Chủ Đề:

CHIẾN TRANH TRUNG QUỐC – VIỆT NAM 1979

 

 

Ngô Bắc dịch

 

 

Lời Người Dịch:

 

“Chiến dịch 1979, ít nhất đối với Quân Đội Giải Phóng của Nhân Dân Trung Quốc, là một sự thất bại. Trung Quốc đă phóng ra cuộc tấn công của nó trong một nỗ lực để buộc Việt Nam phải rút lui khỏi Căm Bốt. Trung Quốc đă rút lui khỏi Việt Nam hôm 16 Tháng Ba, 1979, nhưng Việt Nam đă không rời Căm Bốt măi cho đến năm 1989.” ….

 

“Cuộc chiến tranh theo học thuyết họ Mao chưa dứt, nhưng phía Trung Quốc đă học được một bài học quan trọng.”

 

Trên đây là phần kết luận chắc nịch của Edward C. ODow’d, một tác giả hàng đầu về Chiến Tranh Biên Giới Trung Quốc – Việt Nam Năm 1979, chủ đề của loạt bài nghiên cứu dưới đây về biến cố quan trọng diễn ra 33 năm trước. Đối chiếu với bài học lịch sử lâu dài của đất nước, rơ ràng vấn đề sinh tử của dân tộc Việt Nam hiện nay là phải t́m mọi cách đê duy tŕ được sự độc lập và vẹn toàn lănh thố, đồng thời thoát ra khỏi sự lệ thuộc ngoại giao và quân sự đáng tủi hổ đối với Trung Quốc.

 

 

1.Sun Dreyer
VIỆC NÀY DẪN DẮT VIỆC KIA:
V̉NG XOÁY TRÔN ỐC SỰ VẤN ĐỀ VÀ
CHIẾN TRANH TRUNG QUỐC – VIỆT NAM (1979)
One Issue Leads to Another: Issue Spirals and the Sino-Vietnamese War (1979)
.


2. Steven J. Hood,
BẮC KINH, HÀ NỘI, VÀ ĐÔNG DƯƠNG –
CÁC BƯỚC TIẾN TỚI SỰ ĐỤNG ĐỘ
(Beijing, Hanoi, and Indochina – Steps to the Clash,
trong quyển Dragons Entangled: Indochina and the China-Vietnam War, 1992.


3. Zhang Xiaoming,
ĐẶNG TIỂU B̀NH VÀ
QUYẾT ĐỊNH CỦA TRUNG QUỐC
ĐI ĐÊN CHIẾN TRANH
VỚI VIỆT NAM
(Deng Xiaoping and China’s Decision to Go to War with Vietnam),
Journal of Cold War Studies, Summer 2010, vol. 12, No. 3, 3-29.


4, Nicolas Khoo,
HỒI KẾT CUỘC CỦA
MỘT T̀NH HỮU NGHỊ BẤT KHẢ HỦY DIỆT:
Sự Tái Xuất Hiện Của Sô Viết và
Sự Chấm Dứt Liên Minh Trung Quốc – Việt Nam, 1975-1979
trong quyển Collateral Damage: Sino – Soviet Rivalry and the Termination
of The Sino – Vietnamese Alliance, Columbia University Press, 2011, 103-136.

 

5. Herbert S. Yee,
CUỘC CHIẾN TRANH
BIÊN GIỚI TRUNG QUỐC – VIỆT NAM:
CÁC ĐỘNG LỰC, CÁC TÍNH TOÁN VÀ
CÁC CHIẾN LƯỢC CỦA TRUNG CỘNG
trong quyển The Sino-Vietnamese Border War: China’s Motives,
Calculations and Strategies, China Report (xuất bản
tại New Delhi, India), Bộ 16, số 1, 1980, các trang 15-32.

 

6. Edward C. ODow’d,
CHIẾN DỊCH NĂM 1979
trong quyển Chinese Military Strategy In The Third Indochina War,
The Last Maoist War, Routledge: New York, 2007, Chapter 4: The 1979 Campaign,
các trang 45-73; Chapter 5: The Battle of Lang Son, February – March 1979,
các trang 74-88; Chapter 0: Conclusion: the legacy of an “incredible, shrinking war”,
các trang 159-166.

 

7.  Edward C. ODow’d,
TRẬN ĐÁNH LẠNG SƠN, THÁNG HAI – THÁNG BA 1979
trong quyển Chinese Military Strategy In The Third Indochina War,
The Last Maoist War, Routledge: New York, 2007, Chapter 4: The 1979 Campaign,
các trang 45-73; Chapter 5: The Battle of Lang Son, February – March 1979,
các trang 74-88; Chapter 0: Conclusion: the legacy of an “incredible, shrinking war”,
các trang 159-166.

 

8. Harlan W. Jenks,
CUỘC CHIẾN TRANH “TRỪNG PHẠT”
CỦA TRUNG QUỐC ĐÁNH VÀO VIỆT NAM:
MỘT SỰ LƯỢNG ĐỊNH VỀ QUÂN SỰ
(“China’s ‘Punitive’ War on Vietnam: A Military
Assessment”, Asian Survey 14, no. 8 (1979): 801-815.

 

9. Chen C. King,
CUỘC CHIẾN CỦA TRUNG QUỐC
ĐÁNH VIỆT NAM:
MỘT PHÂN TÍCH QUÂN SỰ
(“China’s War Against Vietnam: A Military Analysis”),
Journal of East Asian Affairs, no. 1 (1983): 233-63.
 

 

10. John M. Peppers, ,
CHIẾN LƯỢC TRONG XUNG ĐỘT CẤP VÙNG:
MỘT TRƯỜNG HỢP NGHIÊN CỨU
ĐIỂN H̀NH VỀ TRUNG QUỐC
TRONG CUỘC CHIẾN TRANH ĐÔNG DƯƠNG
LẦN THỨ BA NĂM 1979
(Strategy In Regional Conflict:
A Case Study of China In The Third Indochina Conflict of 1979),
U.S. Army War College, Carlisle Barracks, 2001.

 

11. Alexander Woodside
DÂN TỘC CHỦ NGHĨA VÀ
NẠN NGHÈO ĐÓI
TRONG SỰ TAN VỠ CÁC QUAN HỆ
TRUNG QUỐC – VIỆT NAM
Nationalism and poverty in the Breakdown
of Sino-Vie6namese Relations,
Pacific Affairs, Fall 1979,
các trang 381-409.

   

12. Dennis Duncanson

CHIẾN TRANH VIỆT NAM
CỦA TRUNG QUỐC:
CÁC Đ̉I HỎI CHIẾN LƯỢC CŨ VÀ MỚI
China’s Vietnam War:
new and old strategy imperatives,
The World Today, 35, số 6 (1979),
các trang 241-248.

 

13. James Mulvenon

CÁC GIỚI HẠN CỦA NGOẠI GIAO CƯỠNG HÀNH:
CUỘC CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI
TRUNG QUỐC – VIỆT NAM NĂM 1979
Limits of Coercive Diplomacy:
The 1979 Sino-Vietnamese Border War,
Journal of Northeast Asian Studies; Fall 95,
Vol. 14 Issue 3, các trang 68-88.

 

14. Andrew Scobell

NGOẠI GIAO CƯỠNG HÀNH NỬA VỜI:
CUỘC TẤN CÔNG NĂM 1979 CỦA TRUNG QUỐC 
ĐÁNH VIỆT NAM
“Explaining China’s Use of Force”,
China’s Use of Military Force Beyond the Great Wall and the Long March
Cambridge, United Kingdom: Cambridge University Press, 2003
các trang 192-198.

 

15. Daniel Tretiak

CHIẾN TRANH VIỆT NAM CỦA TRUNG QUỐC
VÀ CÁC HẬU QUẢ CỦA NÓ
“China’s Vietnam War and Its Consequences,” The China Quarterly 80 (1979), các trang 740-67.

   

16. Bruce Burton

CÁC SỰ GIẢI THÍCH ĐỐI CHỌI
 VỀ CUỘC CHIẾN TRANH
 TRUNG QUỐC - VIỆT NAM NĂM 1979
“Contending explanations of the 1979 Sino – Vietnamese War”,
International Journal, Volume XXXIV, no. 4/Autumn 1979, các trang 699-722.

 

17. Ramesh Thakur

TỪ SỐNG CHUNG ĐẾN XUNG ĐỘT:
CÁC QUAN HỆ
HÀ NỘI – MẠC TƯ KHOA – BẮC KINH
VÀ CUỘC CHIẾN TRANH TRUNG – VIỆT
Coexistence to Conflict: Hanoi-Moscow-Pekings Relations and The China-Vietnam War,
The Australian Outlook, Volume 34, số 1, 1980, các trang 64-74.

 

18. Todd West

TỪ SỐNG SỰ NGĂN CẤM  KHÔNG THÀNH  CÔNG
CUỘC XUNG ĐỘT TRUNG QUỐC – VIỆT NAM NĂM 1979
Failed Deterrence, The 1979 Sino-Vietnamese Conflict,
Stanford University Journal of East Asian Affairs,  Vol. 6, No. 1, Winter 2006, các trang 73- 85.
 

 

19. Colonel G.D Bakshi

Cuộc Chiến Tranh Trung Quốc - Việt Nam năm 1979:
Trường Hợp Nghiên Cứu Điển H́nh
Trong Các Cuộc Chiến Tranh Hạn Chế
VSM, The Sino-Vietnam War – 1979: Case Studies in Limited Wars,
Indian Defence Review, Volume 14 (2) July – September 2000

 

20. Bruce Elleman

Các Quan Hệ Sô Viết – Trung Quốc Và Cuộc Xung Đột
Trung Quốc – Việt Nam Tháng Hai 1979
Đọc tại Cuộc Hội Thảo 1996 Vietnam Symposium,
“After the Cold War: Reassessing Vietnam”,
được tổ chức vào các ngày 18-20 Tháng Tư, 1996
tại Vietnam Center, Texas Rech University, Lubbock, Texas

 

21. Henry J. Kenny

CÁC NHẬN THỨC CỦA VIỆT NAM VỀ CUỘc CHIẾN TRANH,
1979 VỚI TRUNG QUỐC “Vietnamese Perceptions of the 1979 War with China,
Chinese Warfighting: The PLA Experience Since , đồng biên tập bởi
Mark A. Ryan, David Michael Frakelstein, Michael A. McDevitt, Chapter 10, các trang 217-241s

 

22. Xiaoming Zhang

CUỘC CHIẾN TRANH
NĂM 1979 CỦA TRUNG QUỐC VỚI VIỆT NAM: MỘT SỰ
TÁI LƯỢNG ĐỊNH, “China’s War with Vietnam: A Reassessment”,
The China Quarterly, số 184, December 2005, các trang 851-874.

 

23. Edward C. O’Dowd & John F. Corbett, Jr.

CHIẾN DỊCH NĂM 1979 CỦA TRUNG QUỐC
TẠI VIỆT NAM:
CÁC BÀI HỌC LĨNH HỘI ĐƯỢC
The Lessons of History: The Chinese People’s Liberation Army at 75, Carlisle, PA.:
Strategic Studies Institute, U.S. Army War College, July 2003, các trang 353-378.

 

24. Douglas E. Pike,

CỘNG SẢN ĐẤU CỌNG SẢN
TẠI ĐÔNG NAM A”
 (“Communism vs Communism in Southeast Asia), International Security, Vol. 4, No. 1 (Summer, 1979), từ trang 20.
 

 

25. Henry Kissinger,

“SỜ MÔNG CON HỔ”
CUỘC CHIẾN TRANH VIỆT NAM THỨ BA”
 Chương 13: “Touching the Tiger’s Buttocks”: The Third Vietnam War, các trang 340-375,
trong quyển On China, xuất bản bởi The Penguin Press, New York, 2011.

   

26. Jimmy Carter,

GHI NHỚ VỀ
CHIẾN TRANH TRUNG QUỐC – VIỆT NAM
NĂM 1979
cựu Tổng Thống Hoa Kỳ, trích dịch từ các hồi kư Keeping Faith, Memoirs Of A President,
A Bantam Book: New York, November 1982, các trang 194-211, và White House Diary, New York: Farrar, Straus and Giroux, 2010,
các trang 281-296, và rải rác, cùng các phụ lục trích dịch phần ghi nhớ về Chiến Tranh Trung Quốc – Việt Nam năm 1979 của:
Phụ Lục 1: Cyrus Vance, cố Ngoại trưởng Hoa Kỳ, Hard Choices, Critical Years In America’s Foreign Policy, New York: Simon and Schuster, 1983, các trang 120-127.
Phụ Lục 2: Zbigniew Brzezinski, cựu Cố Vấn Tổng Thống Hoa Kỳ về An Ninh Quốc Gia, Power and Principle, Memoirs of the National Security Adviser, 1977-1981, New York: Farrar, Straus and Giroux, 1983, các trang 404-414.
Phụ Lục 3: Anatoly Dobrynin, cựu Đại Sứ Liên Sô tại Hoa Kỳ, In Confidence, Moscow’s Ambassador to America’s Six Cold War Presidents, New York: Times books, a division of Random House, Inc., 1995, các trang 418-19.

 

 

Andrew Scobell

U. S. Army War College

 

NGOẠI GIAO CƯỠNG HÀNH NỬA VỜI:

CUỘC TẤN CÔNG NĂM 1979 CỦA TRUNG QUỐC 

ĐÁNH VIỆT NAM

 

Ngô Bắc dịch

 

Lời Người Dịch:

       Dưới đây là bản dịch hai chương trong quyên sách nghiên cứu quan trọng của tác giả Andrew Scobell liên hệ đến cuộc chiến tranh Trung – Việt Biên Giới năm 1979 cùng các dự phóng cho tương lai, nhằm bổ túc vào loạt bài thuộc chủ đề Chiến Tranh Trung Việt 1979.

 

***

 

 

       Hàng rào pháo binh hung hăn và cuộc tấn công bằng bộ binh ồ ạt tiếp theo vào Việt Nam bởi Quân Đội Giải Phóng Nhân Dân Trung Quốc (QĐGPNDTQ) hôm 17 Tháng Hai , 1979 hẳn đă không xảy ra như một sự ḥan toàn bất ngờ đối với bất kỳ ai. 1 Trong khi sự ấn định thời điểm chính xác có thể không được ước đoán, bản thân cuộc tấn công quân sự đă được dự liệu trong nhiều tháng.  Sau một tháng giao tranh, Trung Quốc đă đơn phương loan báo nó sẽ triệt thoái và QĐGPNDTQ đă kéo quân về Trung Quốc ngang qua biên giới, để lại các quang cảnh tàn phá toàn diện sau lưng nó.  Phía Việt Nam đă tự chứng tỏ là các đối thủ cứng cỏi, và QĐGPNDTQ đă thi hành nhiệm vụ tồi tệ hơn điều mà Bắc Kinh dự liệu. 2

       Tại sao Bắc Kinh đă phát động cuộc chiến tranh? Các nhà lănh đạo Trung Quốc đă hy vọng đạt được những điều ǵ từ cuộc xung đột? Cuộc chiến tranh này, cuộc hành quân lớn nhất được thực hiện bên ngoài biên giới Trung Quốc kể từ Cuộc Chiến Tranh Triều Tiên, đă được nghiên cứu một cách kỹ càng bởi một nhóm nhỏ các học giả, với tiêu điểm chính yếu nhắm vào các nguyên do quốc tế và hậu quả của nó. 3 Các chuyên khảo nghiên cứu về các mục đích trong chính sách ngoại giao của Trung Quốc, nhấn mạnh rằng quyết định của Bắc Kinh được gây ra bởi các mối ràng buộc gia tăng giữa Việt Nam và Liên Bang Sô Viết – đối thủ chính yếu của Trung Quốc vào lúc đó.  Ngoài ra, Việt Nam bị cáo giác đă thực hiện nhiều vụ đột nhập vào lănh thổ Trung Quốc và chấp hành một chính sách cưỡng bách hàng trăm ngh́n cư dân gốc Hoa phải bỏ chạy khỏi Việt Nam.  Động lực sau chót chính là cuộc xâm lăng toàn diện của Việt Nam vào Căm Bốt -- có quốc hiệu chính thức là Cộng Ḥa Dân Chủ Kampuchea – được phóng ra hôm 25 Tháng Mười Hai, 1978.  Tuy nhiên, ít có sự chú ư được dành cho các chiều kích chính trị nội bộ của cuộc xung đột.  C̣n ít sự chú ư hơn nữa được nhắm vào cuộc tranh luận trong giới lănh đạo Trung Quốc là liệu có sử dụng vũ lực quân sự để đánh Việt Nam hay không. 4

       Tôi cho rằng Bắc Kinh đă thực hành “ngoại giao cưỡng ép nửa vời” đối với Việt Nam trong ṿng sáu tháng trước khi có cuộc xung đột quân sự lớn nhất của Trung Quốc trong thời hậu Mao.  Hành động của Trung Quốc không chỉ là một sự đáp ứng trước các sự thay đổi trong môi trường quốc tế mà c̣n phản ảnh một văn hóa dân sự - quân sự trong cơn đau đớn của sự thay đổi triệt để trong giới lănh đạo, học thuyết và lư lịch.  Chương sách này khảo sát các vai tṛ của các nhà lănh đạo cao cấp của QĐGPNDTQ và Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) hầu xác định thái độ của nhiều cá nhân khác nhau đối với việc sử dụng vũ lực quân sự.  Trước tiên, bối cảnh và các t́nh huống dẫn đến quyết định của Trung Quốc nhằm tiến đánh Việt Nam được tái duyệt, và sau đó quan điểm của các nhà lănh đạo khác nhau đối với một cuộc tấn công sẽ được phân tích.

 

KHUNG CẢNH

Vào cuối thập niên 1970, Trung Quốc cảm thấy cực kỳ dễ bị xâm hại.  Liên Bang Sô Viết lừng lững một cách đầy đe dọa dọc theo biên giới phía bắc của Trung Quốc.  Việt Nam vừa mới thống nhất, một nước chư hầu của Sô Viết vừa nẩy nở, đang thao diễn sức mạnh quân sự đáng kể của nó tại phương nam và đang t́m cách không chế Đông Dương.  Cảm giác này về t́nh trạng khả dĩ bị xâm hại càng trầm trọng hơn bởi một chuỗi các biến cố xảy ra tại ngoại vi của Trung Quốc hồi năm 1978, đă dẫn dắt nhiều người tại Bắc Kinh cảm thấy tức thời bị bao vây bởi các địch thủ và bị mất các thân hữu.  Các sự quan tâm về sự liên kết của Sô Viết và chính sách bành trướng của Việt Nam, đặc biệt các ư đồ của Hà Nội trên chế độ Khmer Đỏ tại Phnom Penh, đă được pha trộn với sự đối xử của Việt Nam đối với các cư dân gốc Hoa của nó, các vụ đụng chạm ở biên giới, và các sự tuyên xác ngày càng lớn tiếng hơn của Việt Nam đối với lănh thổ mà Trung Quốc xem là của chính họ.

