 tháng Tư năm 1861; và Bonard tại Bein Hoa [? Biên Ḥa], vào ngày 9 tháng Mười Hai năm 1862; kết thúc với Hiệp Ước Sàig̣n, ngày 5 tháng Sáu năm 1852 [? phải là 1862, chú của người dịch] theo đó các tỉnh Gia Định (Sàig̣n), Định Tường (Mỹ Tho) và Biên Ḥa, cùng đảo Côn Sơn [trong nguyên bản ghi là Perto Condor, chú của người dịch], tại miền Nam Cochin (Lower Cochin), được nhường cho Pháp, và ngoài các nhượng địa này, lấy cớ v́ có các sự vận động [chống đối] ngấm ngầm và thiếu thiện chí về phía Chính Phủ An Nam, Phó Đô Đốc de la Grandière trong tháng Sáu 1867 đă sáp nhập nốt ba tỉnh miền tây là Vĩnh Long, Choudoc [? Châu Đốc] và Hà Tiên.

 

     Con sông chính tại Bắc Kỳ, được gọi là Ho-ti-kiang [?], nhưng được nghe nhiều hơn là Hung Keang [? Hồng Giang] theo tiếng Hoa, và Sông Cái [Song Koi trong nguyên bản] hay sông Hồng trong tiếng An Nam, có phát nguyên từ Tây Tạng, và có thể lưu thông từ Mạn Hảo (Manghao), thành phố cuối cùng trong tỉnh Vân Nam của Trung Hoa, xuôi ra tới biển, với một chiều dài là 414 dậm.  Mạn Hảo là trạm trung chuyển (entrepôt) nơi mà các hàng hóa sẽ được chuyển từ và đến Bắc Kỳ và An Nam, trung tâm mua bán là thành phố xa hơn về phía bắc, được gọi là Mongtsze [? Mông Tự], cũng tọa lạc bên các bờ của Sông Cái, hay sông Hồng, nhưng ở đây được gọi là sông Ho-ti-kiang.  Bên dưới Mạn Hảo, trên các bờ sông, trong lănh thổ An Nam, có tọa lạc thị trấn Lào Cai (Laokay); cách hai ngày đường đến thủ phủ của Bắc Kỳ, Hà Nội.  Sông Cái, hay sông Hồng, chia thành nhiều  nhánh; hai nhánh phia nam gặp nhau phía trên Hà Nội.  Một trong hai nhánh đó chảy ngang thị trấn Ninh-brinh [? Ninh B́nh]; nhánh kia, chảy qua Nam Định và Hưng Yên.  Hai chi lưu này giao thông với nhau bằng các kinh đào, trên một trong các kinh đào này có tọa lạc thị trấn Phủ Lư (Fouli).  Một chi nhánh khác của Sông Cái là sông Thái B́nh, chảy qua Hải Dương.  Nằm giữa nó và chi nhánh Hà Nội của con sông Cái hay sông Hồng, là kinh đào Longchi [?]; và một chi nhánh thứ ba và rất quan trọng nằm phía bắc của chi nhánh nêu trên là sông Cấm, chảy ngang qua Hải Pḥng; cửa con sông Cấm được gọi là Cửa Cấm.  Ba cửa sông cao nhất ở phía bắc theo đó sông Cái đổ ra biển được gọi các cửa Đại, Lak [?] và Bà Lạt.  Khoảng cách từ cửa sông đến Mạn Hảo tại Vân Nam như sau:

 

                                                                                                                 Dậm

Từ cửa sông đến Hà Nội                                                                            110

Từ Hà Nội đến Sơn Tây                                                                             32

Từ Sơn Tây đến các tiền đồn của An Nam                                                  87

Từ trại An Nam đến Lào Cai                                                                      115

Từ Lào Cai đến Mạn Hảo                                                                          70

                                                                                                                 ______

Khoảng cách từ biển đến Mạn Hảo                                                             414                                  

 

     Các biên giới giữa Bắc Kỳ và Vân Nam từ lâu đă ở trong một t́nh trạng rất hỗn loạn, bị chiếm cứ bởi hai nhóm hay băng đảng Trung Hoa nổi bật là các nhóm Cờ Đen và Cờ Vàng.  Số người tập hợp đó nguyên thủy gồm những người nằm dưới trướng của Thủ Lĩnh Tienti [?], người cầm đầu cuộc Nổi Dậy ở Quảng Tây, và khi trốn chạy sang Bắc Kỳ đă chiếm giữ thị trấn Lào Cai, nằm trên sông Hồng; nhưng hai viên thủ lĩnh căi cọ với nhau, tách rời nhau, và một bộ phận chiếm giữ Ko-yang [?], một thị trấn nằm sâu hơn trên sông Hồng, là nơi mà họ hiện c̣n đang chiếm đóng, và c̣n đang giao chiến với nhau, và mỗi cánh đều đặt ra các sự hăm dọa để tống tiến trên mọi tàu thuyền và hàng hóa ngang qua để đến Vân Nam, và v́ thế làm đ́nh chỉ mậu dịch béo bở đă từng diễn ra giữa Hà Nội và tỉnh đó.

 

     Liên quan đến thủy lộ tiến vào Vân Nam bởi Sông Cái, hay Sông Hồng, không có ǵ phải ngờ vực về sự cung ứng của nó, và rằng cho măi đến gần đây một cuộc mậu dịch khá lớn lao đến và từ Hà Nội được thực hiện bởi người Trung Hoa thường trú ở đó, và nếu các biên giới giải tỏa được các trở ngại đang hiện hữu dưới h́nh thức tống tiền và các phe nhóm Trung Hoa tự tác, công cuộc mậu dịch sẽ được tái lập.  Tôi đă nh́n thấy các chiếc tàu được đóng một cách đặc biệt với thân tàu kéo dài, và phần ch́m xuống nước thấp, được dùng dể ngược gịng sông lên tới tận Mạn Hảo và Mông Tự, cả hai thành phố mua bán lớn tại Vân Nam, và tôi đă tra hỏi cặn kẽ một hai người đi lại trên đường đó và họ cho hay không có trở ngại nào cả.  Chính v́ thế, việc Sông Cái được cung ứng cho sự vận chuyển các quặng mỏ được nói thuộc loại quặng giàu và các sản phẩm của Vân Nam và Bắc Kỳ xem ra là chắc chắn, và một khi có sự gỡ bỏ ba trở ngại, công cuộc mậu dịch lớn lao và mang lại lợi  nhuận có thể nói tùy thuộc, một cách chính xác, nơi sự chấp thuận của các chính quyền ở Bắc Kỳ và Trung Hoa để khai các mỏ, và sự giải toa khỏi khu vực biên cương các người Trung Hoa tỵ nạn và các kẻ chuyên hăm dọa tống tiền mài lộ.  Khi tất cả các việc này được hoàn tất, việc c̣n lại sẽ dễ dàng.

 

     Nếu Sông Cái hay sông Hồng mở ra được một con đường đến Vân Nam và Quảng Tây, con đường xuyên qua các Bang Quốc của sắc dân Shan và vùng Bhamo không phải sẽ kém phần thích dụng, và cả hai con đường đều có các lợi điểm ngang nhau, hay không có bất kỳ lư do nào khiến cho các quyền lợi của chúng phải đụng độ nhau; ngược lại, bởi các ngỏ ra ngoài nằm cách xa nhau, và con đường này mang lại các tiện nghi địa dư mà con đường kia không có.

 

     Các sự lưu ư đă xuất hiện trên các ấn phẩm của Pháp thúc dục Chính Phủ [Pháp] về sự cần thiết phải có hành động tức thời bằng việc khai mở Sông Cái trước khi Anh Quốc độc quyền hóa mậu dịch với miền tây Trung Hoa qua con đường Bhamo; nhưng đây là một sự nhầm lẫn, không một con đường duy nhất nào từ Vân Nam có thể làm được điều đó, và càng nhiều sự mở cửa cho có các lối ra và lối vào của công cuộc mậu dịch, sẽ càng tốt.  Hơn nữa, sự việc [độc quyền hóa] như thế không phải là ư định hay mong ước của Chính Phủ Anh Quốc theo sự hiểu biết của tôi, và nếu chính sách của Pháp tại Bắc Kỳ ít hạn chế hơn, nó sẽ thu hút được tư bản ngoại quốc đến xứ sở này, và khai triển các tài nguyên phong phú của nó, hiện nay đang bị đ́nh chỉ v́ sự nghèo khổ của Chính Quyền và người dân [An Nam].