       Nhưng quyết định tấn công Việt Nam đă chỉ được lấy trong khung cảnh của môi trường địa chính trị, nó cũng bị ảnh hưởng bởi cảm giác bị xúc phạm về điều mà Bắc Kinh cảm nhận là sự phản bội lọc lừa của Hà Nội đối với một người bạn kiên trung.  Phía Trung Quốc nh́n phía Việt Nam như các kẻ vô ơn đă đền đáp nhiều thập niên trợ giúp và hy sinh của Trung Quốc bằng việc đâm sau lưng.  Việt Nam đă tiếp nhận sự trợ giúp kinh tế và quân sự từ Trung Quốc nhiều hơn bất kỳ nước nào khác, ngoại trừ có thể là Bắc Hàn.  Chắc chắn về mặt viện trợ quân sự bền bỉ được cung cấp trong hơn hai thập niên chiến tranh tại Đông Dương, sự ủng hộ của bắc Kinh dành cho Hà Nội là điều chưa hề có trường hợp tương tự đối với CHNDTQ.  ĐCSTQ đă tích cực trợ giúp các lực lượng Việt Minh trong cuộc đấu tranh của họ để giành thắng nền độc lập từ nước Pháp thực sự ngay từ lúc khởi đầu.  Sau đó, trong cuộc đấu tranh để thống nhất Việt Nam được phát động để chống lại Nam Việt Nam và đồng minh chính yếu của nó, Hoa Kỳ, Trung Quốc đă cung cấp viện trợ bổ túc.  Trong suốt thập niên 1960, hàng trăm ngh́n binh sĩ phục vụ tại Việt Nam và Lào thuộc các sư đoàn công binh và pháo binh pḥng không.  Tất nhiên các binh sĩ Trung Quốc đă bị giết chết tại Đông Dương trong các cuộc không kích của Mỹ. 5

 

Chiều Kích Chiến Lược

       Tuy nhiên, trong suốt thập niên 1970, Hà Nội dần dần trở nên xa cách hơn với Bắc Kinh và bị kéo gần hơn đến Mạc Tư Khoa.  Đỉnh điểm của các chiều hướng này là sự thiết lập chính thức hôm 3 Tháng Mười Một, 1978 một liên minh giữa Việt Nam và Liên Bang Sô Viết – một Hiệp Ước Hữu Nghị và Hợp Tác có hiệu lực hai mươi lăm năm.  Sô Viết đă thiết lập một căn cứ hải quân tại Vịnh Cam Ranh ở miền nam, và vào cuối thập niên 1970 đă cung cấp cho Việt Nam khoản viện trợ quân sự và kinh tế đáng kể.  Hà Nội rơ ràng ấp ủ các tham vọng để trở thành bá chủ của Đông Dương.  Dầy dặn kinh nghiệm giao chiến qua nhiều thập niên chiến đấu và được trang bị tốt bởi vũ khí của Mỹ, Sô Viết và Trung Quốc, Quân Đội Nhân Dân Việt Nam (QĐNDVN) đă trở thành một trong những guồng máy quân sự lớn nhất và hữu hiệu nhất của thế giới.  Hà Nội đă t́m cách mở rộng ảnh hưởng của nó tại Vientiane và Phnom Penh.  Và các sự chuyển động gây hấn của nó đối với Căm Bốt đặc biệt làm Trung Quốc hoảng hốt.  Bắt đầu trong Tháng Bảy 1978, các lời loan báo chính thức phát thanh từ Bắc Kinh khởi sự gọi Việt Nam một cách khinh miệt như “Cuba của Phương Đông” – một sự ám chỉ không mấy quá huyền ảo về vai tṛ quan trọng mà bộ đội Cuba đă đóng giữ tại Phi Châu như các kẻ thừa ủy nhiệm của Sô Viết. 6

       Với ṿng xoáy trôn ốc theo chiều hướng đi xuống trong các quan hệ Trung – Việt có vẻ vượt quá sự sửa chữa – và sự thất bại trọn vẹn trong các nỗ lực của Hà Nội để thiết lập các quan hệ ngoại giao đầy đủ với Hoa Thịnh Đốn – Việt Nam đă quyết định tăng tốc toàn lực bằng các quan hệ chặt chẽ hơn với Liên Bang Sô Viết [sic]. 7 Ngay từ Tháng hai 1978, Đảng Cộng Sản Việt Nam (ĐCSVN) dường như đă quyết định rằng một cuộc tấn công vào Căm Bốt sẽ có thể là cần thiết, và rằng một vài loại đáp ứng quân sự từ Trung Quốc sẽ xảy ra. 8 Trong Tháng Sáu, Việt Nam chính thức gia nhập khối COMECON và Tướng Vơ Nguyên Giáp đă du hành sang Mạc Tư Khoa để bắt đầu các cuộc thương thảo cho một Hiệp Ước Hữu Nghị và Hợp Tác.  Sô Viết tức thời gửi khí giới sang Việt Nam trong Tháng Tám, mặc dù bản hiệp ước chưa được kư kết một cách chính thức cho tới khoảng ba tháng sau đó. 9 Ngoài ra, vào ngày 25 Tháng Mười Hai, 1978, Trung Quốc đă đối diện với một cuộc xâm lăng toàn diện của Việt Nam vào Căm Bốt.  Và kế đó khoảng hai tuần lễ sau, vào ngày 6 Tháng Một 1979, ṭa đại sứ Trung Quốc tại Phnom Penh đă phải di tản một cách vội vă khi bộ đội Việt Nam tiến tới thủ đô của Khmer Đỏ.  Dưới mắt nh́n của phía Trung Quốc, các sự phát triển này xứng đáng để nhận một sự đáp ứng mau lẹ và mạnh mẽ.

 

Yếu Tố Hoa Kiều Hải Ngoại

       Hà Nội từ lâu đă xem người Hoa – cư dân gốc Trung Hoa tại Việt Nam – là một mối quan ngại an ninh tiềm phục.  Người Hoa tại Việt Nam, cũng như tại quá nhiều quốc gia Đông Nam Á khác, được tập trung một cách bất tương xứng trong các lănhvực thương mại và tài chính.  Như thế, nhiều người đă nằm trong số các thành viên giàu có và nổi tiếng nhất của xă hội Việt Nam.  Bởi sự hiện diện nổi bật của họ, đă có khuynh hướng tạo ra sự bất măn đáng kể trong số người dân Việt Nam bản xứ đối với sự thành công lớn lao và sự giàu có vật chất mà một số người trong cộng đông Trung Hoa thụ hưởng.  Chính v́ thế, ĐCSVN đă khởi sự đàn áp thẳng tay doanh nghiệp tư nhân tại miền nam mới được giải phóng.  Sự đàn áp này đă lên đến cao độ trong Tháng Ba 1978 và mau chóng trở thành một cuộc khủng bố nhắm vào các doanh nghiệp Trung Hoa.  Đáp lại sự đàn áp, các thương nhân và nhà tài chính Trung Quốc nép ḿnh xuống, cất dấu hàng hóa, và/hay hoạt động trên thị trường đen.  Hậu quả, nền kinh tế của Việt Nam rơi vào t́nh trạng suy sụp.  Cả giới thẩm quyền lẫn nhiều thường dân Việt Nam có khuynh hướng quy trách người Hoa về sự khủng hoảng kinh tế.  Trong bàu không khí cực kỳ chính trị này, các cuộc tấn công và kỳ thị chống lại các cư dân ở Việt Nam ḍng dơi người Hoa càng trở nên nặng nề hơn, đặc biệt từ Tháng Ba 1978 trở về sau. 10

       Tuy thế, cuộc di cư đầu tiên của người Hoa cũng đă khởi sự trong Tháng Ba 1978 dường như không có liên hệ đến cuộc đàn áp cộng đồng cả triệu người Hoa tại miền nam Việt Nam.  Làn sóng di dân đầu tiên, vào khoảng hai trăm ngh́n người, đă đến miền nam Trung Quốc từ miền bắc Việt Nam. 11 Cuộc ra đi của họ dường như đă bị kích động bởi các tin đồn về cuộc chiến tranh sắp xảy ra giữa Trung Quốc và Việt Nam và sự lưu hành các truyền đơn có nguồn gốc bí ẩn thúc dục người gốc Hoa hăy trở về đất mẹ và đóng góp vào sự hiện đại hóa kinh tế.  Các động lực này nhiều phần không phải là kết quả của bất kỳ chính sách có phối hợp nào bởi Hà Nội.  Trong thực tế, Hà Nội xem ra chỉ có ít lợi lộc từ việc di cư của các cư dân tại miền bắc, nhiều người trong họ là các công nhân cốt tử trong các kỹ nghệ quan yếu.  Chính v́ thế sự quy trách cho trào lượng xuất cảnh ban đầu của các cư dân gốc Hoa không thể được đổ một ḿnh lên Hà Nội, mặc dù chính sách của Việt Nam đối với người Hoa đă trợ lực vào luồng di dân.  Và sau khi sự xuất cảnh khởi sự, cuộc di cư đă khoác một lư lẽ và động lực hoàn toàn tự bản thân nó. 12

       Về sau, chế độ Hà Nội dường như có đưa ra một quyết định về chính sách công khai để khuyến khích sự ra đi của người Hoa tại miền nam.  Các giới thẩm quyền địa phương tại bờ biển được chỉ thị để đóng và/hay cung cấp thuyền nhiều loại và cho phép người gốc Hoa rời khỏi xứ sở đổi lấy lệ phí và tiền thuế.  Nhiều người trong số dân tỵ nạn này đă phải trả giá đắt cho các chiếc tàu khó chịu đựng được sóng biển và các khoản hối lộ lớn lao cho các viên chức Việt Nam hăy làm ngơ cho họ ra đi.  Trong khi trào lượng xuất dương này của con người – được mệnh danh là “Thuyền Nhân: Boat People” – đă gây ra sự bàng hoàng kinh khiếp trong cộng đồng quốc tế, nó chọc giận các nhà lănh đạo ở Bắc Kinh là các kẻ đă nh́n đó như một sự xúc phạm trực tiếp vào Trung Quốc. 13 Trong Tháng Tư 1978, viên chức CHNDTQ chịu trách nhiệm chính yếu về Hoa Kiều hải ngoại sự vụ, Liao Chengzhi, đă bày tỏ sự quan ngại về nỗi thống khổ của người Hoa và tuyên bố rằng Bắc Kính chống lại bất kỳ chính phủ ngoại quốc nào cưỡng bách Hoa Kiều hải ngoại phải gia nhập một quốc tịch ngoại quốc.  Nhiệt độ đă dâng cao một cách đáng kể trong tháng kế tiếp.  Vào giữa Tháng Năm, Trung Quốc đă loan báo sự đ́nh chỉ hai mươi mốt dự án viện trợ của Trung Quốc tại Việt Nam và tuyên bố rằng các ngân khoản phân cấp cho các dự án này sẽ được tái chuyển hướng để trợ giúp cho dân tỵ nạn gốc Hoa từ Việt Nam.  Sau đó, trong ngày 24 Tháng Năm, Văn Pḥng Hoa Kiều Hải Ngoại Sự Vụ chính thức kết án sự ngược đăi và trục xuất của Việt Nam đối với các cư dân gốc Hoa với lời lẽ mạnh mẽ.  Bản tuyên bố nói rơ rằng Bắc Kinh sẽ buộc Hà Nội phải chịu trách nhiệm về bất kỳ sự ngược đăi nào đối với người Hoa. 14 Vào ngày 26 Tháng Năm, Trung Quốc đă leo thang cuộc khẩu chiến bằng việc loan báo rằng nó sẽ phái hai chiếc tàu để cứu vớt “người Hoa bị ngược đăi”.  Bốn ngày sau đó, Trung Quốc đă băi bỏ nhiều dự án viện trợ. 15

 

Các Cuộc Tranh Chấp Lănh Thổ

       Việt Nam ít lưu tâm đến các sự tuyên xác lănh thổ cho đến giữa thập niên 1970.  Cho tới 1975, mục tiêu ưu tiên của nó là sự tái thống nhất với miền nam.  Biên giới đất liền chung của Việt Nam với Trung Quốc, dài gần tám trăm dậm Anh (miles) trên địa thế núi non rất hiểm trở, giống như biên giới của nhiều nước tại Á Châu, chưa hề được phân định một cách thích đáng làm hài ḷng bất kỳ nước nào.  Lời lẽ của một hiệp ước Trung – Việt năm 1877 th́ cực kỳ mơ hồ, các hải phận được đề cập trong bản hiệp ước bị thay đổi trong nhiều thập niên, và vị trí các cột mốc bằng đá phân định ranh giới trở thành một vấn đề tranh chấp, khiến cho t́nh h́nh càng phức tạp hơn.  Hơn nữa, Trung Quốc và Việt Nam cũng đua ra các sự tuyên xác tranh chấp nhau về các địa điểm trên mặt biển: các hải phận tại Vịnh Bắc Bộ cũng như các quần đảo tại Biển Nam Hải, đặc biệt là các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. 16

 

T́nh Trạng Nghịch Lư

       Cá nhà lănh đạo Tring Quốc bị đối diện với một nghịch lư. 17 Nếu họ lùi lại và không làm ǵ hết, Trung Quốc sẽ bị nh́n là yếu đuối và bất lực và một sự bất động như thế có thể khuyến khích Việt Nam làm tới nừa.  Nhưng Trung Quốc đă phải thận trọng để không khiêu khích một sự đáp ứng quân sự của Sô Viết.  Trung Quốc có thể làm được những ǵ? Trung Quốc có thể tiến tới việc trợ giúp phe Khmer Đỏ đang giao chiến bằng cách nào? Bởi Trung Quốc không có chung một biên giới trên đất liền với Căm Bốt, mọi viện trợ phải đi hoặc bằng đường biển, đường hàng không, hay trên đất liên ngang qua một nước thứ ba có t́nh cảm (tức Thái Lan).

       Chính là cuộc xâm lăng vào Căm Bốt cai trị bởi phe Khmer Đỏ, một đồng minh của Trung Quốc, theo phần lớn tin tức, đă chọc giận các nhà lănh đạo quân sự và dân sư thượng tầng của Trung Quốc.  Chủ đề về hành động quân sự của Trung Quốc đánh Việt Nam được nêu lên lần đầu liên hệ đến Căm Bốt.  Cuộc thảo luận về một sự đáp ứng quân sự trước cuộc xâm lăng của Việt Nam vào Căm Bốt được tường thuật đă được nêu lên tại một phiên họp Bộ Chính Trị mở rộng trong Tháng Năm 1978.  Sự đồng thuận là một sự chuyển động như thế bởi Hà Nội sẽ xứng đáng nhận lănh một sự đáp ứng mạnh mẽ từ Bắc Kinh. 18

       Từ phiên họp này đă đi đến một quyết định chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh hạn chế tại biên giới phía nam của Trung Quốc để “hoàn kích’ Việt Nam.  Chính v́ thế, Bắc Kinh đă phái nhiều binh sĩ đến các khu vực biên giới tại Vân Nam và Quảng Tây.  Điều này được thi hành theo lời tường thuật v́ hai lư do.  Trước tiên, sự chuyển động đă được thực hiện nhằm pḥng vệ chống lại một cuộc tấn công bất ngờ -- một khả tính được nêu lên bởi sự củng cố các lực lượng Việt Nam được phát hiện ngang qua biên giới.  Thứ nh́, bước tiến là nhằm để “nếu có thể … làm giảm bớt … áp lực trên Căm Bốt”, theo bản văn của một bài diễn văn nội bộ bởi một viên chức cao cấp trong Hội Đồng Nhà Nước hồi đầu Tháng Sáu 1978.  Viên chức tiếp tục xác định cụ thể tâm trạng của giới lănh đạo: 

Nếu sự đối đầu leo thang, chúng ta sẽ không ngần ngại tham gia vào một cuộc chiến tranh địa phương hóa.  Giới lănh đạo đảng đă đưa ra một quyết định rơ ràng: Nếu Việt Nam mưu toan tham dự vào cuộc phiêu lưu quân sự, chúng ta cương quyết chiến đấu.  Nếu Việt Nam áp đặt chiến tranh trên nhân dân Căm Bốt và xâm lăng xứ sở này bằng vũ lực, chúng ta sẽ ủng hộ Căm Bốt tài và vật lực, và chúng ta không ngần ngại thực hiện các sự hy sinh trong toàn dân. 19     

       Bắc Kinh đă leo thang trong ngôn từ hồi cuối Tháng Năm khi nó loan báo Trung Quốc sẽ phái hai chiếc tàu để cứu vớt người Hoa bị ngược đăi muốn rời khỏi Việt Nam.  Mùa hè năm đó, hai tàu chuyên chở của Trung Quốc đă đậu ở ngoài khơi Việt Nam chờ  đợi sự cho phép không bao giờ xảy ra để tiến vào hải phận Việt Nam và thu gom người Hoa.  Sự chuyển động của Bắc Kinh đă được giải thích hoặc như một sự “trắc nghiệm” sự sẵn ḷng của Việt Nam để thỏa hiệp hay như một thủ đoạn tuyên truyền quảng bá của một chính phủ Trung Quốc đang thất vọng. 20 Bước tiến thực sự chọc giận Hà Nội và khiến Trung Quốc bị nh́n là bất lực không giải quyết được cuộc khủng hoảng.  Biến cố đă đánh dấu sự khởi đầu của một khuynh hyướng cứng rắn bởi Bắc Kinh đối với Hà Nội: trước biến cố này, Trung Quốc đă t́m cách giải quyết vấn đề trong một cung cách ôn ḥa và ḥa giải.  Thí dụ, Bắc Kinh đă làm việc không ngừng để điều ḥa ngôn từ và các hành động của Phnom Penh đối với Hà Nội hồi cuối năm 1977 và đầu năm 1978.  Phía Trung Quốc đă hy vọng chặn đứng một cuộc xâm lăng của Việt Nam vào Căm Bốt.  Hơn nữa, trong khi t́m cách giải quyết vấn đề người gốc Hoa, Bắc Kinh trước tiên đă cố đưa ra đề nghị ngoại giao kín tiếng và bí mật hồi đầu năm 1978. 21

       Sau biến cố tàu cứu nạn, giới lănh đạo Trung Quốc đă tái gia tăng gấp đôi các nỗ lực để ủng hộ cho phe Khmer Đỏ.  Các sự tham khảo với bộ trưởng quốc pḥng của Căm Bốt trong một cuộc thăm viếng Bắc Kinh hồi Tháng Bẩy 1978 đă dẫn dắt Bắc Kinh đến việc xúc tiến viện trợ quân sự của nó cho Phnom Penh; đến Tháng Mười Hai, đă có khoảng năm ngh́n cố vấn quân sự Trung Quốc tại Căm Bốt.  Bắt đầu từ Tháng Tám 1978, t́nh báo Hoa Kỳ đă phát hiện sự hoạt động quân sự gia tăng của Trung Quốc gần biên giới với Việt Nam. 22