 

     Tôi thấy sự khó khăn để có được thông tin về các sản phẩm thương mại của Bắc Kỳ, nhưng tôi có gặp gỡ một người bản xứ tên gọi là Petrus Trương Vinh Kư [viết là Trueong Vinhky trong nguyên bản, chú của người dịch], người được tuyển dụng của Chính Quyền Pháp tại Sàig̣n, và đă được phái ra để điều tra về các tài nguyên mua bán của phần đất đó.

 

     Ông đă tŕnh bày Bắc Kỳ th́ giàu có trong đủ mọi loại sản phẩm, có các mỏ than đá, đồng, và thiếc, vàng và bạc.  Các khả năng nông nghiệp của nó th́ bao la, và lụa th́ tràn ngập và rẻ; một tấm lụa có thể được mua tại Hà Nội với giá 150 đô la [?] sẽ có giá 250 dô la tại Sàig̣n, và 400 đô la tại Trung Hoa.  Sự việc có thể là như thế, nhưng từ một miếng lụa nhỏ mà tôi nh́n thấy tôi phải nói rằng nó có sợi thô hơn lụa Trung Hoa và rất bị sờn tước một cách tệ hại, và hàng hóa may bằng nó th́ không hoàn hảo so với hàng của Trung Hoa, và có phẩm chất rất kém.  Ông Trương Vĩnh Kư xác nhận thông tin mà tôi nhận được liên quan đến sự chiếm đóng gịng sông chảy vào Vân Nam bởi các nhóm quân Cờ Đen và Cờ Vàng, và nói chừng nào họ vẫn chiếm giữ nó, mậu dịch với Vân Nam sẽ bị tê liệt.  Tuy nhiên, ông tin tưởng rằng Lănh Sự Pháp tại Hà Nội, trong ṿng một hay hai tháng nữa, sẽ tiến đến nơi đó với một lực lượng hộ tống có vũ trang từ 100 đến 200 lính từ Sàig̣n ra để hợp tác với người An Nam nhằm giải tỏa con đường.

 

     Điều này được xác nhận bởi ông de Kergaradee, kẻ đă nói với tôi rằng ông có đi đến đó, một phần để xem xét sự việc, và để đạt tới một vài sự dàn xếp với các nhóm Kỳ Quân, và một phần v́ các mục đích khoa học.  Tôi không giả vờ đưa ra một sự tường thuật về sự mua bán bản xứ tại Bắc Kỳ trong điện văn này, bởi cơ hội của tôi để thu lượm thông tin th́ quá ngắn.

 

     Tôi chỉ có thể nói rằng từ tất cả mọi khía cạnh, nó là một xứ sở rất giàu có, và sự thiết lập các quan hệ tốt đẹp với Chính Quyền, có thể mang lại một t́nh trạng rất sinh lợi cho các nước Tây Phương; và ngay dù ông Kergaradee có thể thành công trong việc hoặc ḥa giải với nó hay cưỡng ép sự tuân hành trên các nhóm quân Cờ Đen và Cờ Vàng, nhiều sự việc sẽ cần được làm đối với việc khai thông mậu dịch với Vân Nam.  Trong thực tế, tôi tin cuộc viễn chinh có chủ định này của ông đến gặp các phe nhóm bắt nguồn từ phía Pháp trong việc kêu gọi Chính Quyền An Nam hăy giải tỏa các nhóm thổ phỉ này ra khỏi các cửa ải vùng biên giới, và trước lời kêu gọi này, Chính Quyền An Nam đă trả lời rằng nó không thể làm như thế nếu không có sự trợ giúp, và v́ thế mang tầm quan trọng hơn khi mới chợt lướt nh́n thấy lần đầu.