       Sau đó vào đầu Tháng Mười Một, các nhà lănh đạo Trung Quốc đă được phái đến khu vực để có cái nh́n trực tiếp trên t́nh h́nh tổng quát.  Phó Thủ Tướng Đặng Tiểu B́nh đă thực hiện một chuyến thăm viếng các quốc gia Đông Nam Á để giải thích quan điểm của Trung Quốc về Căm Bốt và Việt Nam.  Từ các sự tường thuật về các cuộc thảo luận của họ Đặng tại Bangkok và Singapore, điều xem ra rơ rệt rằng nhà lănh đạo Trung Quốc đang cố gắng thăm ḍ tư tưởng của các nhà lănh đạo Hiệp Hội Các Nước Đông Nam Á (ASEAN: Association of Southeast Asian Nations) về t́nh trạng tại Đông Dương và chuẩn bị họ về khả tính của hành động quân sự của Trung Quốc.  Cùng lúc, ủy viên Bộ Chính Trị Wang Dongxing đă cầm đầu một phái đoàn, gồm cả Hu Yaobang và Yu Qiuli, sang Căm Bốt.  Pol Pot đă thỉnh cầu với phái đoàn sự can thiệp quân sự trực tiếp của Trung Quốc.  Tiếp theo sau các chuyến du hành này, giới lănh đạo Bắc Kinh đă nhóm họp để cứu xét cẩn trọng về t́nh h́nh đang biến chuyển và sự đáp ứng thích hợp của Trung Quốc. 23

 

QUYẾT ĐỊNH

       Hội Nghị Công Tác Trung Ương vào mùa đông 1978 chắc chắn là phiên họp quan trọng nhất trong thời hậu Mao.  Đông Dương chỉ là một trong số các vấn đề quan yếu được thảo luận tại phiên họp, kéo dài từ giữa Tháng Mười Một cho đến giữa Tháng Mười Hai.  Một loạt các quyết định đă được đạt tới tại phiên họp này bởi các nhà lănh đạo Trung Quốc, và được chính thức hóa tại kỳ họp của Ủy Ban Trung Ương Đảng liền theo đó, đă có các hậu quả to tát đến đường hướng mà xứ sở sẽ thực thi trong các sự vụ đối ngoại và đối nội cho hai thập niên sắp tới.  Về mặt đối nội, các quyết định đă giao kết Trung Quốc vào một chương tŕnh cải cách bao gồm cả các sự cải cách chính trị và kinh tế triệt để.  Về mặt đối ngoại, các quyết định đă kết buộc Trung Quốc theo một chiều hướng thực tiễn hơn nhằm tăng cường vị thế địa chính trị của xứ sở -- xuyên qua việc rèn luyện một sự xếp hàng quốc tế mới với Hoa Kỳ -- trong khi hiện đại hóa nền kinh tế bằng việc mở rộng ngoại thương và khuyến khích đầu tư nước ngoài tại Trung Quốc.  Tác động trực tiếp nhất nằm trong chính sách ngoại giao của Trung Quốc: một quyết định để b́nh thường hóa các quan hệ với Hoa Kỳ vào nhật kỳ sớm nhất có thể được, và để chuẩn bị phóng ra một cuộc tấn công hạn chế, được xác định một cách cẩn trọng, nhằm đánh Việt Nam vào đầu năm 1979. 24

       Tại sao Trung Quốc đă quyết định tấn công Việt Nam? Quyết định đă được lấy bởi v́ như các nhà lănh đạo Trung Quốc đă phát biểu nhiều lần, bắt đầu vào ngay lúc cuối Tháng Mười Hai 1978, rằng họ muốn “dạy cho Việt Nam một bài học”.  Nhóm chữ này chỉ được dùng sau khi có cuộc xâm lăng toàn lực của Việt Nam vào Căm Bốt. 25 Quyết định, mặc dù được tính toán, là một sự đáp ứng mang tính chất cảm xúc đối với các hành động “phản Hoa” (anti-Chia: fan-Hua) toàn diện của Việt Nam.  Thành ngữ “dạy cho Việt Nam một bài học” tự bản thân chứa chất đầy xúc cảm và nhuốm vẻ kiêu căng.  Sự khinh miệt và tâm địa độc ác dành cho Hà Nội nơi các nhà lănh đạo của Bắc Kinh được thể hiện một cách rơ ràng trong cách họ nói về Việt Nam với các viên chức của các nước khác, kể cả của Thái Lan, Singapore và Hoa Kỳ. 26  Cuộc tấn công xem ra cần thiết bởi các nỗ lực ngoại giao cưỡng hành của Bắc Kinh đă thất bại.  Trung Quốc đă thất bại trong việc ngăn chặn Việt Nam không biến các công dân gốc Hoa của nó thành các nạn nhân, và cũng đă thất bại trong việc khống chỉ Việt Nam khỏi việc xâm lăng vào Căm Bốt. 27 Trên nguyên tắc, quyết định cho một sự chuyển động quân sự đă được lấy một cách hoàn toàn dễ dàng bởi dường như đă có một sự thỏa thuận lớn lao tại Bắc Kinh rằng một vài loại đáp ứng mạnh mẽ của Bắc Kinh đă được sắp xếp.  Tuy nhiên, có các sự khác biệt lớn lao về kích cỡ và phạm vi thích hợp cho hành động của Trung Quốc cũng như đă có một số sự chống đối.

       QĐGPNDTQ đă khởi sự các sự chuẩn bị của nó cho cuộc tấn công nhiều tháng trước đó, bắt đầu từ giữa Tháng Mười Một, nếu không phải c̣n sớm hơn nữa. 28  Bắc Kinh đă suy nghĩ nhiều về quyết định.  Họ Đặng đă đoan quyết với các thông tín viên Hoa Kỳ trong cuộc thăm viếng của ông tại Hoa Kỳ hồi đầu năm 1979, “Chúng tôi, phía Trung Hoa, không hành động một cách liều lĩnh”. 29 Trung Quốc đă đưa ra nhiều sự cảnh cáo và đe dọa trước khi có cuộc tấn công của họ.  Trung Quốc cũng nói rơ với Liên Bang Sô Viết và Việt Nam vào lúc khởi đầu cuộc tấn công và lập lại nhiều lần trong suốt cuộc xung đột rằng cuộc chiến tranh sẽ được giới hạn một cách nghiêm ngặt về phạm vi và thời hạn. 30

       Các nhà lănh đạo Trung Quốc đă nh́n cuộc tấn công vào Việt Nam tương tự về thể cách và phạm vi với cuộc đụng độ ngắn ngủi nhưng dữ dội hồi năm 1962 của Bắc Kinh với Ấn Độ tại rặng núi Hy Mă Lạp Sơn. 31 Trong thực tế, sự so sánh này sai lạc trong nhiều khía cạnh quan trọng.  Trước tiên, như tác giả Gerald Segal đă nhận xét, đă không có “sự leo thang nhất quán trong các sự cảnh cáo của Trung Quốc” theo phương cách đă làm với Ấn Độ trong năm 1952 (và Triều Tiên trong năm 1950). 32 Một sự phân tích các lời tuyên bố được đưa ra bởi Bắc Kinh trong những tháng trước khi có cuộc tấn công xác nhận điều này: Trong khi Trung Quốc đưa ra các lời cảnh cáo nghiêm khắc, đáng ngại hồi cuối Tháng Mười Hai 1978 – theo sau cuộc xâm lăng của Việt Nam vào Căm Bốt – các sự loan báo của Trung Quốc trong Tháng Một và đầu Tháng Hai 1979, khi so sánh, th́ không có tính chất nguy hại. 33 Nh́n theo quan điểm của Bắc Kinh, ba “kháng thư mạnh mẽ” được đưa ra bởi Bộ Ngoại Giao vào ngày 18 Tháng Một, 10 Tháng Hai và 26 Tháng Hai, đă là các sự cảnh cáo rơ ràng và không có ǵ mập mờ, điều này không có vẻ là thông điệp mà Hà Nội đă nhận được. 34 Thứ nh́, đối thủ của Trung Quốc trong năm 1979, Việt Nam, về mặt quân sự th́ mạnh hơn nhiều và có khả năng hơn Ấn Đố trong năm 1962, như Bắc Kinh đă nhận thức một cách muộn màng với sự thất vọng của nó. 35

       Trung Quốc cũng tổ chức các cuộc tham khảo trước khi có cuộc tấn công với các quốc gia thân hữu, đặc biệt là Hoa Kỳ, Nhật Bản và Thái Lan.  Trong ba nước này, Bangkok là kẻ ủng hộ mạnh mẽ nhất và hợp tác chặt chẽ nhất với Bắc Kinh.  Ủy Viên Bộ Chính Trị Geng Biao và Thứ Trưởng Ngoại Giao Han Nianlong (Hàn Niệm Long) đă được phái đi trong một phái bộ bí mật sang Thái Lan hồi giữa Tháng Một để hội kiến với Thủ Tướng Kriangsak Chomanan.  Kết quả của nhiều ngày thường thảo mạnh mẽ là sự thành lập một liên minh trong thực tế chống lại Việt Nam. 36 Họ Đặng cũng nói một cách thẳng thừng về một cuộc tấn công của Trung Quốc vào Việt Nam trong cuộc thăm viếng quan trọng của ông ở Hoa Kỳ hồi cuối Tháng Một đầu Tháng Hai 1979, tiếp theo sau sự thiết lập các quan hệ ngoại giao trọn vẹn giữa Bắc Kinh và Hoa Thịnh Đốn hôm 1 Tháng Một.  Trong hai phiên họp khác nhau với Tổng Thống Jimmy Carter, họ Đặng đă tŕnh bày ư định của Trung Quốc tấn công Việt Nam một cách rất rơ ràng. 37 Họ Đặng cũng nêu ra các ư kiến rơ rệt về chuyện này với các nhà lănh đạo chính trị khác tại Hoa Thịnh Đốn.  Trong khi chính quyền Carter đă không trao cho nhà lănh đạo Trung Quốc sự ủng hộ vững chắc của nó đối với sự chuyển động này, nó cũng đă không chống đối một cách công khai.  Bắc Kinh thỏa măn với sự mơ hồ bởi nó để ngỏ cho Mạc Tư Khoa và Hà Nội phải ước đoán về mức độ hậu thuẫn của Hoa Thịnh Đốn cho cuộc tấn công sau rốt và về tầm mức phối hợp của Hoa Kỳ với Trung Quốc.

       Một ngày sau khi họ Đặng quay trở về từ Hoa Kỳ và Nhật Bản, một phiên họp của Quân Ủy Trung Ương (QUTƯ) đă được triệu tập.  Trong một phiên họp kéo dài từ 9 Tháng Hai đến 12 Tháng Hai, các nhà lănh đạo quân sự và dân sự thượng tầng đă đạt được sự thỏa thuận tổng quát về các giới hạn của một cuộc hành quân đánh Việt Nam.  Họ đă đồng ư rằng sẽ không có sự tham dự trực tiếp của Hải Quân QĐGPNDTQ hầu tổi thiếu hóa các cơ hội lôi kéo các lực lượng hải quân Sô Viết trong vùng.  Quyết định không sử dụng máy bay cũng được đưa ra với mục đích né tránh sự leo thang.  Chắc chắn rằng sự kiện Trung Quốc chỉ sở đắc một năng lực không quân rất giới hạn, một năng lực hoàn toàn thua kém năng lực của Việt Nam, đă hiển hiện trong quyết định. 38 Dù thế, các đơn vị của cả hải và không quân Trung Quốc tại khu lân cận đă được tăng cường và được đặt vào t́nh trạng báo động như một biện pháp pḥng bị.  Máy bay của Không Lực QĐGPNDTQ đă tuần cảnh biên giới và bảo vệ không phận của Trung Quốc. 39 Các giới hạn này và chủ định của Trung Quốc sẽ triệt thoái một cách mau chóng sau khi hoàn tất bất kỳ cuộc tấn công nào đă được thông báo qua một loạt các đường dây với các nước bạn và thù của Trung Quốc.  Họ Đặng được đề cử làm tổng tư lệnh tổng quát cho cuộc hành quân, và các Thống Chế NieRongzhen và Xu Xiangqian được cử làm phụ tá cho ông ta.  Sau đó, vào ngày 16 Tháng Hai, lúc sắp sửa xảy ra cuộc tấn công, họ Đặng đă tŕnh bày rơ ràng về lư luận căn bản cho cuộc tấn công vào Việt Nam tại một phiên họp của các nhà lănh đạo trung ương đảng.

       Bất kể các lời cảnh cáo lập lại nhiều lần rằng một vài loại hoạt động quân sự sắp sửa xảy ra, Bắc Kinh đă t́m cách duy tŕ một thành tố của sự bất ngờ trong sự ấn định thời điểm chính xác của cuộc tấn công.  Trong khi Trung Quốc rơ ràng đang tập trung đông đảo binh sĩ dọc theo biên giới của nó với Việt Nam, nó đă cố gắng che dấu cuộc tấn công sắp xảy ra.  Vào ngày 22 Tháng Mười Hai, 1978, Trung Quốc có thông báo phía Việt Nam rằng dịch vụ trên tuyến hỏa xa quốc tế giữa hai nước sẽ bị đ́nh chỉ bởi có t́nh trạng đường rày nguy hiểm phát sinh từ sự tổn hại gây ra bởi các cuộc tấn công của Việt Nam.  Chắc chắn lư do này của việc đ́nh chỉ sự lưu thông hành khách và hàng hóa có thể hợp lư trên bề mặt, nhiều phân sự loan báo nhằm che dấu cho lư do chính yếu của việc đóng cửa tuyến đường: xúc tiến các sự chuẩn bị cho một cuộc tấn công trong Tháng Hai. 41 Đáng kể hơn là cuộc tấn công thực sự đă khởi sự trong lúc có cuộc thăm viếng Trung Quốc của Ngoại Trưởng Ấn Độ, Atal Bihari Vajpayee.  Việt Nam đă không dự liệu bất kỳ cuộc tấn công nào diễn ra trong khi có cuộc thăm viếng này. [Phía Ấn Độ cũng không dự liệu như thế; ông Vajpayee giận dữ đă cắt ngắn cuộc thăm viếng và đă quay trở về New Delhi].  Họ Đặng cố t́nh mập mờ khi các kư giả Ấn Độ, các người đang có mặt tại Bắc Kinh cho cuộc thăm viếng của Vajpayee, hỏi ông ta về loại bài học nào mà Trung Quốc có ư định dạy cho Việt Nam.  Câu trả lời của ông ta đă dẫn dắt một số thông tín viên đến việc kết luận rằng một cuộc tấn công vào Việt Nam không nằm trong các quân bài ở một tương lai kề cận. 42

       Cuộc tấn công sau rốt hôm 17 Tháng Hai 1979, bao gồm các trận pháo của đại bác và sự giao tranh dữ dội bởi các đơn vị bộ binh QĐGPNDTQ.  Cuộc tấn kích bao gồm các mũi tấn công được phối hợp trên hai mặt trận: từ Vân Nam ở phía tây và từ Quảng Tây ở phía đông.  Sau một số thành công sơ khởi, bộ đội Trung Quốc bị sa lầy bởi địa thế hiểm trở và sự pḥng thủ ngoan cường được dựng lên bởi quân pḥng thủ Việt Nam.  Hậu quả, cuộc tiến quân của QĐGPNDTQ bị chậm trễ hơn nhiều và các số tổn thất nặng nề hơn nhiều mức Bắc Kinh dự liệu.  Một dấu hiệu của sự không hài ḷng của Bắc Kinh về phương thức mà sự việc đang diễn ra là sự giáng chức Xu Shiyou (Hứa Thế Hữu).  Theo một sự tường thuật, Xu Shiyou bị thay thế trong chức tư lệnh hành quân bởi Yang Dezhi (Dương Đắc Chí). 43 Bất luận sự giáng chức này có xảy ra hay không, chúng ta biết rằng chưa đầy một năm sau đó, vào Tháng Một 1980, Xu Shiyou bị loại ra khỏi chức vụ tư lệnh Quân Khu Quảng Châu.  Vào ngày 5 Tháng Ba, sau mười sáu ngày giao tranh khốc liệt, bộ phận tấn công của cuộc hành quân được kết thúc theo sau sự chiếm cứ Lạng Sơn, thành phố biên giới quan trọng sau cùng được chống đỡ bởi các lực lượng Việt Nam.  Cùng ngày, Bắc Kinh đă loan báo rằng các binh sĩ Trung Quốc sẽ được triệt thoái ra khỏi Việt Nam.  Và sự rút lui của các binh sĩ Trung Quốc đă được hoàn tất mười một ngày sau đó.

 

CÁC NHÀ LĂNH ĐẠO DÂN SỰ

       Trong khi một số nhà phân tích tường thuật răng cuộc chiến tranh không được xem là một “vấn đề gây phân hóa” quan trọng tại Bắc Kinh, các nhà phân tích khác nhấn mạnh rằng đă có “các sự bất đồng rất đáng kể trong giới lănh đạo về việc liệu có nên phóng ra một cuộc tấn công hay không.  Phần lớn các nhà phân tích khẳng định rằng mối quan ngại chính dường như là một cuộc tấn công như thế sẽ chuyển hướng thời giờ và tài nguyên quư báu ra khỏi ưu tiên hàng đầu của Trung Quốc: cải cách và phát triển kinh tế. 44 Ngoài ra đă có sự lo sợ rằng cuộc tấn công sẽ leo thang vượt quá sự kiểm soát, rất có thể khiêu khích một cuộc tấn công của Sô Viết vào Trung Quốc.

 

Các Người Ủng Hộ Mạnh Mẽ

       Vào Tháng Mười Hai 1978, họ Đặng, nhà lănh đạo tối cao trong thực tế, đă là kẻ binh vực mạnh mẽ nhất cho một cuộc tấn công vào Việt Nam.  Họ Đặng là một trong năm phó chủ tịch của ĐCSTQ, và một phó thủ tướng của Hội Đồng Nhà Nước.  Họ Đặng đă nắm lấy sự chủ động ngay từ lúc khởi đầu, tại một phiên họp Bộ Chính Trị mở rộng hồi Tháng Năm 1978 khi vấn đề phải làm ǵ đối với một Việt Nam ngày càng khẳng quyết, được nêu lên lần đầu tiên.  Họ Đặng được tường thuật đă nói: “Chúng ta phải giáng một trận đánh mạnh mẽ vào đầu luồng sóng thù nghịch chống Trung Quốc được khuấy động bởi Việt Nam.  Chính sách của chúng ta … là thực hiện một cuộc đối đầu trực tiếp và đấu tranh trên từng tấc đất”. 43 Trong khi ông được xếp loại ở đây như một người bên phía dân sự, vào lúc đó họ Đặng cũng là một người chỉ huy của Tổng Quân Ủy QĐGPNDTQ và có kinh nghiệm sâu rộng về các việc quân sự.  Thực tế, họ Đặng dường như tự xem ḿnh ngang hàng với họ Mao – có nghĩa, như một lănh tụ dân sự thượng tầng của đảng với sự hiểu biết chuyên môn về quân sự sâu rộng và một tài năng đặc biệt về các vấn đề chiến lược.  Họ Đặng đă không chỉ nh́n ḿnh như một chiến sĩ đơn thuần. 46

       Họ Đặng đă nh́n sự việc trong cái nh́n địa lư chính trị bao quát.  Sự khẳng quyết gia tăng của Liên Bang Sô Viết được chỉ dấu bởi cuộc xâm lăng vào A Phú Hăn hồi Tháng Mười Hai 1978 và sự củng cố một liên minh trên pháp lư [de jure, tiếng La Tinh trong nguyên bản, chú của người dịch] giữa Mạc Tư Khoa và Hà Nội một tháng trước đó, đă khơi dậy sự hoảng hốt đáng kể tại Bắc Kinh.  Các sự phát triển này đă khiến cho sự tiến bộ mau chóng trong sự b́nh thường hóa với Hoa Thịnh Đốn càng trở nên cấp bách hơn hết và một vài loại đáp ứng mạnh mẽ của Trung Quốc trước sự biến động tại Trung Quốc càng trở nên quan trọng hơn hết.  Trong tư tưởng của họ Đặng, Trung Quốc cần phải biểu lộ quyết tâm – có nghĩa nó không phải chỉ sủa không thôi mà không có cắn lại kẻ địch.  Chính v́ thế, cán cân quyền lực quốc tế thay đổi xem ra đ̣i hỏi một màn biểu dương sức mạnh của Trung Quốc.  Và quan điểm về chính sách ngoại giao này đă là một phần kết hợp và quan trọng của một “gói chính sách” (policy package) đối nội được phát huy bởi họ Đặng và các đồng minh phe cải cách của ông. 47 Đối với họ Đặng, nó biểu lộ quyết tâm của ông đối với một quốc gia chư hầu của mối đe dọa số một (Moscow) đối với Bắc Kinh, làm nổi bật mối nguy hiểm được đặt ra bởi Hà Nội, và soi sáng cho lư luận về các quan hệ được cải thiện với đối thủ thời trước đây của Bắc Kinh, Hoa Thịnh Đốn. 48 Một cuộc chiến tranh nhỏ sẽ có khuynh hướng giành thắng được các đồng minh ôn ḥa và làm im tiếng các kẻ chỉ trích to mồm thuộc phe bảo thủ.  Cùng lúc nó cũng mang lại cho họ Đặng cơ hội lớn lao để phô bày sự hiểu biết chuyên môn về quân sự đáng kể của ông và lôi kéo sự chú ư đến sự thiếu kiến thức quân sự hiển nhiên của Hoa Quốc Phong.  Hơn nữa, cuộc hành quân sẽ cung cấp kinh nghiệm chiến đấu quư giá cho QĐGPNDTQ và, ngay dù có thành công lớn, chắc chắn làm phát lộ các sự khiếm khuyết và tăng cường cho các lời kêu gọi các sự cải cách nền tảng trong quân đội – một mục tiêu gần gủi và thân thiết trong tâm tưởng họ Đặng. 49

       Điều này không có nghĩa họ Đặng đă vứt bỏ sự thận trọng bay theo làn gió; ông rất quan ngại về cuộc xung đột leo thang thành một đám cháy lớn hơn dính líu đên Liên Bang Sô Viết.  Họ Đặng đă biện hộ cho một cuộc chiến tranh hạn chế bởi ông đă nghĩ nó sẽ giảm thiểu tôi đa khả tính của sự can thiệp của Sô Viết.  Một cuộc tấn công lớn lao từ Liên Bang Sô Viết nhiều phần không xảy ra theo quan điểm của họ Đặng, và Trung Quốc đă chuẩn bị kỹ lưỡng cho một sự đáp ứng ở quy mô nhỏ hay trung b́nh từ Sô Viết.  Ngoài ra, họ Đặng tin tưởng sẽ không có sự đáp ứng quốc tế tiêu cực.  Ông cũng lập luận rằng một cuộc xung đột hạn chế có thời hạn tương đối ngắn sẽ không ảnh hưởng bất lợi đến sự hiện đại hóa kinh tế của Trung Quốc.  Trong sự phân tích cuối cùng, họ Đặng lập luận, trong khi nhiều phần không chắc Trung Quốc sẽ đạt được một chiến thắng quân sự vĩ đại trong một cuộc chiến tranh như thế, có xác suất tương ứng rằng Trung Quốc sẽ không phải gánh chịu một sự thất trận quan trọng.  Họ Đặng đă mạnh mẽ chống đối các kẻ đầu óc phiêu lưu hơn bênh vực cho sự can thiệp quân sự trực tiếp tại Căm Bốt. 50

       Một người binh vực khác cho một sự đáp ứng quyết đoán đối với các hành động của Việt Nam là họ Wang [Dongxing: Vương Đông Hưng?].  Bởi v́ ông là một trong số các người có quyền thế nhất tại Trung Quốc do chức vụ của ông là tư lệnh Trung Đoàn Bảo Vệ Trung Ương – đơn vị cận vệ chịu trách nhiệm về an ninh của các nhà lănh đạo hàng đầu của Trung Quốc – ư kiến của họ Wang th́ quan trọng.  Ông ta đă phụ trách việc bảo vệ họ Mao và là công cụ cho sự bắt giữ thành công nhóm Tứ Nhân Bang hồi Tháng Mười 1976.  Ở đây họ Wang cũng được xếp loại như một viên chức công an hơn là một quân nhân bởi nghề nghiệp và sự tham gia tổ chức chính yếu của ông ta đều nằm trong guồng máy công an. 51 Ảnh hưởng của ông được phản ảnh trong sự bổ nhiệm ông làm một phó chủ tịch của ĐCSTQ và bởi sự kiện rằng chính ông đă cầm đầu một phái đoàn nghiên cứu của Trung Quốc sang Phnom Penh hồi đầu Tháng Mười Một 1978. 52 Trong cuộc thăm viếng của ông, họ Wang đă nhận được một lời cầu viện khẩn cấp từ lănh tụ phe Khmer Đỏ, Pol Pot, muốn có các binh sĩ t́nh nguyện Trung Quốc được phái sang Căm Bốt.  Tại Hội Nghị Công Tác Trung Ương kéo dài một tháng hồi cuối năm 1978, họ Wang đă binh vực việc thực hiện chính điều này. 53 Trong khi nhận xét rằng phía Việt Nam có thể tiếp tục “chạy hoang trong một lúc”, họ Wang dường như đă nhận ra rằng, ngay cả nếu Trung Quốc có can thiệp về mặt quân sự tại Căm Bốt, việc chuyển vận các binh sĩ Trung Quốc đến xứ sở này sẽ đ̣i hỏi th́ giờ và bất kể lực lượng nào được gửi đi nhiều phần sẽ bị giới hạn về quân số. 54  Bởi v́ ông dường như có đưa ra một số sự suy xét về các khó khăn tiềm ẩn, về mặt tiếp vận và khía cạnh khác, liên hệ đến một cuộc hành quân như thế, ông có lẽ tương đối dễ chấp nhận một đề nghị dung ḥa ít bất trắc hơn: tấn công trực tiếp vào Việt Nam.

       Li Xiannian (Lư Tiên Niệm), cũng là một phó chủ tịch của ĐCSTQ, một phó thủ tướng của Hội Đồng Nhà Nước, và trưởng Nhóm Chỉ Đạo Công Tác Đối Ngoại, rơ ràng đă ủng hộ cuộc tấn công.  Kết luận này được dựa trên các lời tuyên bố mạnh mẽ của họ Lư về cuộc hành quân quân sự cả trước lẫn sau khi có sự kiện này.  Vào ngày 11 Tháng Hai, trong một cuộc đối thoại với một phái đoàn quân sụ Pakistan, họ Lư đă nói:

…Việt Nam đă phóng ra một cuộc xâm lăng bừa băi chống lại Kampuchea [Căm Bốt] và cùng lúc đẩy mạnh các sự khiêu khích quân sự của nó dọc biên giới Trung – Việt và chiếm đóng một số địa điểm của Trung Quốc.  Nhân dân Trung Quốc rất phẫn nộ về việc này.  Chúng ta có thời giờ và một lần nữa cảnh cáo phía Việt Nam đừng ngoảnh tai điếc về những ǵ chúng ta đă nói. 55

       Ông có nói với một phóng viên báo chí Nhật Bản hôm 4 Tháng Ba, 1979 rằng cuộc hành quân đă là một sự thành công vĩ đại và rằng QĐGPNDTQ được triệt thoái bởi nó đă đạt được mục tiêu của nó nhằm thiết lập một “biên giới an toàn”. 56 Trong khi thường là một con người ôn ḥa, quan điểm mạnh mẽ của họ Lư trong trường hợp này có thể được giải thích bởi vai tṛ then chốt của ông trong cơ cấu chính sách ngoại giao ở Bắc Kinh và quá tŕnh lâu dài của sự can dự tích cực của ông trong các quan hệ Trung – Việt.  Họ Lư nhiều phần sẽ rất tức giận phương cách mà Việt Nam dường như đă đền trả nhiều thập niên của t́nh hữu nghị cùng khoản viện trợ quân sự và kinh tế đáng kể của Trung Quốc. 57 Chính v́ thế, có lẽ ông đă nh́n một cuộc tấn công vào Việt Nam như một động tác sẽ nâng cao tư thế của Trung Quốc trên thế giới, đặc biệt đối với hai siêu cường.  Tuy thế, một tháng sau đó, trong một báo cáo đến một hội nghị công tác trung ương, các xúc cảm của họ Lư đă nhường bước cho một sự lượng định b́nh tĩnh hơn về cuộc xung đột về phương diện hao tổn tài chính mà nó đă tạo ra trên các ngân khoản nhà nước.  Các trách nhiệm thư lại của họ Lư trong công việc tài chính đă ảnh hưởng lớn lao đến nhăn quan của ông. 58

 

Sự Ủng Hộ Vừa Phải

       Họ Hoa, chủ tịch ĐCSTQ, thủ tướng CHNDTQ, và chủ tịch Quân Ủy Trung Ương (QUTƯ), có vẻ đă ủng hộ một cách thận trọng hành động quân sự.  Mặc dù trên danh nghĩa là nhà lănh đạo cao cấp nhất ở Trung Quốc, do bộ ba chức vụ cao cấp của ông, vị thế của ông c̣n lâu mới được an toàn.  Trong thực tế, họ Đặng và các người ủng hộ ông ta đă dần dà triệt hạ thẩm quyền chính thức của họ Hoa.  Họ Hoa trẻ tuổi hơn họ Đặng nhiều và đă không sở đắc uy tín, bề dầy kinh nghiệm, hay các mạng lưới cá nhân sâu rộng được thụ hưởng bởi họ Đặng và các thành viên khác của thế hệ Trương Chinh.  Hơn nữa, họ Hoa đă không có sự tinh thông quân sự cùng sự giao tiếp quốc tế và kinh nghiệm về chính sách ngoại giao rất hạn chế.  Như thế, họ Hoa đă không chống đối công khai cuộc tấn công vào Việt Nam mặc dù có thể ông ta chống lại điều đó. 59 Đáng trích dẫn các nhận xét hiền lành nhưng kiềm chế được gán cho là của họ Hoa trong phiên họp của Bộ Chính Trị hồi Tháng Năm 1978.  Chúng ta sẽ “phải can đảm và khéo léo trong cuộc đấu tranh của chúng ta với Việt Nam”, ông có nói với các đồng sự của ông. 60 Họ Hoa đă đọc bài diễn văn khai mạc tại một phiên họp toàn quốc quan trọng để giải thích lư luận cho một cuộc tấn công vào Việt Nam cho các nhà lănh đạo trung ương và cấp tỉnh.  Ông đă nói ngắn gọn tại phiên họp hôm 16 Tháng Hai, 1979, tuyên bố rằng Bộ Chính Trị đă quyết định phóng ra một cuộc tấn công vào Việt Nam trong ngày kế đó.  Ông sau đó đă nhường bục diễn giả cho họ Đặng, kẻ đă cung cấp các chi tiết về phạm vi, các mục tiêu, và các bất trắc liên quan đến cuộc hành quân. 61 Vai tṛ ngoại vi của họ Hoa trong quyết định được nhấn mạnh bởi sự vắng mặt thực sự của ông trong nhóm các nhà lănh đạo thượng tầng giám sát diễn tiến cuộc hành quân.  Như người cầm đầu trên danh nghĩa bộ phận đảng với trách nhiệm trực tiếp về QĐGPNDTQ, một sự vắng mặt như thế đáng ngạc nhiên”. 62 Hoặc là họ Hoa cố t́nh giữ khoảng cách với cuộc chiến tranh bởi v́ ông chống đối nó hay bị ngăn cản không được dính líu nhiều hơn bởi họ Đặng và các đồng minh của ông ta.

 

Phe Chống Đối

       Dường như Chen Yun (Trần Vân), một phó chủ tịch khác của ĐCSTQ và là chuyên viên kinh tế hàng đầu của Trung Quốc, đă chống đối cuộc chiến tranh.  Sau chiến tranh, Chen Yun được tường thuật có nói: “Chúng ta đă không bẻ găy được các ngón tay của họ, mà chỉ làm chúng bị thương.  Trong một vài khía cạnh, chúng ta thực sự đă giúp đỡ họ”. 63 Ông được nói đă đưa ra một “bản kết tội gay gắt” về cuộc xung đột sau khi đă xảy ra trong một báo cáo mà ông đọc tại một hội nghị công tác hồi Tháng Tư 1979.  Chen Yun nhận xét rằng cuộc chiến tranh đă được đ́nh chỉ không mấy sớm.  Nếu cuộc xung đột tiếp tục trong nhiều tháng nữa, ông nhấn mạnh, gánh nặng kinh tế đối với xứ sở sẽ cực kỳ nặng nề. 64 Chen Yun ám chỉ rằng các binh sĩ QĐGPNDTQ đă thất bại trong việc giành đạt được các mục tiêu quân sự của họ và đă triệt thoái vào hồi đầu Tháng Ba v́ các lư do kinh tế. 65

 

CÁC LĂNH ĐẠO QUÂN SỰ

       Có các sự tường thuật trái ngược nhau về các quan điểm của các nhà lănh đạo QĐGPNDTQ đối với hoạt động quân sự tại Đông Dương.  Ít nhất một nhà phân tích cho rằng giới quân sự đă chống đối một cuộc tấn công vào Việt Nam, và chính là giới lănh đạo dân sự theo phái “diều hâu” (hawkish) đă thắng thế. 66 Các người khác lập luận rằng các nhân vật quân sự là các kẻ biện hộ chủ yếu cho một cuộc tấn công.  Tại phiên họp Bộ Chính Tri hồi Tháng Năm 1978, một nhóm các quân nhân cao cấp được tường thuật đă thúc đẩy sự can thiệp quân sự trực tiếp tại Căm Bốt.  “Một số trong các nhà lănh đạo quân sự” đă binh vực việc gửi “chí nguyện quân Trung Quốc” đến Căm Bốt để chống đỡ chính quyền phe Khmer Đỏ. 67 Tại một phiên họp Bộ Chính Trị mở rộng được tổ chức như một phần của Hội Nghị Công Tác Đảng Trung Ương Tháng Mười Một – Mười Hai, 1978, các nhân vật quân sự được tường thuật thuộc phe diều hâu, hung hăng hơn nhiều so với phe dân sự. 68 T́nh h́nh thực tế dường như hỗn tạp.  Trong khi một số các sĩ quan QĐGPNDTQ binh vực chiến tranh, các quân nhân khác cho thấy không nhiệt thành về hành động quân sự, bất luận được nhắm tới Việt Nam hay Căm Bốt, và vẫn có các quân nhân khác cương quyết chống lại bất kỳ cuộc tấn công nào.

 

Phe Ủng Hộ

       Một số quân nhân Trung Quốc có các ràng buộc xúc cảm mạnh mẽ với QĐNDVN, lùi về thập niên 1950 khi ĐCSTQ và Việt Minh hợp tác chặt chẽ.  Một số quân nhân Trung Quốc là các cựu chiến binh từ các chiến dịch của Việt Minh chống lại Pháp.  Các quân nhân như thế xem ra đặc biệt chua chát về các hành vi của Hà Nột và đặc biệt nhiệt thành với một sự đáp ứng mạnh mẽ trước các hành động thù nghịch của Việt Nam đối với Trung Quốc.  Wei Guoping, chỉ huy Tổng Cục Chính Trị (TCCT) của QĐGPNDTQ, đă từng đứng đầu Nhóm Cố Vấn Quân Sự Trung Quốc cho Việt Minh được thành lập trong năm 1950 và có hiện diện tại chiến thắng lịch sử chống người Pháp ở Điện Biên Phủ. 69 Họ Wei được tường thuật đă đưa ra một bài diễn văn khích động dành cho các sĩ quan QĐGPNDTQ tại Nam Ninh hôm 11 Tháng Mười Hai, 1978, lập luận rằng Trung Quốc phải “dạy cho Việt Nam một bài học”. 70 Họ Wei. một đồng minh của họ Đặng đă kế nhiệm thành viên của Tứ Nhân Bang, Zhang Chunqiao (Trương Xuân Kiều), làm Tổng Cục Trưởng TCCT hồi Tháng Chín 1977.

       Xu Shiyou (Hứa Thế Hữu), một quân nhân kỳ cựu khác của QĐGPNDTQ, đă mạnh mẽ ủng hộ một cuộc tấn công vào Việt Nam tại phiên họp Bộ Chính Trị hồi cuối năm 1978.  Trong thực tế, ông đích thân t́nh nguyện chỉ huy các lực lượng Trung Quốc.  Ông đă chỉ huy các binh sĩ tại khu vực phía đông.  Các cuộc hành quân tại chiến trường phía đông của cuộc xung đột, nằm kế cận tỉnh Quảng Tây, được chứng tỏ là kém xa các cuộc hành quân bên cánh tây, nơi họ Yang chỉ huy các lực lượng.  Thành quả không mấy hứng khởi của Xu Shiyou đă không được thể hiện trong bài diễn văn hào hứng mà ông đọc để vinh danh các binh sĩ đă tổ ra xuất sắc trong cuộc chiến tranh.  Ông đă nói, “Trong cuộc hoàn kích tự vệ chống lại Việt Nam này, chúng ta đă thực hiện rất hoàn hảo và đă đạt được một thắng lợi vĩ đại  -- biểu thị sức mạnh quốc gia chúng ta, biểu thị ḷng dũng cảm thượng vơ của chúng ta”. 71 Su Zhenhua, chính ủy thứ nhất của Hải Quân QĐGPNDTQ, đă là một kẻ binh vực mạnh mẽ khác cho việc phái các chiếc tàu đến ngoài khơi bờ biển Căm Bốt để ủng hộ cho phe Khmer Đỏ. 72 Họ Su đă từ trần mười ngày trước khi cuộc tấn công Tháng Hai được phóng ra.