 

     Gị đây tôi xin tŕnh bày, ngắn gọn đến mức tối đa, đến t́nh h́nh giáo hội tại Bắc Kỳ liên quan đến thiên chúa giáo.

 

     Nhà truyền giáo đầu tiên đến Bắc Kỳ là giáo sĩ Ḍng Tên Ư Đại Lợi, Julian Baldinotti, đă đến đó vào năm 1626; ông được tiếp bước trong năm 1627 bởi Alexander de Rhodes (người Pháp) và Antonio Marquez (Portuguese); các ông này bị trục xuất trong tháng Năm năm 1630, nhưng nhiều giáo sĩ khác nối bước chân họ.  Các sự ngược đăi đă diễn ra sau đó; Messari chết trong nhà tù ngày 15 tháng Sáu năm 1723.  Buccharelli bị xử trảm đầu cùng với chin người dân Bắc Kỳ vào ngày 11 tháng Mười năm 1723.  John Caspar Crats, sinh tại Đức Quốc năm 1698, Bartholomew Alvarez, sinh tại Parameo, Bồ Đào Nha năm 1706, Emmanuel de Alreu, sinh tại Aronca, Bồ Đào Nha năm 1706, và Vincent de Cunha, sinh tại Lisbon năm 1708, đều bị chặt đầu vào ngày 12 tháng Một năm 1737.

 

     Sau các sự ngược đăi năm 1737, có một thời kỳ yên tĩnh, và Quốc Vương Bắc Kỳ c̣n liên lạc với Macao để xin một số nhà toán học, và vào ngày 6 tháng Ba năm 1751, Linh Mục Simonelli và bốn giáo sĩ Ḍng Tên khác đă đến nơi; nhưng Nhà Vua lại đổi ư và không muốn có họ nữa.  Các giáo sĩ Ḍng Tên được thay thế bởi các sứ giả của các “Hội Truyền Giáo Hải Ngoại: Missions étrangères” trong năm 1659.  Năm 1679, Bắc Kỳ được chia thành hai giáo phận, Đông và Tây.  Các giáo sĩ Tây Ban Nha ḍng Đa Minh (Dominicans) phụ trách miền Đông Bắc kỳ năm 1693.  Hai giáo phận lại được chia nhỏ thành các địa hạt, và các các ḍng truyền đạo Công Giáo La Mă tại Bắc Kỳ vào lúc này gồm:

 

     Thứ nhất, Tây Bắc Kỳ (Các Hội Truyền Giáo Hải Ngoại), được lập ra năm 1670, Đức Ông Puginier tại Sokien [?] (Hà nội).

     Thứ nh́: Đông Bắc Kỳ (Ḍng Đa Minh Tây Ban Nha) được lập ra năm 1679, Đức Ông Colomer ở Ké-né [?] (Bắc Ninh).

     Thứ ba: Trung Bắc Kỳ (Ḍng Đa Minh Tây Ban Nha), được lập ra năm 1548.  Đức Ông Cezon tại Bùi Chu, Nam Định [ghi sai là Biu-chu, Fam-dinh trong nguyên bản, chú của người dịch]; Đức Ông Riano Coadjuta tại Ngọc-duong [?] (Hưng Yên).

     Thứ tư; Nam Bắc Kỳ) (Các Hội Truyền Giáo Hải Ngoại) được lập ra năm 1546, Đức Ông Ganthier ở Xă Đoài [?]; Đức Ông Croc Coadjuta tại Hương-phương (Bo-chink) [?].

 

     Như đề cập ở trên, tôi đă đên gặp Đức Ông Puginier, và nhận thấy ông rất dễ chịu và cởi mở; ông vào khoảng bốn mươi tuổi, và được biết đă ở trong nước này mười tám năm, và có lẽ sẽ chết ở đó, bởi ngoại trừ các trường hợp đặc biệt, không thành viên nào của các ḍng truyền giáo có bao giờ quay trở lại Pháp.