       Tổng Tham Mưu Phó Bộ Tổng Tham Mưu QĐGPNDTQ, Tướng Wang [?Yang] Shanrong [Dương Thượng Côn?], dường như ủng hộ chiến tranh.  Tại một bữa tiệc dành cho đại sứ của Phnom Penh tại Bắc Kinh để kỷ niệm buổi lễ vinh danh hàng năm Quân Đội Cách Mạng Kampuchea hồi giữa Tháng Một 1979, Wang Shanrong có tuyên bố, “Tất cả các cấp chỉ huy và chiến sĩ của Quân Đội Giải Phóng Nhân Dân Trung Quốc … sẽ …quyết tâm ủng hộ Quân Đội Cách Mạng Kampuchea và nhân dân Kampuchea trong cuộc chiến tranh của họ chống lại sự xâm lăng của Việt Nam và để cứu nguy dân tộc”. 73 Là một phụ tá của họ Đặng, ông ta không thể nào nói khác hơn trong một dịp như thế.  Trong bất kỳ trường hợp nào, Wang Shanrong nhiều phần ủng hộ quan điểm của thượng cấp của ông ta về cuộc xung đột.

 

Phe Ủng Hộ Vừa Phải

      Thống Chế Xu Xiangqian, bộ trưởng quốc pḥng và là một ủy viên Bộ Chính Trị, dường như ủng hộ cuộc tấn công, mặc dù có thể không quá nhiệt thành.  Một năm rưỡi sau, trong Tháng Tám 1980, Xu Xiangqian có ám chỉ đến cuộc chiến tranh Việt Nam trong một cuộc phỏng vấn với một kư giả Ư Đại Lợi.  Ông ghi nhận rằng, trong khi Trung Quốc đi t́m kiếm một môi trường quốc tế ḥa b́nh hầu tập trung vào việc hiện đại hóa kinh tế, điều này không có nghĩa Trung Quốc sẽ ch́a má kia nếu bị đe dọa về mặt quân sự.  Và ông đă quan sát một số các cuộc xung đột cấp miền được phát động khắp nơi trên địa cầu, kể cả ở Đông Dương.  Đích thực là trong cùng một văn mạch, ông đă lập lại châm ngôn của họ Mao, “Nếu kẻ nào khác không đánh chúng ta, khi đó chúng ta sẽ không đánh họ; nhưng một vài kẻ nào đó đánh chúng ta, chúng ta sẽ nhất quyết đánh lại họ”. 74 Nhưng khi nói với một khối thính giả quân sự chỉ ít tuần lễ sau cuộc chiến, Xu Xiangqian dè dặt hơn nhiều trong sự lượng định của ông về cuộc xung đột.  Ông ta nói:

[Trong] cuộc hành quân quân sự này đánh Việt Nam, chúng ta đă thu lượm được kinh nghiệm trên mọi khía cạnh [và điều này] sẽ dẫn đến một cuộc tranh luận hậu chiến tranh rất quư báu.  Chúng ta có thể phân tích những ǵ đă diễn tiến tốt đẹp và những ǵ đă diễn tiến sai lầm – tất cả đều có ích cho công tác tương lai của chúng ta. 75

       Xu Xiangqian, cũng là phú chủ tịch của QUTƯ và phó tổng tư lệnh cuộc hành quân Việt Nam, đă phát biểu một số trong các bài học này sau này trong bài diễn văn của ông. 76 Tiểu sử chính thức của ông cho hay rằng ông đă đảm nhận một vai tṛ trung tâm trong việc “lập chính sách và đưa ra quyết định về cuộc chiến tranh “hoàn kích tự vệ” giữa Trung Quốc và Việt Nam.  Ông “đă tham dự vào việc phác họa các bản đồ chiến trận, lựa chọn lời nói của ông với sự cẩn thận lớn lao và thực hiện cuộc điều tra của ông với sự chú ư tỉ mỉ đến chi tiết”. 77

       Geng, cục trưởng cục liên lạc quốc tế của ĐCSTQ và là một phó thủ tướng, dường như đă hậu thuẫn cho một cuộc tấn công hạn chế đánh Việt Nam.  Mặc dù ông cũng phục vụ nhu một nhà ngoại giao, nơi đây họ Geng được xếp loại như một quân nhân.  Ông ta có một binh nghiệp sâu đậm và tự nh́n ḿnh đầu tiên và trên hết như một quân nhân. 78 Hai năm sau cuộc chiến tranh, trong Tháng Ba 1981, ông được bổ nhiệm làm bộ trưởng quốc pḥng.  Ông có nói với một phái đoàn Thụy Điển đến Bắc Kinh hôm 21 Tháng Hai 1979, rằng cuộc tấn công của Trung Quốc có giới hạn “về mặt không và thời gian”. 79 Họ Geng rơ ràng đă chống đối mạnh mẽ sự can thiệp quân sự tại Căm Bốt và đă đảm nhận vai tṛ người cầm đầu tranh luận chống lại một sự chuyển động như thế.  Ông cho rằng như một vấn đề nguyên tắc và v́ các sự cứu xét thực tiễn, chuyển động như sẽ sẽ cực kỳ khinh suất.  Nếu Trung Quốc can thiệp quân sự tại Căm Bốt, nó sẽ vi phạm một số trong Năm Nguyên Tắc Sống Chung Ḥa B́nh của chính ḿnh, tức không can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia khác và không xâm lăng.  Và từ một quan điểm thực tiễn thuần túy, hành động như thế sè làm phương hại đến các quyền lợi của Trung Quốc và đặt ra rủi ro đáng kể của sự leo thang.  Chiến tranh có thể sẽ khước từ các cơ hội của phe Khmer Đỏ để đảm nhận ghế đại diện Căm Bốt tại Liên Hiệp Quốc.  Hơn nữa, sự can thiệp nhiều phần làm Trung Quốc sa chân vào trong một vũng lầy Đông Dương với ít hy vọng sớm thoát ra được và nâng cao nỗi nguy hiểm thực sự của sự can thiệp trực tiếp của Sô Viết. 80

 

Phe Chống Đối

       Thống Chế Ye Jianying (Diệp Kiếm Anh), lúc đó là một phó chủ tịch ĐCSTQ và Chủ Tịch Quốc Hội, đă binh vực cho một chiến lược pḥng thủ thuần túy chống lại Việt Nam.  Cho đến Tháng Ba 1978, họ Diệp đă phục vụ với tư cách bộ trưởng quốc pḥng.  Hồi cuối Tháng Mười 1978, ông được tường thuật đă thúc dục sự chuẩn bị pḥng thủ cẩn thận tại miền nam chống lại một cuộc tấn công khả dĩ từ Việt Nam. 81 Trong bài diễn văn của ông tại Hội Nghị Công Tác Đảng Trung Ương hồi Tháng Mười Hai 1978, họ Diệp đă không đề cập ǵ hết đến các căng thẳng với Việt Nam hay diễn biến đang phát triển tại Đông Dương.  Có lẽ là các quan điểm của ông có thể thay đổi vào cuối Tháng Mười Hai, sau khi có cuộc xâm lăng của Việt Nam vào Căm Bốt.  Tuy nhiên, phán đoán theo một bài diễn văn quan trọng mà ông đưa ra nhân lễ kỷ niệm ba mươi năm ngày thành lập CHNDTQ hồi cuối Tháng Chín 1979 – bẩy tháng sau cuộc tấn công của Trung Quốc – điều này dường như không đúng.  Trong bài diễn văn, họ Diệp không đề cập ǵ cả đến cuộc chiến tranh gần đó với Việt Nam.  Ông tái xác định sự ủng hộ của Trung Quốc cho Căm Bốt trong cùng mạch văn khi bày tỏ sự ủng hộ cho các mục tiêu khác khắp địa cầu, và ông đưa ra sự cảm tạ tượng trưng cho vai tṛ của QĐGPNDTQ trong việc bảo toàn “lănh thổ thiêng liêng” của tổ quốc. 82

       Wang Zhen, phó thủ tướng và một cựu chiến binh khác, có lẽ hoặc chống đối hay giữ trung lập về cuộc tấn công đề nghị, mặc dù tôi không thể nói chắc chắn.  Tuy nhiên, hai năm sau, Wang là đồng tác giả của một bài b́nh luận trên tờ Workers’ Daily ấn hành ngày 4 Tháng Hai, 1981, chống đối một chính sách ngoại giao phiêu lưu.  Theo bài b́nh luận, “Trung Quốc phải pḥng vệ chống lại việc chuyển hướng một cuộc chiến tranh địa phương đến xứ sở chúng ta, và né tránh không bị lấy làm mục tiêu chính cho sự tấn công”. Bài viết được viết cùng với một người bạn đồng ngũ, Xiao Jingguang, nhà chiến lược quân sự Wu Xiuquan, và cố vấn chính sách ngoại giao họ Liao. 83

 

PHÂN TÍCH

       Một sự phân tích về con đường dẫn Trung Quốc đi tới chiến tranh với Việt Nam phát hiện rằng, trong khi Bắc Kinh hăm hở giao tranh, nó đă hành động trong một cung cách thận trọng và kiềm chế.  Đặc biệt sau khi có cuộc xâm lăng của Việt Nam vào Căm Bôt  hồi Tháng Mười Hai 1978, Trung Quốc đă muốn trừng phạt Việt Nam về mặt quân sự.  Lư luận chính thức cho cuộc tấn cống của Trung Quốc được đưa ra trong các lời loan báo của Bắc Kinh vào lúc đó và trong các sự tường thuật kế tiếp về cuộc chiến ngay cả hai thập niên sau khi có sự kiện, rằng các lực lượng Việt Nam đă đột nhập vào lănh thổ Trung Quốc trong thực tế cả ngh́n lần trong giai đoạn năm năm (từ 1974 đến Tháng hai, 1979). 84    

 

Sự Thất bại Của Ngoại Giao Cưỡng Hành?

       Khi khảo sát thời kỳ mười tám tháng dẫn đến cuộc tấn công của Trung Quốc vào Việt Nam, hai giai đoạn được nhận thấy: một trước ngày 25 Tháng Mười Hai, 1978, và một sau ngày này và kết thúc với sự bùng nổ chiến tranh hôm 17 Tháng Hai, 1979.   Cuộc xâm lăng toàn diện của Việt Nam vào Căm Bốt là một biến cố phân ranh rơ rệt.  Mục tiêu vượt quá tầm với trong chính sách của Trung Quốc trước ngày Lễ Giáng Sinh 1978 là nhằm gián chỉ một cuộc xâm lăng, và sau ngày này mục tiêu tối hậu của Trung Quốc được chuyển hướng nhằm dạy cho Việt Nam “một bài học”.  Cuộc xâm lăng của Việt Nam vào Căm Bốt đă phô bày rơ rệt sự thất bại của nỗ lực đầu tiên của Trung Quốc về ngoại giao cưỡng hành.

       Cuộc tấn công của Trung Quốc vào Việt Nam có biểu lộ sự thất bại trong nỗ lực thứ nh́ của nó hay không? Ngoại giao cưỡng hành có khuynh hướng bị xem là chấm dứt khi chiến tranh thực sự bùng nổ; sự xuất hiện của sự việc sau chỉ dấu cho sự thất bại của sự việc trước.  Theo lư luận này, ngoại giao cưỡng hành của Trung Quốc đă thất bại.  Một lư do then chốt cho sự thất bại này là sự “bất cân xứng về động lực”: Việt Nam đă quyết tâm trong việc giữ Căm Bốt như một khu vực ảnh hưởng hơn Trung Quốc muốn ngăn chặn điều này xảy ra, và Hà Nội chác chắn đă tính toán đến điều này.  Nhiều phần là Bác Kinh đă không sẵn sàng để gửi các lực lượng diện địa Trung Quốc sang pḥng thủ lănh thổ Căm Bốt.  Hơn nữa, giọng điệu của Trung Quốc không nhất quán và thiếu tính khả tín; cho đến giữa năm 1978, Trung Quốc phần lớn né tránh ngôn từ và hành động tóe lửa trong sự đối phó của nó với Việt Nam về Căm Bốt và Hoa kiều hải ngoại.  Chỉ đến mùa hè 978 Trung Quốc mới bát đầu phát ngôn cứng rắn và, ngay sau đó, Trung Quốc đă không hậu thuẫn lời nói của ḿnh bằng hành động quả quyết.  Việt Nam có lẽ cũng đă kết luận rằng Trung Quốc thiếu năng lực quân sự để bảo vệ Căm Bốt – về mặt cung cấp đủ khí giới và viện trợ cho phe Khmer Đỏ hay các năng lực không vận.  Một lư do khác cho sự thất bại của ngoại giao cưỡng hành là việc đưa ra dấu hiệu tồi bởi Trung Quốc và sự vắng bóng của một “mồi nhử”.  Như tác giả James Mulvenon ghi nhận, Trung Quốc đă không minh bạch và dứt khoát trong các lời nhắn nhủ của nó với Việt Nam về mục đích của Trung Quốc; đă có quá nhiều “tiếng ồn nhiễu âm” ở bối cảnh.  Hơn nữa, Trung Quốc đă không cung cấp bất kỳ sự khích lệ nào cho Việt Nam để tuân hành, chưa kể đến việc đề nghị một lối thoát giữ được sĩ diện. 85

       Song giai đoạn thứ nh́ của ngoại giao cưỡng hành không nên bị vứt bỏ một cách quá mau chóng như một sự thất bại.  Bắc Kinh đă có nhiều mục đích và động lực trong việc phóng ra cuộc tấn công của nó hồi Tháng Hai 1979.  Chắc chắn Trung Quốc đă muốn Việt Nam ngưng lại sự ngược đăi người gốc Hoa và chấm dứt các sự khiêu khích vũ trang của Việt Nam dọc theo biên giới chung của hai nước.  Chiến tranh đă không thu đạt được mục tiêu quân sự chính thức xác định đă tuyên bố: Nó đă không mang lại một sự kết thúc các vụ khiêu khích vũ trang của Việt Nam dọc biên giới với Trung Quốc.  Các hành động của Trung Quốc đă không buộc Việt Nam phải dời khỏi Căm Bốt – một kết quả mong muốn.  Chính trong khung cảnh của cuộc xâm lăng của Hà Nội mà cuộc thảo luận nghiêm chỉnh đầu tiên về hành động quân sự khả dĩ đă xuất hiện tại Bắc Kinh.  Trong Tháng Một 1979, lời lẽ của Trung Quốc đă leo thang.  Các nhà lănh đạo Trung Quốc đă bát đầu nói công khai về việc “dạy cho Việt Nam một bài học”.  Liệu điều này chỉ đơn giản có nghĩa cung cấp một sự biện minh rơ ràng từ sự việc sau này [ex post facto, tiếng la tinh trong nguyên bản, sát nghĩa là “từ những ǵ đă được thực hiện sau này, có hiệu lực hồi tố”, đôi khi có tính cách lừa dối hay không trung thực, nhiều phần tác giả dùng không đúng thành ngữ này này ở đây, chiếu theo mạch văn và ư nghĩa muốn tŕnh bày, chú của người dịch] cho cuộc tấn công chung cuộc của Trung Quốc hay để ép buộc Việt Nam phải rút quân ra khỏi Căm Bốt hay không th́ không thể được nói với sự chác chắn.  Bước tiến duy nhất bởi Hà Nội sẽ làm thỏa măn Bắc Kinh là một sự triệt thoái tức thời ra khỏi Cam Bốt hay sự loan báo một thời biểu cho một sự triệt thoái hoàn toàn các lực lượng Việt Nam.  Nhưng ngoại trừ sự đảo ngược hoàn toàn khó có thể xảy ra này của Hà Nội, Bắc Kinh dường như khó bị xoay chuyển khỏi một vài loại biểu dương lực lượng.

       Tóm lại, có vẻ an toàn để nói rằng Trung Quốc đă có ư định về việc thực hiện một số “hành động trừng phạt” đối với Việt Nam.  Bắc Kinh cũng đă có một nỗ lực gián chỉ rộng lớn hơn trong đầu nhằm gián chỉ Sô Viết hay Việt Nam khỏi việc phóng ra bất kỳ loại hành quân quân sự quan trọng nào đánh vào Trung Quốc trong tương lai.  Đă không có sự đụng độ biên giới quan trọng hay chiến tranh đánh nhau với Mạc Tư Khoa hay Hà Nội trong một thập niên kế tiếp (mặc dù các vụ chạm súng nhỏ ở biên giới với Việt Nam c̣n tiếp tục cho đến thập niên 1980), cho đến khi có một cuộc giao chiến hải quân ngán ngủi với Việt Nam tại Quần Đảo Trường Sa bị tranh chấp hồi Tháng Ba 1988.  Nh́n từ quan điểm này, ngoại giao cưỡng hành của Trung Quốc có thể được phán đoán là một sự thành công hạn chế.

       Theo sau cuộc xâm lăng Tháng Mười Hai, trong khi Trung Quốc chắc chắn mong ước một sự triệt thoái của Việt Nam khỏi Căm Bốt, điều đó được xem như một mục tiêu dài hay trung hạn nhiều hơn.  Trung Quốc đă không kỳ vọng một cách thực tế một sự rút quân xảy ra trong tương lai gần.  Điều này là một mục tiêu chính sách ngoại giao quan trọng đối với Bác Kinh được thấy rơ trong sự bao gồm sự kiện Cam Bốt bị Việt Nam chiếm đóng như một trong “ba trở ngại” được xác định làm ngăn cản một sự sáp lại gần nhau giữa Trung Quốc – Sô Viết được phát biểu rơ ràng nhiều lần trong suốt thập niên 1980.