 

     Có vào khoảng 100,000 người theo đạo Thiên Chúa trong giáo hạt của ông, chiếm khoảng hai phần năm toàn thể giáo dân tại Bắc Kỳ, tức khoảng 400,000 người; ông có dưới quyền hai mươi sáu linh mục người Pháp và 160 linh mục người bản xứ, là những kẻ được trợ giúp bởi một số lượng lớn các thày giảng.  Trụ sở của hội truyền giáo đặt tại một cơ sở tọa lạc cách Hà Nội khoảng bốn mươi dậm, được tạo dựng một phần bởi các người cải đạo theo ông và một phần bởi chính ông, sản xuất ra mọi thứ cần thiết cho các mục đích truyền giáo.  Ông khuyến khích mọi loại công nghệ, chẳng hạn như dệt, thêu, trồng dâu nuôi tằm sản xuất lụa, khảm (một loại gỗ được cẩn bằng xà cừ), thuốc điếu, theo kiểu Âu Châu.  Đất đai sản xuất bông, đay, thầu dầu (castor oil), cây dâu, cho việc nuôi tằm sản xuất lụa, hạt cau, gạo v.v… và việc bán sản phẩm để hỗ trợ ḍng truyền giáo; cộng chung cơ sở bao gồm khoảng 900 người, tất cả đều được nuôi ăn hàng ngày.  Tôi ghi nhận sự vui vẻ của ông trước viễn ảnh sẽ không bao giờ nh́n thấy quê hương nữa.  Ông nói các người tiền nhiệm của ông đă chết đi tại nhiệm sở của họ, như thể nhiệm vụ của ông phải làm như thế.

 

     Trong suốt thời gian lưu ngụ tại Hà Nội, tôi đă đến thăm viếng khu Nhượng Địa của người Pháp, như đă đề cập nơi phần mở đầu của bức điện văn này.  Nó được tọa lạc một cách xinh đẹp bên bờ phải của Sông Cái gần thành phố, có diện tích khoảng năm mươi mẫu Anh (acres), và được bao quanh ba mặt bởi một bức tường rào, mặt thứ tư trông ra sông.  Hơn 2,000 phu thợ An Nam, chính yếu là phụ nữ, đă tham dự vào việc nâng khu đất lên cao hơn mực nứớc cao nhất, và một ṭa lănh Sự, các trại lính, và các kho dự trữ quân liệu đă gần được hoàn tất.  Ông Kergaradee cho tôi hay rằng khu đất được chấp thuận nguyên thủy nhỏ bé hơn, nhưng bởi Chính Quyền An Nam muốn giữ lại Điện Khảo Thí, hiện giờ là ṭa Lănh Sự và các trại lính, ông đă đồng ư trao hoàn lại nó vào tháng Mười sắp tới nếu họ đồng ư gia tăng diện tích khu Nhượng Địa, là điều họ đă đồng ư, và các công tŕnh đă được đẩy nhanh để giúp ông giữ đúng lời hứa.

 

     Tôi rời Hà Nội vào buổi sáng ngày 12 tháng trước, và đến Hải Pḥng vào buổi trưa hôm sau.  Tại đây chúng tôi đă ở lại cho đến ngày 16 chờ đợi một hoa tiêu, và trong buổi chiều hôm đó với con tàu nhẹ gánh đà rời ǵ̣ng sông để đến đảo Hải Nam.

 

     Về các vấn đề thương mại và các tài nguyên của Bắc Kỳ như một xứ sở cho mục đích mậu dịch, cuộc thăm viếng ngắn ngủi của tôi đă cản trở việc thu thập mọi tin tức mà tôi muốn có.  Trong thực tế, không có thông tin ǵ hết, mà chỉ có một sự cư trú trong một hay hai tháng mới có thể giúp tôi theo đuổi các sự điều tra thỏa đáng trong chiều hướng đó, bởi cần có thời giờ và sự kiên nhẫn để khám phá các năng lực của một xứ sở phương đông.

 

     Tôi về lại Hồng Kông hôm 25 tháng trước, sau khi vắng mặt đúng một tháng.