      Các nhà lănh dạo Trung Quốc cũng rất quan tâm đến tư thế.  Vào cuối nam 1978, đối diện với sự can thiệp của Sô Viết tại A Phú Hăn và sự xuất hiện của một liên minh Sô Viết – Việt Nam, Trung Quốc nhất thiết mong muốn biểu dương ḿnh là một đại cường đă không chỉ đưa ra các lời cảnh cáo và sự đe dọa suông.  Vào cuối Tháng Mười Hai, một bài b́nh luận với lời lẽ mạnh mẽ trên tờ People’s Daily (Nhân Dân Nhật Báo) đă cảnh cáo:

Có một giới hạn trong sự nhẫn nại và kiềm chế của nhân dân Trung Quôc… [Trung Quốc] sẽ không tấn công trừ khi nó bị tấn công.  Nhưng nếu nó bị tấn công, chắc chắn nó sẽ phản công.  Trung Quốc nghiêm chỉnh trong lời nói của ḿnh.  Chúng ta muốn cảnh cáo các thẩm quyền Việt Nam rằng nếu họ, trở nên táo tợn bởi sự ủng hộ của Mạc Tư Khoa, t́m cách đặt một chân sau khi giành được một tấc đất và tiếp tục hành động trong cung cách hoang đàng, họ sẽ nhất thiết chạm mặt với sự trừng trị mà họ xứng đáng nhận lănh.  Chúng ta phát biểu điều này nơi đây và lúc này.  Đừng phàn nàn sau này rằng chúng ta đă không trao cho các người một lời cảnh cáo rơ ràng trước. 86

       Tóm lại, Trung Quốc mong muốn được xem là nghiêm chỉnh. 87 Trong thực tế, vào ngày 30 Tháng Ba 1979, họ Đặng có tuyên bố rằng cuộc xung đột đă nâng cao “uy tín quốc tê’ của Trung Quốc. 88

 

CÁC VÁN BÀI ĐEM CHƠI

       Các nhà lănh đạo Bắc Kinh đang thực hành điều người ta có thể gọi là “ngoại giao cưỡng hành nửa vời” trong cuối năm 1978 và đầu năm 1979.  Các nhà lănh đạo Trung Quốc đă không chỉ có hoạt động ngoại giao cưỡng hành trong đầu; họ cũng có nhiều mục đích trên mặt trận đối nội cả trước và sau khi có cuộc xâm lăng Tháng Mười Hai của Việt Nam vào Căm Bốt.  Uy tín cũng là một sản vật quan trọng cả cho bản thân họ Đặng lẫn QĐGPNDTQ nói chung.  Đối với họ Đặng, ông đă t́m cách sử dụng cuộc khủng hoảng để nâng cao vị thế riêng của ông trước các đối thủ chính trị cả ở trong và ngoài quân đội.  Vị trí của ông là Tổng Tham Mưu Trưởng và người thúc đẩy chính yếu đàng sau cuộc chiến tranh đă nhấn mạnh kinh nghiệm quân sự sâu rộng và ḷng yêu nước của ông trong khi ghi dấu cùng lúc sự thiếu thốn cùng các tính chất của Hoa [Quốc Phong].  Họ Đặng đă hy vọng khuấy động một cơn băo của ḷng yêu nước sẽ ủng hộ vững chắc cho các sự cải cách. 89 Ông đă hy vọng rằng chiến tranh sẽ thu hút sự chú ư đến khẩu hiệu quen thuộc của các nhà cải cách Trung Hoa thuộc một thế hệ trước: “nước giàu binh mạnh” (fuguo qiangbing). 90 Liệu uy tín của QĐGPNDTQ trong các giới quốc nội đă được nâng cao hay không là một vấn đề khác.  Chắc chắn họ Đặng đă tuyên bố là như thế. 91 Đối với QĐGPNDTQ, nó ló đầu ra khỏi Cuộc Cách Mạng Văn Hóa với một h́nh ảnh khá nhơ nhuốc.  Sự can dự sâu rộng của quân đội trong các sự vụ đối nội kéo dài từ cuối thập niên 1960 măi cho tới thập niên kế tiếp có nghĩa tiếng tăm của QĐGPNDTQ như một kẻ pḥng vệ trung kiên của tổ quốc đă bị tổn hại.  Một cuộc giao chiến ngắn nhưng quan trọng với một kẻ thù truyền thống của Trung Quốc có thể nâng cao tiếng tăm đang suy yếu của nó.  Và trong ư kiến của họ Đặng, sự việc đă là như thế.

 

Văn Hóa Dân Sự - Quân Sự Biến Động

       Việc giải thích các phản ứng khác biệt của các nhà lănh đạo và thường dân Trung Quốc đối với cuộc chiến tranh năm 1979 với Việt Nam đ̣i hỏi sự chú ư đến văn hóa dân sự - quân sự của Trung Quốc.  Một mặt, sự đồng thuận bao quanh quyết định tấn công đă là kết quả của sự kiên định cấu h́nh giới lănh đạo dân sự - quân sự trong Cuộc Trường Chinh.  Mặt khác, các sự ngờ vực, tranh căi, và chống đối đă phát sinh bởi có các sự xung đột về học thuyết, chức năng và căn cước của QĐGPNDTQ.  CHNDTQ mới chỉ khởi sự một cách ḍ dẫm các bước tiến đầu tiên tới một sự biến đổi kiểu mẫu khó khăn trong văn hóa dân sự - quân sự của nó (xem Chương 30) [trong nguyên bản].

 

Giới Tinh Hoa Đóng Vai Tṛ Song Đôi

       Nhân vật then chốt trong quyết định của Bắc Kinh tiến đánh Việt Nam không có ǵ nghi ngờ chính là họ Đặng.  Ông rơ ràng là kẻ tán trợ nhiều nhất cho cuộc chiến.  Trong thực tế, điều hoàn toàn khả tín rằng nếu không có các nỗ lực tích cực và cương quyết của họ Đặng, sẽ không có một cuộc chiến tranh ngay từ đầu. 92 Sự dễ dàng mà với nó họ Đặng đă có thể quần tụ các đồng sự của ông, cả dân sự lẫn quân sự, đ́ đến quan điểm này được quy chiếu một phần cho bản thân của ông, một thành viên trội bật của thế hệ Trường Chinh với các chứng tích quân sự và chính trị dầy dạn, như một trong “lớp tinh hoa đóng vai tṛ song đôi”.  Điều này được nhấn mạnh bởi sự kiện rằng ông đă nắm giữ không chỉ chức vụ phó thủ tướng mà cùng c̣n là Tổng Tham Mưu Trưởng QĐGPNDTQ.  Ông đă có thể làm việc với cả hai bên văn vơ.  Họ Đặng đă từ chức khỏi chức vụ quân sự của ông vào Tháng Ba 1980.  Trong thực tế, sự đảm nhiệm của họ Đặng trong chức vụ quân sự then chốt này th́ bất thường cao độ: Mặc dù họ Đặng có các thành tích quân sự tuyệt hảo, ông không phải là một quân nhân chuyên nghiệp, và chức tổng tham mưu trưởng luôn luôn được nắm giữ bởi một sĩ quan hiện dịch cao cấp. 93 Khi đó, sự can dự trung tâm của họ Đặng, đă không chỉ quan yếu trong việc khiến cho cuộc hành quân quân sự được diễn ra mà cùng c̣n quan yếu trong việc bảo đảm rằng một sự đồng thuận dân sự - quân sự được phát triển một cách mau chóng.  Tương tự, bản chất song đôi của các nhân vật chẳng hạn như họ Geng và họ Ye đă làm mờ nhạt hơn nữa sự phân biệt dân sự - quân sự.  Bất kể sự chống đối của một số nhân vật quân sự nào đó, chẳng hạn như Thông Chế Diệp [Kiếm Anh], đối với cuộc xâm lăng đề nghị, thật cực kỳ khó khăn cho các nhà lănh đạo quân sự để phát biểu một quan điểm thống nhất thách đố cuộc tấn công.

 

Từ Chiến Tranh Nhân Dân Đến Cái Ǵ?

       Trong khi Bắc Kinh cân nhắc các ư kiến thuận và chống lại sự can thiệp tại Việt Nam, cuộc tranh luận về học thuyết quân sự đă được nung nóng. 94 Thống Chế Xu Xiangqian đă đứng hàng đầu các binh sĩ thúc đẩy cho một sự tái xét học thuyết.  Vấn đề nặng tính chất chính trị bởi nó trở nên bị vướng mắc một cách mật thiết trong các câu hỏi về di sản của họ Mao và các đề cương chính trị của các phe phái khác nhau.  Đặc biệt quan trọng là họ Hoa, kẻ lănh đạo của phái được đặt tên là là phái “Bất Kể Điều Ǵ: Whateverists”, một phe binh vực việc tuân thủ bất kỳ chính sách nào mà họ Mao đă biện hộ.  Các kẻ biện hộ cho các sự thay đổi trong học thuyết quân sự đă thách đố một cách trực tiếp tính khả tín và chính thống của phái “Bất Kể Điều Ǵ”.  Hơn nữa, điều này đă trở thành một cuộc đấu tranh nghiêm trọng, sinh tử về mặt chính trị giữa các phe phái bởi sự loại bỏ đề cương toàn thể nguyên trạng – kể cả kích thước quốc pḥng then chốt – sẽ ra dấu cho sự thất bại hoàn toàn trong cuộc đấu tranh để kế vị họ Mao như nhà lănh đạo tối cao của Trung Quốc.  Chính v́ thế, không có ǵ ngạc nhiên rằng họ Hoa đă không ủng hộ một cách nhiệt thành cuộc tấn công vào Việt Nam.

       Học thuyết đă là một chủ đề gây tranh căi biết bao bởi nó đụng chạm đến tâm điểm của căn cước và chức năng của quân đội tại Trung Quốc thời hậu Mao.  Một số sự chống đối cuộc chiến phát sinh một cách chính xác bởi cuộc động binh đi ngược lại học thuyết hiện hữu – cuộc xung đột th́ xa lạ với Chiến Tranh Nhân Dân – và ngược với tiêu điểm đối nội của QĐGPNDTQ – cuộc xung đột ở bên ngoài các biên giới của Trung Quốc.  Học thuyết thịnh hành về Chiến Tranh Nhân Dân, vốn nhấn mạnh đến một chiến lược “pḥng thủ chiều sâu: defense in depth, nghiêng hẳn về pḥng thủ”, đă có một định hướng đối nội quyết đoán cho quân đội và tượng trưng một lư tưởng cực kỳ b́nh đẳng đối với các binh sĩ Trung Quốc – họ là một bộ phận cơ hữu và kết hợp của thường dân Trung Hoa.  Chính v́ thế, khi một số nhân vật quân sự có ảnh hưởng, chẳng hạn như Xu Xiangqian, biện hộ cho việc cập nhật hóa học thuyết họ Mao – điều trở nên được hay biết là “Chiến Tranh Nhân Dân Dưới Các Điều Kiện Hiện Đại” – họ đang thách thức toàn thể hệ thống hiện hữu.  Trong thực tế, họ Đặng đă thúc đẩy cho một cuộc chỉnh đốn toàn diện văn hóa dân sự - quân sự.  Loại chiến tranh mà Trung Quốc tiến đánh Việt Nam năm 1979 đ̣i hỏi các sự cải cách triệt để trong quốc pḥng: cần chú ư nhiêu hơn đên kỹ thuật tiên tiến, một QĐGPNDTQ nhỏ hơn, được huấn luyện cao hơn với các binh chủng hải quân và không quân đáng kể hơn là một lực lượng bộ binh nhẹ, đông đảo, được huấn luyện một cách sơ sài.  Thống Chế Xu Xiangqian và các kẻ tiến bộ khác đă dùng cuộc chiến tranh để thúc đẩy việc “nâng cao các năng lực chiến đấu của quân đội chúng ta lên tầm mức hiện đại”. 95 Chinh họ Đặng, trong một bài diễn văn then chốt về sự cải cách quân đội một năm sau cuộc chiến, đă t́m cách sử dụng cuộc xung đột làm lợi thế cho ông:

Quân đội chúng ta chiến đấu có hữu hiệu không? Nó có thể đối phó với một vấn đề thực sự hay không? Tôi đang không nói về một t́nh trạng giống như cuộc hoàn kích tự vệ đánh vào Việt Nam.  Loại t́nh h́nh đó tương đối dễ đối phó.  Điêu tôi muốn nói là: Nếu chúng ta phải đối diện với một đối thủ hùng mạnh hơn Việt Nam, chúng ta sẽ chiến đấu hữu hiệu như thế nào?

       Họ Đặng thừa nhận sự can đảm của các binh sĩ của QĐGPNDTQ trong cuộc chiến nhưng nhấn mạnh đến các khuyết điểm trầm trọng về tŕnh độ và sự huấn luyện nhân viên.  Trong một nhận xét gần như chắc chắn được thúc đẩy bởi một t́nh huống có thực từ cuộc chiến, ông đă tra vấn một cách hùng hồn trong cùng bài diễn văn, “Nếu một người lính không biết dùng các bản đồ, người đó c̣n tích sự ǵ nữa!” 96

       Từ hậu quả của cuộc chiến, họ Đặng và các đồng ḿnh tán thành cải cách đă thực hiện các bước tiến cụ thể để thanh lọc các nhà lănh đạo quân sự chống đối cuộc hiện đại hóa mau chóng và/hay các kẻ đúng là không có khả năng.  Một số hành động diễn ra mau lẹ, trong khi các hành động khác diễn tiến từ từ hơn.  Trong ṿng một năm sau cuộc chiến, thí dụ, họ Đặng đă t́m cách loại bỏ Xu Shiyou, một trong các viên tư lệnh chiến trường then chốt trong cuộc tấn công vào Việt Nam.  Xu Shiyou và họ Đặng được tường thuật đă quy trách lẫn nhau về thành quả không được sáng chói của QĐGPNDTQ. 97 Sau đó, bắt đầu trong năm 1983, các nhà cải cách đă sử dụng một chiến dịch chỉnh huấn để xác định các kẻ truyền thống theo học thuyết họ Mao và các phần tử tả phái triệt để c̣n lưu dụng từ Cuộc Cách Mạng Văn Hóa.  Nhiều người trong số này đă bị đẩy phải về hưu như một phần của cuộc tinh giảm sâu rộng QĐGPNDTQ hồi giữa thập niên 1980. 98

       Đă có các mục tiêu thứ yếu trong việc phóng ra cuộc chiến tranh.  Một mục tiêu là đem lại cho quân đội kinh nghiệm thực tế.  Họ Đặng có nói một cách chủ định trong phiên họp hôm 16 Tháng Hai rằng một mục đích của cuộc tấn công là để thực hiện một cuộc “diễn tập quân sự”. 99 Với học thuyết hiện hữu, định hướng quốc nội, và sự thiếu kinh nghiệm chiến đấu của QĐGPNDTQ, các khuyết điểm nghiêm trọng tất nhiên sẽ hiển hiện ra.  Kết quả chung cục có lẽ sẽ là các lời kêu gọi nhiều hơn cho một sự tái suy nghĩ triệt để về căn cước, khuôn khổ tổ chức, chức năng, và học thuyết của sự thành lập quân đội của Trung Quốc.  Trong thực tế điều đó rơ ràng chính là những ǵ đă xảy ra.  Thống Chế Nie, một phó chủ tịch QUTƯ và kẻ ủng hộ họ Đăng, được tường thuật đă chỉ trích các chiến thuật được sử dụng trong cuộc chiến tranh tại Việt Nam trong một bài diễn văn tại QUTƯ hồi Tháng Hai, 1980. 100

 

Sự Hoang Mang Về Căn Cước, Khuôn Khổ Tổ Chức,

Và Chức Năng Của QĐGPNDTQ

       Đâu là điều tạo ra sự thiếu nhiệt thành nổi bật để ủng hộ chiến tranh trong nhiều người Trung Quốc và các nhận xét chê bai về QĐGPNDTQ? Xét đến phần thứ nh́ của câu hỏi trước, một số người Bắc Kinh đă bày tỏ sự hớn hở đối với một học giả ngoại quốc về thành quả vô cùng thảm hại của quân đôi trong năm 1979. 101 Cảm nhận này có thể được giải thích như đại diện cho quan điểm của một số người thuộc tầng lớp tinh hoa tinh tế nhất của Trung Quốc – các cá nhân rất thông hiểu về chính trị quốc nội và bất măn về ảnh hưởng chính trị khổng lồ của QĐGPNDTQ và thái độ độc đoán của quân đội trong cuộc Cách Mạng Văn Hóa.  Về phần thứ nhất của câu hỏi, nhiều người Trung Quốc dường như đă có một sự đáp ứng khá thầm lặng đối với cuộc chiến.

       Quan điểm hỗn hợp của quần chúng nhiều phần đă phản ảnh sự kiện rằng căn cước, khuôn khổ tổ chức, và chức năng của QĐGPNTQ rất biến động (xem Chương 3 [trong nguyên bản]) và các sự ước định của dân chúng về QĐGPNDTQ th́ hỗn độn.  Tại Bắc Kinh, các nhà trí thức được tường thuật “đă biểu lộ các ư kiến khác biệt” về cuộc xung đột.  Một số nhà trí thức bày tỏ sự chống đối cuộc chiến, với các ư kiến như một ư kiến nói với một thông tín viên Âu Châu rằng “Trung Quốc đă có đủ các vấn đề chẳng cần đến việc phải giao tranh trong một cuộc chiến biên giới”. 102 Một thông tín viên khác đă ghi nhận một sự thiếu vắng rơ ràng nhiệt t́nh của công chúng dành cho cuộc chiến tranh, đặc biệt tại các tỉnh lỵ của Vân Nam và Quảng Tây, trong một cuộc thăm viếng hồi Tháng Tám 1979. 103 Phản ứng này một phần phản ảnh sự nhận thức rằng cuộc chiến tranh đă không phải là một sự thành công áp đảo và rằng QĐGPNDTQ đă không thi hành tốt như thế,  đă phải gánh chịu các tổn thất nặng nề.  Một số người Trung Quốc có lẽ lo sợ chiến tranh có thể trở thành một sự việc kéo dài và làm tiêu hao năng lực và tài nguyên của đất nước.  Chắc chắn, đa số người Trung Quốc đă ủng hộ cuộc chiến tranh v́ các lư do thuộc ḷng yêu nước.  Trong thực tế, các sự biểu lộ mạnh mẽ ḷng yêu nước và sự kiêu hănh nơi các binh sĩ của Trung Quốc được thể hiện nơi các người dân Vân Nam sinh sống gần biên giới vào đầu năm 1979, và các sự biểu lộ này đă được kể lại cho tác giả năm năm sau đó.  Các dân làng đă thuật lại một cách sống động việc ngắm nh́n các đơn vị QĐGPNDTQ tiến bước một cách đau khổ xuyên qua các thị trấn và các ngôi làng của họ trên đường ra mặt trận.  Nhiều người đă đề cập đến các binh sĩ như “các người đáng yêu quư nhât” (zui ke’ai de ren) – một thành ngữ được phổ thông hóa trong cuộc xung đột Triều Tiên hơn một phần tư thế kỷ trước đó. 104

       Các ư kiến và nhận xét tiêu cực về cuộc chiến tranh và QĐGPNDTQ cũng phải được nh́n trong khung cảnh của bàu không khí chính trị cởi mở hơn vào lúc bấy giờ.  Bởi cuộc chiến tranh đă xảy ra tiếp theo sau phong trào Bức Tường Dân Chủ trong mùa đông 1978-79, và bởi các nhà lănh đạo Trung Quốc cố t́nh xem nhẹ cuộc chiến, một số người có lẽ cảm thấy được phép để bày tỏ các ư kiến của họ một cách tự do và tra hỏi về sự khôn ngoan của cuộc tấn công.  Hơn nữa, trái với cuộc Chiến Tranh Triều Tiên, đă không có phong trào rộng lớn được phóng ra để khích động sự ủng hộ của quần chúng cho cuộc chiến tranh.  Ngoại trừ các bài xă luận thường xuyên kết án Việt Nam và các bản tin hứng khởi thường lệ được gửi đi từ biên giới, đă không có các bài diễn văn đầy xúc cảm bởi các nhà lănh đạo t́m cách hô hào quảng đại quần chúng.  Một chiều hướng cực kỳ trầm lặng đối với cuộc chiến thấm nhập Bắc Kinh trong suốt diễn tiến của các chiến sự. 105 Một phóng viên báo chí của tờ Liberation Army Daily (Nhật Báo Quân Đội Giải Phóng), tường thuật từ mặt trận, có nói với các thính giả đài phát thanh nhiều ngày sau cuộc chiến là đừng phải lo sợ.  Anh ta kể lại làm sao mà các chiến sĩ của QĐGPNDTQ tại khu vực chiến tranh đă yêu cầu anh nói với nhân dân Trung Quốc, “… không phải lo sợ …[và hăy ở nguyên] các vị trí của họ để góp phần vào … chương tŕnh tứ hiện đại”. 106 Cùng giọng điệu nói chung ôn ḥa được biểu hiện khi đọc các bài viết sau đó về cuộc chiến, cùng như trong các bài diễn văn và bài viết của các người tham dự then chốt.  Tóm lại, cuộc chiến tranh không bao giờ trở thành một cuộc vận động lớn lao đối với nhân dân và binh sĩ Trung Quốc theo cách mà cuộc Chiến Tranh Triều Tiên đă diễn ra.  Một cách đáng chú ư, nhiều tiểu sử chính thức của các tham dự viên then chốt được ấn hành từ 1979 đă không chứa đựng các sự đề cập đến vai tṛ của họ trong cuộc xung đột.

 

Một QĐGPNDTQ Thụ Động / Hung Hăng

       Sự chống đối bởi các nhân vật quân sự cũng nhiều phần được liên kết với tính mơ hồ về các mục tiêu quân sự chính xác của cuộc động binh.  Tính mơ hồ như thế có tính chất cố hữu trong sự thực hiện phương thuật ngoại giao cưỡng hành, và sự khác biệt dân sự - quân sự thường trở nên trầm trọng hơn khi một quốc gia vận dụng đến một động thái như thế.  Như tác giả Alexander George giải thích:

Trái ngược với chiến lược quân sự truyền thống … chiến lược cữong hành nhắm vào việc ảnh hưởng đến ư chí của địch quân hơn là vào việc tiêu diệt các năng lực của địch.  Nó không dựa trên sự sử dụng mau chóng hay thật nhiều vũ lực để thu đạt các mục tiêu chính trị.  Đúng hơn, nếu các sự đe dọa không thôi không đủ và vũ lực thực sự được sử dụng, nó sẽ được sử dụng trong một phương cách lựa chọn, hạn chế hơn …108

       Lư do của sự căng thẳng này là các binh sĩ và các nhà ngoại giao nh́n phương thuật ngoại giao cưỡng hành từ các quan điểm rất khác nhau.  Trong khi cả hai đều nhất định ưa thích một giải pháp không phải là chiến tranh, các chính khách nghiêng về các dấu hiệu kín đáo và các sự gia tăng từ từ áp lực đè lên một đối phương hầu khống chỉ hay cưỡng ép đốu phương.  Các quân nhân ngược lại, ưa thích việc gửi đi một thông điệp mạnh mẽ, trực tiếp, và không mơ hồ một cách tức thời – một sự biểu dương mau lẹ, ồ ạt vũ lực khiến cho một đối phương tỉnh ngộ một cách mau chóng.        

       Trong khi các mục tiêu chính trị ít nhiều thẳng thắn hơn, các mục đích quân sự của cuộc tấn công chưa bao giờ được phát biểu một cách đầy đủ.  Mục đích chính trị tổng quát là buộc Việt Nam phải tôn trọng quyết tâm của Trung Quốc, và một cách cụ thể hơn phải chấm dứt các vụ khiêu khích biên giới dai dẳng cũng như buộc Việt Nam phải chuyển hướng các nguồn lực quân sự ra khỏi Căm Bốt.  Tất cả các mục tiêu này đều được đề cập đến hoặc trong các lời tuyên bố chính sách chính thức của Bắc Kinh hay các nhận định của các nhà lănh đạo cao cấp.  Ngược lại, Trung Quốc không thực sự tiết lộ các mục đích quân sự trước hay ngay cả trong lúc có chiến tranh thực sự bởi v́ điều này sẽ mang lại tin tức t́nh báo quư giá cho đối phương.  Và các mục đích chính xác này đă không được tiết lộ về sau sao cho Trung Quốc có thể tuyên cáo chiến thắng bất kể kết quả có bị thất bại ra sao. Trong thực tế, điều gần nhất mà Trung Quốc có thể đưa ra một mục đích quân sự là mục đích được tuyên bố một cách chính thức nhằm chấm dứt các sự quấy rối của Việt Nam dọc theo biên giới chung của hai nước và cải thiện an ninh biên giới nói chung.  Họ Đặng cũng nêu ra điều này như mục tiêu chính yếu của hành động trong một cuộc thảo luận với Bộ Trưởng Ngân Khố Hoa Kỳ Michael Blumenthal trong cuộc thăm viếng của nhân vật kể sau tại Trung Quốc hồi cuối Tháng hai 1979. 109 Song điều không hề được giải thích một cách chính xác cách thức làm sao các mục tiêu này sẽ được thu đạt.

       Bằng chứng cung cấp cho thấy rằng các mục đích quân sự không bao giờ được xác định một cách thích đáng. 110 Họ Đặng cực kỳ mơ hồ về chủ điểm này trong một cuộc gặp gỡ với các kư giả Ấn Độ hôm 14 Tháng Hai, ba ngày trước khi có cuộc tấn công của Trung Quốc.  Khi được hỏi ông muốn ǵ khi nói “dạy cho Việt Nam một bài học”, họ Đặng trả lời, “các ông thấy điều đó tùy thuộc vào t́nh h́nh phát triển ra sao”. 111 Chắc chắn họ Đặng cố ư phần nào phát biểu nước đôi hầu đánh lừa Việt Nam (như được ghi nhận trước đây).  Nhưng sự mơ hồ cũng có lẽ được phản ảnh bởi các mục đích quân sự không chính xác của cuộc hành quân.  Tại một buổi gặp gỡ hôm 26 Tháng Hai vào giữa cuộc xung đột, họ Đặng được hỏi bởi viên chủ tịch hăng Thông Tấn Kyodo về bài học chính xác mà phía Trung Quốc nghĩ trong đầu dành cho Việt Nam là ǵ.  Họ Đặng đáp, “Chúng tôi sẽ không để tâm đến các thành quả quân sự.  Mục tiêu của chúng tôi là một mục tiệu giới hạn, có nghĩa dạy cho họ rằng họ không thể chạy rông như họ mong ước”. 112 Sự mơ hồ như thế nhiều phần đă trợ lực cho sự chống đối bởi một số các nhân vật quân sự liên hệ đến cuộc hành quân.  Không có một ư tưởng rơ ràng về những ǵ sẽ được hoàn thành, nhiều người thuộc QĐGPNDTQ đă miễn cưỡng ủng hộ cho một cuộc tấn công bất trắc như thế.  Trong khía cạnh này, các binh sĩ Trung Quốc, giống như các binh sĩ tại một số nước khác, có khuynh hướng bảo thủ, bi quan, và miễn cưỡng hơn các đối tác dân sự của họ để vận dụng đến vũ lực. 113

       Các binh sĩ dường như đă hăng hái để “dạy cho Việt Nam một bài học” là các người có một cảm tính chống Việt Nam mạnh mẽ.  Phần lớn các binh sĩ có can dự vào việc trợ giúp phe cộng sản Việt Nam trong các cuộc chiến tranh của Việt Nam chống lại người Pháp và người Mỹ.  Trung Quốc đă cung cấp một khối lượng đáng kể các vũ khí cho Việt Nam giữa các năm 1957 và 1974.  Trong thập niên 1960, Bắc Kinh đă cung cấp số vũ khí có trị giá ước lượng khoảng 60 triệu mỹ kim cho Hà Nội, chiếm gần hai phần ba tổng số viện trợ quân sự cho nước ngoài của Trung Quốc trong thập niên này. 114

      

KẾT LUẬN

Cuộc tấn công năm 1979 của Trung Quốc vào Việt Nam tương đối ôn ḥa về mặt khuôn khổ của các giải pháp quân sự thụ hưởng bởi Bắc Kinh.  Trong khi sự ủng hộ mạnh mẽ của một số nhân vật quân sự cho một cuộc tấn công vào Việt Nam có thể làm liên tưởng đến một QĐGPNDTQ hiếu chiến, hành động được chọn lựa cấu thành một hành động ôn ḥa và được kiềm chế nhiều hơn trong số các giải pháp được cứu xét. 115 Các nhà lănh đạo dân sự lẫn quân sự dường như bị phân hóa về giá trị của cuộc chiến tranh.  Trong bất kỳ trường hợp nào, chính các nhà lănh đạo bên dân sự, đặc biệt Đặng Tiểu B́nh, là các kẻ thắng thế.

       Sau cùng, sự phân tích trong chương sách này làm liên tưởng rằng cuộc đấu tranh kế vị giữa họ Đặng và họ Hoa đă không chấm dứt với Phiên Họp Khoáng Đại Thứ Ba trong Tháng Mười Hai 1978.  Trong khi phiên họp khoáng đại đă tượng trưng một chiến thắng đáng kể cho họ Đặng,  đó chỉ là một trận đấu của một cuộc tranh giành chính trị rộng lớn hơn giữa hai nhân vật và các ủng hộ viên của họ.  Hơn nữa, với chương tŕnh cải cách kinh tế nhiều tham vọng của họ Đặng đă phải bị thu nhỏ lại trong mùa xuân 1979 sau khi phải chịu các sự tŕ hoăn, ông không phải ở vào các vị thế mạnh nhất.  Trong khi sự hiểu biết học thuật ước lệ nói rằng cuộc chiến tranh đă là một bước giựt lùi chính trị cho họ Đặng, 116 ngược lại, dường như cuộc xung đột có thể được nh́n một cách đúng nhất như một phép lành hỗn tạp cho nhà cải cách kiên tŕ nhận thấy ḿnh, một cách nào khác, ở vào một vị trí bị bó rọ hồi đầu năm 1979.  Một số nhà phân tích đă lập luận rằng cuộc chiến tranh đă không có tác động trên chính trị đối nội, và ít tác động, nếu có, trên các sự vụ quân sự, kể cả học thuyết. 117 Chương sách này khiến nghĩ rằng cuộc chiến tranh đă trợ lực hơn là làm tổn thương họ Đặng.  Cuộc chiến tranh đă giúp cho họ Đặng tuyên xác được một vài mức độ của sự thành công trong sự trắc trở và hỗn loạn của việc thúc đẩy các cải cách kinh tế và chính trị.  Hơn nữa, nó cho phép ông xúc tiến chương tŕnh nhiều tham vọng của ông về việc biến đổi văn hóa dân sự - quân sự có tính chất học thuyết họ Mao – một nghị tŕnh mà về mặt tổ chức giới lănh đạo, học thuyết quân sự, và căn cước của quân đội vốn đă sẵn bị biến động đáng kể.  Trong khung cảnh này, cuộc chiến tranh 1979 hiện ra như một biến cố quan yếu trong việc đẩy Trung Quốc một cách vững chắc vào c̣n đường cải cách nhiều hơn mức được thừa nhận trước đây./-          

___

CHÚ THÍCH

1. Tuy nhiên, một số “chuyên viên quân sự ngoại quốc” không được nêu tên được tường thuật đă tiên đoán sẽ không có chiến tranh.  Phap Tấn Xă tại Hồng Kông bằng Anh ngữ, 21 Tháng Một 1979, trong Foreign Broadcast Information Service, Daily Report: People’s Republic of China (từ giờ về sau được viết tắt là FBIS-CHI), Tháng Một 22, 1979, trang A7.  Và các nhà lănh đạo Việt Nam có thể đă tự tin, sau nhiều tháng với các lời loan báo nghiêm khắc của Trung Quốc mà không có hành động ǵ, rằng Trung Quốc có thể chỉ có sủa chứ không có cắn.

2. Muốn có một số bài viết và sự phân tích về cuộc chiến tranh, xem Jonathan R. Adelman và Chih-Yu Shih, Symbolic War: The Chinese Use of Force, 1984 [?]-1980, Taipei: Institute for International Relations, 1993, Chương 14; King C. Chen, China’s War with Vietnam, 1979: Issues, Decisions, Implications, Stanford, CA.: Hoover Institution Press, 1987; Harlan Jencks, “China’s ‘Punitivé War on Vietnam”, Asian Survey 19 (August 1979): 801-15; James Mulvenon, “The Limits of Coercive Diplomacy: The 1979 Sino-Vietnam Border War”, Journal of Northeast Asian Studies XVI (Fall 1995): 68-88; Edgar O’Balance, The Wars in Vietnam, 1954-1980, New York: Hippocrene Books, 1981, Chương 16; Douglas Pike, “Communism vs Communism in Southeast Asia”, International Security 4 (Summer 1979): 20-38; Gerald Segal, Defending China, New York: Oxford University Press, 1985, Chương 12; Daniel Tretiak, “China’s Vietnam War and Its Consequences”, China Quarterly 80 (December 1979): 740-67; Herbert Yee, “The Sino-Vietnamese Border War”, China Report 16 (Tháng Một – Tháng Hai 1980): 15-32.  Muốn có một số bài viết bằng Hán ngữ, xem Junshi Kexueyuan Junshi Lishi Yanjiubu, Zhongguo Renmin Jiefangjun de qishi nian [Bẩy mươi năm Quân Đội Giải Phóng Nhân Dân Trung Quốc], Beijing: Junshi Kexueyuan Chubanshe, 1997, các trang 609-16; Jiang Jiannong, chủ biên, Zhongnanhai sandai lingdao jiti yu gongheguo [Thế hệ thứ ba của giới lănh đạo tập thể Tại Trung Nam Hải], Vol. 2: Junshi shilu [Tài liệu ghi chép về các quân vụ], Beijing: Zhongguo Jingji Chubanshe, 1998, các trang 313-26.  Muốn có một quan điểm Việt Nam, xem Nguyễn Mạnh Hùng, “The Sino-Vietnamese Conflict: Power Play among Communist Neighbors”, Asian Survey XIX (November 1979): 1037-52.

3. Một số cuộc nghiên cứu chiếu rọi vào các chiều kích và yếu tố quốc tế dẫn đến cuộc xung đột.  Xem, thí dụ, Robert S. Ross, The Indochina Tangle: China’s Vietnam Policy, 1975-1979, New York: Columbia University Press, 1988; Nayan Chanda, Brother Enemy: The War after the War, New York: Harcourt Brace Jovanovich, 1986; Steven J. Hood, Dragons Entangled: Indochina and the China-Vietnam War, Armonk, NY: M. E. Sharpe, 1992.

4. Muốn có một ngoại lệ đáng chú ư, xem Chen, China’s War with Vietnam.

5. Xem Chen Jian, Mao’s China and the Cold War, Chapel Hill, NC: University North Carolina Press, 2001, Các Chương 5, 8; Quansheng Zhao, Interpreting Chinese Foreign Policy: The Micro-Macro Approach, New York: Oxford University Press, 1996, các trang 43-4.

6. Về việc sử dụng lần đầu tiên sự so sánh với Cuba, xem On Vietnam’s Expulsion of Chinese Residents, Peking: Foreign Languages Press, 1978, trang 131, được trưng dẫn trrong sách của Chanda, Brother Enemy, trang 258.  Một bài viết trong số đầu tiên năm 1979 của tờ Hongqi, tạp chí lư thuyết của Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) cũng dùng sự tương đồng này, và Đặng Tiểu B́nh cũng sử dụng nhóm từ này tại một cuộc họp báo tại Hoa Thịnh Đốn hôm 31 Tháng Một, 1979.  Xem, lần lượt, “Red Flag on SRV’s National Chauvinism …” Beijing Xinhua Domestic Service, Tháng Một 3, 1979, trong FBIS-CHI, Tháng Một 4, 1979, trang A13; “SRV Needs Lessons”, Beijing Xinhua bằng Anh ngữ, Tháng Hai 1, 1979, tronmg FBIS-CHI, Tháng Hai 1, 1979, trang A8.  Về mối quan tâm đặc biệt của Trung Quốc đối với sự đe dọa của Sô Viết, xem Ross, The Indochina Tangle.

7. Về các nỗ lực của Việt Nam để cải thiện các liên hệ với Hoa Kỳ, xem Chanda, Brother Enemy, Chương 9.

8. Cùng nơi dẫn trên, các trang 234-5.

9. Cùng nơi dẫn trên, các trang 245, 257-8.

10. Cùng nơi dẫn trên, các trang 231-4.

11. Đây là con số được trích dẫn bởi Bắc Kinh.  Xem, thí dụ, Zhongguo Renmin Jiefangjun de qishi nian, trang 610.  Con số th́ phù hợp với các con số được trích dẫn bởi các nguồn tin không phải Trung Quốc.

12. Xem sự phân tóch trong sách của Chanda, Brother Enemy, các trang 243-3[? 2]44.

13. Về người Hoa, xem Chanda, Brother Enemy; Hood, Dragons Entangled, Chương 6.

14. Chanda, Brother Enemy, các trang 242-3.

15. Cùng nơi dẫn trên, các trang 244-5.

16. Muốn biết thêm về các sự tranh chấp lănh thổ, xem Pao-min Chang, The Sino-Vietnamese Territorial Dispute, Washington Papers no. 118, New York: Praeger, 1986; Hood, Dragons Entangled, Chương 5.

17. Nguyễn, “The Sino-Vietnamese Conflict”, trang 1049.

18. Chanda, Brother Enemy, các trang 259-60, trưng dẫn một sự tường thuật trong báo chí Nhật Bản.  Một nguồn tin khác nói với Chanda rằng Bộ Chính Trị đă đưa ra quyết định hồi đầu Tháng Bẩy, cùng nơi dân trên, trang 261.  Nhưng quyết định được đưa ra trong Tháng Năm có nhiều khả tính hơn.  Tuy nhiên, một tài liệu tham chiếu then chốt không có hồ sơ về phiên họp của Bộ Chính Trị trong mùa xuân hay mùa hè 1978.  Xem Kenneth G. Lieberthal và Bruce J. Dickson, đồng biên tập, A Research Guide to Central Party and Government Meetings in China, 1949-1986, Armonk, NY: M. E. Sharpe, 1989, các trang 252-6.  Dĩ nhiên, điều này không có nghĩa rằng không có phiên họp như thế đă diễn ra.

19. Tin tức trong đoạn này được rút ra từ văn bản ghi lại một cuộc nói chuyện được tŕnh bày bởi viên phó chủ nhiệm Văn Pḥng Hoa Kiều Hải Ngoại Sự Vụ thuộc Hội Đồng Nhà Nước với các viên chức cấp tỉnh tại Quảng Châu hồi đầu Tháng Sáu 1978.  Bài nói chuyện được công bố bởi một  nguồn tin Đài Loan.  Trong khi cần dè dặt về phương thức chuyển tải và khung cảnh của tin tức, nội dung và giọng điệu của bài nói chuyện th́ phù hợp với các sự tường thuật khác về chính sách của Trung Quốc đối với Việt Nam, kể cả nguồn tin được trưng dẫn bởi Chanda.  “Viên Chức Hội Đồng Nhà Nước B́nh Luận về Chính Sách của Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Quốc đối với Việt Nam”, được trưng dẫn trong bản tin bằng tiếng Anh của Pháp Tấn Xă tại Hồng Kông ngày 8 Tháng Hai, 1979, trong FBIS-CHI ngày 9 Tháng Hai, 1979, trang E1 (phần nhấn mạnh được bổ túc bởi tác giả).

20. Về sự chuyển động như một sự “trắc nghiệm”, xem Ross, The Indochina Tangle, các trang 183-5;  về sự chuyển động như một tṛ tuyên truyền phô trương, xem Chanda, Brother Enemy, các trang 245-7.