 

     Kính tŕnh,

     (Đă kư tên)       B. ROBERTSON, Lănh Sự

 

_____

 

 

Tài Liệu Đính Kèm Số 2

 

Mậu Dịch Qua Cảng Hải Pḥng, tại Bắc Kỳ

_____

 

 

[Duới đây là phần dịch các loại sản phẩm xuất nhập trong các bảng thống kê nguyên thủy, xin người đọc đối chiếu với nguyên bản được sao chụp để có các số lương và trị giá tương ứng.  Về trị giá, được tính theo lạng vàng (taels) với biểu xuất ghi noi bảng thống kê là cứ 72 lạng đổi lấy 100 đô la.  Về nơi xuất cảng, chính yếu là xuất sang Hông Kông và Ma Cao.]

 

Cảng Hải Pḥng:
Số Xuất Cảng từ ngày 15 tháng Chín, 1
875 đến ngày 12 tháng Tư, 1876

 

XUẤT CẢNG

 

 

Thiếc                                                                     Bong bóng cá

Dầu hồi hương                                                       Vỏ cây để lọc dầu

Nấm                                                                      Đồ khảm

Con trai                                                                 Đồ mây và đồ tre

Hàng lụa                                                                Mây làm ghế

Lụa sống                                                               Xương trâu, ḅ

Hạt muscade [dùng làm gia vị]                                Da trâu, ḅ

Sơn sống phủ cành nhỏ                                           Sừng trâu, ḅ

Sơn                                                                       Sừng nai

Sơn mài                                                                 Ống bằng gỗ

Hạt đậu khấu(graines de paradis)                            Bột nốt rễ [?] (Poudre de tubercule)

Miến                                                                     Trà Vân Nam

Bông vải sống                                                        Trà An Nam

Hàng vải                                                                Da chim xanh[?] (Depouilles d’oiseaux bleuses)

Quạt giấy                                                               Lông chim xanh nhỏ [?[(small blue bird plumes)

Dược phẩm                                                           Dây mũ bằng lụa

Hộp sơn mài                                                          Móng đóng vào chân trâu, ḅ (sabots de boeufs)

Da con công                                                          Màn đen cho quan tài

Đuôi con công                                                        Tôm khô

Đồ thêu                                                                 Giấy An Nam

 

 

 

NHẬP CẢNG

 

Cuộn bông sợi, của Anh Quốc

 

XUẤT CẢNG BỞI “NORMA”

 

30 sọt bún, miến                                                     1 thùng hàng bông vải bản xứ    

41 sọt sừng trâu                                                     30 con lợn sống

 

 

____

 

 

BẢNG KÊ CÁC HÀNG HÓA CHÍNH
ĐƯỢC XUẤT & NHẬP TỪ CẢNG HẢI PH̉NG

 

NHẬP CẢNG

 

Đồ trang trí cho lễ nghi tôn giáo                               Giấy

Sợi bông                                                                Khoai tây

Giầy cao cổ, giầy                                                    Cây thuốc

Sắt tráng thiếc                                                        Hạt tiêu

Đồ sành, gốm Trung Hoa                                        Dầu hỏa

Nồi, chảo                                                               Đồ thiếc

Gương, kính                                                           Sơn (nhuộm)

Xà cừ                                                                    Trà

Thuốc phiện                                                           Rượu nho và rượu mạnh

 

 

XUẤT CẢNG

 

Củ nâu                                                                  Xương ḅ

Nấm khô                                                               Xương trâu

Bông vải sống                                                        Mây đan

Thiếc                                                                     Lụa sống

Quạt                                                                      Hàng lụa

Bún, miến                                                              Sơn (nhuộm)

Cây thuốc                                                              Sơn mài

                                        

                                                    

 

-----

 

Nguồn: Bản sao chụp từ nguyên bản của Bộ Ngoai Giao Anh Quốc, kho tư liệu của người dịch NGÔ BẮC.

 

 

NGÔ BẮC dịch và chú giải

  

 

http://www.gio-o.com/NgoBac.html

 

 

 

© 2008 gio-o