21. Ross, The Indochina Tangle, các trang 155-67, 170-1.

22. Chanda, Brother Enemy, các trang 261-2, 322-3.

23. Cùng nơi dẫn trên, các trang 325-7.

24. Chen, China’s War with Vietnam, các trang 85-7.  Muốn có một sự tóm lược về hội nghị công tác, xem Lieberthal và Dickson, A Research Guide, các trang 258-9.

25. Điều này cũng được ghi nhận bởi Segal, Defending China, trang 214.

26. Chanda, Brother Enemy, các trang 259-61.

27. Ross, The Indochina Tangle, phần kết luận.

28. Chanda, Brother Enemy, trang 323; Chen, China’s Vietnam War, các trang 88-91.

29. “SRV Needs Lessons”, trang A8.

30. Xem, thí dụ, các nhận xét của họ Đặng với một loạt liên tục các viên chức ngoại quốc: Tổng Thư Kư Tổ Chức Các Quốc Gia Mỹ Châu (Pháp tấn Xă tại Hồng Kông, bản tin tiếng Anh, 19 Tháng Hai 1979, trong FBIS-CHI, ngày 21 Tháng Hai, 1979, trang A4), Chủ Tịch Ủy Hội Cộng Đồng Kinh Tế Âu Châu (bản tin tiếng Anh của Pháp Tấn Xă tại Hồng Kông hôm 23 Tháng Hai, 1979, trong FBIS-CHI ngày 26 Tháng Hai, 1979, trang A1), và chủ tịch Thông Tấn Xă Kyodo của Nhật Bản (“Deng Welcomes UN Calls for PRC, SRV Pullouts”, Tokyo Kyodo, bản tin bằng Anh ngữ, ngày 26 Tháng Hai 1979, trong FBIS-CHI, 26 Tháng Hai, 1979, các trang A5-A6).  Cũng xem phần xă luận trong tờ Renmin Ribao, ngày 18 Tháng Hai, 1979 (được trích dẫn bởi bản tin tiếng Anh của Tân Hoa Xă ở Bắc Kinh, 17 Tháng Hai, 1979, và được trưng dẫn trong FBIS-CHI, 21 Tháng Hai, 1979, các trang A11-A12); Jiefangjun Bao, 19 Tháng Hai, 1979 (được trích dẫn bởi Sở Công Tác Phát Thanh Quốc Nội Tân Hoa Xă tại Bắc Kinh, 18 Tháng Hai 1979 và được trưng dẫn trong FBIS-CHI, 21 Tháng Hai, 1979, các trang A13-A14).

31. Một sự so sánh công nhiên với các cuộc chiến tranh biên giới với Ấn Độ và Sô Viết được đưa ra trong một tài liệu trung ương ĐCSTQ được đọc cho các chuyên viên ngoại quốc đang làm việc tại Bắc Kinh.  Xem, “AFP Highlights General Atmosphere in Beijing, Elsewhere”, bản tin của Pháp Tấn Xă tại Paris bằng Anh ngữ (Paris Agence France Presse), 21 Tháng Hai, 1979, trong FBIS-CHI, 22 Tháng Hai, 1979, trang E2.  Các nhà lănh đạo Trung Quốc dường như xem cuộc xung đột với Ấn Độ như là mô h́nh của họ -- được chứng tỏ từ các sự việc như sự tham chiếu trực tiếp của họ Đặng đến cuộc xung đột trước đây trong lời b́nh giải của ông ta với viên chủ tịch thông tấn xă Kyodo về chiến tranh Việt Nam (“Deng Welcomes UN Call for PRC, SRV Pullouts”, trang A8), và các ư kiến rơ rệt của một nhà ngoại giao Trung Quốc với đồng nhiệm người Pháp tại Manila hôm 12 Tháng Hai, 1979 (Chanda, Brother Enemy, trang 355).

32. Segal, Defending China, các trang 213-14.  Bất kể điều này, nhiều học giả nhấn mạnh rằng cùng mô thức cũng thể hiện rơ trong trường hợp Việt Nam.  Xem Yee, “The Sino-Vietnamese Border War”, các trang 21-2; Tretiak, “China’s Vietnam War”, trang 750.

33. Một sự phản kháng chính thức đă được chuyển tới ṭa đại sứ Việt Nam tại Bắc Kinh bởi Bộ Ngoại Giao CHNDTQ vào hôm 13 Tháng Mười Hai, 1979 [sic, 1978?], tuyên bố như sau:

Chính Phủ Việt Nam phải hiểu rằng có một giới hạn trong sự nhẫn nại và kiềm chế của Trung Quốc đối với các sự khiêu khích vũ trang của nó [Việt Nam] nhằm vào Trung Quốc và xâm phạm lănh thổ của Trung Quốc.  Nếu các nhà cầm quyền Việt Nam khăng khăng trong đường lối của họ và tiếp tục xâm phạm lănh thổ Trung Quốc … họ sẽ phải chịu trách nhiệm về các hậu quả phát sinh từ đó (Phần Phát Thanh Quốc Nội tại Bắc Kinh, ngày 13 Tháng Mười Hai, 1978, trong FBIS-CHI, 13 Tháng Mười Hai, 1978, trang A12).

Lời tuyên bố này được tiếp nối bởi một bài xă luận nghiêm khắc hơn trong tờ Renmin Ribao hai tuần lễ sau đó (được trích dẫn sau này trong chương này).

       Tạp chí lư thuyết của ĐCSTQ, tờ Hongqi, số Tháng Một 1979, ngược lại, cực kỳ im tiếng và không đe dọa ǵ trong một bài báo về Việt Nam.  Bài báo lên tiếng rằng “T́nh cảm và sự ủng hộ của nhân dân Trung Quốc …nghiêng về phía Kampuchea [Căm Bốt].  Hơn nữa, bài báo mạnh mẽ ám chỉ rằng bất kỳ viện trợ nào sắp có của Trung Quốc sẽ cực kỳ hạn chế và nhiều phần không tạo ra một sự khác biệt quyết liệt: “Cuộc đấu tranh của nhân dân Kampuchea chống lại sự xâm lược của Sô Viết và Việt Nam sẽ kéo dài, khúc mắc và dữ dội” (“Red Flag on SRV’s National Chauvinism …”, trang A14.

       Nổi bật hơn nữa là sự tương phản giữa lời lẽ của một kháng thư chính thức được chuyển giao đến ṭa đại sứ Việt Nam tại Bắc Kinh hôm 10 Tháng Hai bởi Bộ Ngoại Giao [Trung Quốc] và kháng thư trước đó được chuyển giao vào ngày 13 Tháng Mười Hai, 1978.  Tài liệu trước rất tế nhị, chỉ tuyên bố rằng “Các thẩm quyền Việt Nam phải đ́nh chỉ các sự khiêu khích quân sự của họ chống lại Trung Quốc; nếu không họ phải chịu trách nhiệm về mọi hậu quả phát sinh từ đó” (Tân Hoa Xă tại Bắc Kinh, bằng Anh ngữ, 10 Tháng Hai, 1979, trong FBIS-CHI, 12 Tháng Hai, 1979, trang A7).

34. Muốn biết quan điểm của Trung Quốc, xem Dangdai Zhongguo waijiao Bianji Weiyuanhui, Dangdai Zhongguo Waijiao [Quan Hệ Ngoại Giao của Trung Quốc Đương Đại], Beijing: Zhongguo Shehui Kexue Chubanshe, 1990), trang 286.

35. Họ Đặng có nói với viên chủ tịch Thông Tấn Xă Nhật Bản Kyodo trong khi đang có cuộc xung đột với Việt Nam rằng ông ta không thể đưa ra một hạn kỳ cụ thể cho sự đ́nh chỉ chiến sự bởi “Việt Nam th́ mạnh hơn Ấn Độ”. “Deng Welcomes UN Call for PRC, SRV Pullouts”, trang A6.

36. Chanda, Brother Enemy, các trang 348-9.

37. Xem các hồi kư của các viên chức ngoại giao hàng đầu của Hoa Kỳ vào thời điểm đó: Cyrus Vance, Hard Choices: Critical Years in America Foreign Policy, New York: Simon and Schuster, 1983; Zbigniew Brzezinski, Power and Principle: Memoirs of the National Security Advisor, 1977-1981, New York: Farrar, Straus, and Giroux, 1983.

38. Xem, thí dụ, Mulvenon, “The Limits of Coercive Diplomacy”, trang 84, chú thích số 49.

39. Jencks, “China’s ‘Punitivé War on Vietnam”, các trang 808, 813; Dangdai Zhongguo Kongjun Bianjibu, biên tập, Dangdai Zhongguo Kongjun [Đương Đại Trung Quốc Không Quân], Beijing: Zhongguo Shehui Kexue Chubanshe, 1989, các trang 636-9.

40. Muốn có một bản tóm lược về cuộc họp, xem Lieberthal and Dickson, A Research Guide, trang 262.

41. Tân Hoa Xă tại Bắc Kinh, bản tin bằng Anh ngữ, 19 Tháng Một, 1979, trong FBIS-CHI, 22 Tháng Một, 1979, các trang A8-A10.

42. “Deng Discusses Asia with Indian Journalists”, Pháp Tấn Xă tại Paris, bản tin ti8ếng Anh, 14 Tháng Hai, 1979, trong FBIS-CHI, 15 Tháng Hai, 1979, trang A7.  Cũng xem,  Yee, “The Sino-Vietnamese Border War”, trang 22; Jencks, “China’s ‘Punitivé War on Vietnam”, trang 805.

43. Chanda, Brother Enemy, trang 357.

44. Về sự đồng thuận giữa các nhà lănh đạo, xem Segal, Defending China, trang 224; về các sự phân hóa giữa các nhà lănh đạo, xem “AFP Highlights General Atmosphere in Beijing, Elsewhere”, trang E3.

45. Được trưng dẫn trong bản văn “State Council Official Comments on PRC Policy toward SRV”, trang E2.

46. Muốn có một số phân tích đáng chú ư về cảm nghĩ của họ Đặng về lư lịch và vị thế của chính ông ta trong phong trào cộng sản Truung Quốc, xem Ruan Ming, Deng Xiaoping: Chronicle of an Empire, Nacy Liu, Peter Rand, and Lawrence R. Sullivan, phiên dịch, Boulder, CO: Westview Press, 1994, các trang 55-6.  Họ Đặng gần như chắc chắn tự xem ḿnh là một nhà chiến lược tài ba.  Như là nhà kiến trúc chính cho cuộc chiến tranh đánh Việt Nam, cá nhân ông ta cảm thấy bị sỉ nhục bởi sự phê b́nh về cuộc chiến bởi một nhà chống đối trẻ tuổi tên Wei Jingsheng (Ngụy Kinh Sinh) trong một bích chương được dán trên Bức Tường Dân Chủ hồi mùa xuân 1979.  Xem Cùng Nơi dẫn Trên.

47. Xem Carol LeeHamrin, “Competing: ‘Policy Packages’ in Post-Mao China”, Asian Survey XXIV (Tháng năm 1984): 495-8; Chanda, Brother Enemy, trang 329.

48. Michel Oksenberg, “A Decade of Sino-American Relations”, Foreign Affairs 61 (1982): 187.

49. Muốn có bằng cớ rơ rệt về sự chú ư thường trực của họ Đặng trong sự cải cách quốc pḥng, xem nhiều đoạn văn về chủ đề này trong tập Deng Xiaoping wenxuan (1975-1982) [Đặng Tiểu B́nh Văn Tuyển, 1975-1982], Beijing: Renmin Chubanshe, 1983.

50. Chen, China’s War with Vietnam, các trangt 87-8.

51. Họ Wang thách đố sụ phân loại đơn giản và đôi khi được xem là một nhà quân sự.

52. Chanda lập luận rằng họ Wang đă là một sứ giả được phái đi để thông tin cho Pol Pot rằng sự can thiếp trực tiếp của Tru8ng Quốc tại Căm Bốt nhiều phần sẽ không xảy ra (Chanda, Brother Enemy, trang 326).  Với thành phần của phái đoàn, điều phải được nh́n thấy rằng đó là một phái bộ đi t́m hiểu sự kiện hầu giúp cho Bộ Chính Trị đưa ra một quyết định xác đáng về đường hướng hành động tốt đẹp nhất của Trung Quốc.  Trong thực tế, điều này nằm trong cách mà Chanda dường như nh́n  nó trong các trang kế tiếp. (Cùng nơi dẫn trên, trang 327).

53. Chen, China’s War with Vietnam, trang 86.

54. Chanda, Brother Enemy, trang 326.

55. Tân Hoa Xă tại Bắc Kinh, bản tin Anh ngữ, 11 Tháng Hai, 1979, trong FBIS-CHI, 12 Tháng Hai, 1979, trang A7.

56. 5 Tháng Ba, 1979, Yomuri Shimbun, được trưng dẫn bởi Hamrin, “Competing ‘Policy Packages’”, trang 503.

57. Xem Hamrin, “Competing ‘Policy Packages’”, trang 503; Hamrin, “Elite Politics and the Development of China’s Foreign Relations”, trong sách biên tập bởi Thomas W. Robinson và David Shambaugh, Chinese Foreign Policy: Theory and Practice, Oxford, UK: Clarendon Press, 1994, trang 102.

58. “Zai Zhongyang gongzuo huiyi shang de jianghua” [Bài nói chuyện tại hội nghị công tác trung ương] (ngày 5 Tháng Tư, 1979) trong Li Xiannian wenxuan [Lư Tiên Niệm Văn Tuyển], Beijing: Renmin Chubanshe, 1989, trang 351.

59. Tác giả King Chen tranh luận rằng nếu họ Hoa ở vào thế chủ động hồi Tháng Hai 1979, ông ta sẽ không bao giờ cho phép cuộc tấn công đựoc diễn ra.  Xem China’s War with Vietnam, trang 153.

60. “State Council Official Comments on PRC Policy toward Vietnam”, trang E2.

61. Chen, China’s War with Vietnam, trang 94.

62. Ruan, Deng Xiaoping, trang 58.

63. Tretiak, “China’s Vietnam War”, các trang 752-3.

64. Chen, China’s War with Vietnam, trang 113.

65. Xem Pháp Tấn Xă tại Taipei, 3 Tháng Tám, 1979, được trưng dẫn trong bài viết của Hamrin, “Competing ‘Policy packages’”, các trang 502-3.  Cũng xem Lieberthal and Dickson, A Research Guide, trang 263 (Phien họp thứ 426).

66. Gerald Segal, “The PLA and Chinese Foreign Policy Decision-Making”, International Affairs 57 (Summer 1981): 463-4.  Kết luận này được đặt nền trên sự diễn giải và suy luận bởi thiếu bằng chứng vững chắc.  Giả định làm việc của Segal là QĐGPNDTQ đă không đóng một vai tṛ then chốt trong quyết định phóng ra cuộc tấn công.

67. Chanda, Brother Enemy, trang 260.

68. Điều này là theo tác giả Geng.  Xem Chen, China’s War with Vietnam, các trang 85-6.

69. Chen, Mao’s China and the Cold War, các trang 123-38.

70. Chanda, Brother Enemy, trang 232.

71. “Zai Zhongyang Junshi Wei shouyu jing mo danwei he ge ren rongyu chengbao mingming dahui shang de jianghua” (13 Tháng Mười, 1979), trong quyển Xu Shiyou Huiyilu (Hồi Kư của Hứa Thế Hữu), Beijing: Jiefangjun Chubanshe, 1986, trang 623.

72. Chen, China’s War with Vietnam, trang 86.

73. Tân Hoa Xă tại Bắc Kinh, bản tin Anh ngữ, 17 Tháng Một, 1979, trong FBIS, 18 Tháng Một, 1979, trang A19.

74. “Huijian Yidali jizhe Naxi Pilaosi shi de jianghua jiyao”, Xu Xiangqian junshi wenxuan [Tuyển tập của Xu Xiangqian], Beijing: Jiefangjun Chubanshe, 1993, trang 305.

75. “Zai Zhongyang Junwei Renmin Wuzhuang Weiyuanhui diyi huiyi shang de jianghua” (27 Tháng Ba, 1979), trong quyển Xu Xiangqian  junshi wenxuan, trang 271.

76. Cùng nơi dẫn trên, các trang 273-4.

77. Dangdai Zhongguo Renwu Zongji Congshu Bianjubu, ban biên tập, Xu Xiangqian zhuan [Tiểu Sử của Xu Xiangqian], Beijing: Đangai Zhongguo Chubanshe, 1991, các trang 608, 549.

78. Geng Biao, Geng Biao huiyilu [Hồi Kư của Geng Biao], Beijing: Jiefangjun Chubanshe, 1991, các trang 554-64.  Geng được chuyển từ QĐGPNDTQ sang Bộ Ngoại Giao vào cuối thập niên 1940.  Trong một phần tư thế kỷ kế đó, ông đă làm đại sứ của CHNDTQ tại Thụy Sĩ, Đan Mạch, Phần Lan, Pakistan, Miến Điện, và Albania.  Nhưng vào cuối thập niên 1970, ông được tái bổ nhiệm vào CMC (Quân Ủy Trung Ương), và vào đầu thập niên 1980 ông được cử làm Bộ Trưởng Quốc Pḥng.  Cùng nơi dẫn trên, các trang 559-61.

79. Hăng Thông Tấn Tanjug tại Belgrade, bản tin Anh ngữ, 21 Tháng Hai, 1979, trong FBIS-CHI, 23 Tháng Hai, 1979, trang A11.

80. Chen, China’s War with Vietnam, các trang 85-7.

81. Tân Hoa Xă, 1 Tháng Mười Một, 1978, được trưng dẫn trong FBIS-CHI, 2 Tháng Mười Một, 1978, trang E3, được trích dẫn tbởi Hamrin, “Competing ‘Policy packages’”, các trang 497-8.

82. “Zai qingqu Zhonghua Renmin Gongheguo chengli sanshi zhounian dahui shang de jianghua” (29 Tháng Chín, 1979), Ye Jianying xuanji [Tuyển tập của Diệp Kiếm Anh], Beijing: Renmin Chubanshe, 1996, các trangt 550-1.

83. Gongren Ribao, 4 Tháng Hai, 1981, được trưng dẫn bởi Hamrin, “Competing ‘Policy Packages’”, trang 509.

84. Theo Bắc Kinh, các con số về các vụ khiêu khích vũ trang của Việt Nam như sau: 1974: 121; 1975: 439; 1976: 986; 1977: 752; 1978: “hơn 1,000 vụ”.  Trong giai đoạn sáu tháng từ Tháng Chín 1978 đến đầu Tháng Hai 1979, đă có 162 vụ vi phạm lănh thổ Trung Quốc được tường thuật, và khoảng 300 bộ đội biên pḥng đă bị chết hay bị thương bởi các cuộc tấn công của Việt Nam trong năm 1978 (Zhongnanhai sandai, 2: 308-9).  Tác giả Segal đă cảnh giác một cách khôn ngoan chống lại việc chấp nhận các con số này mà không phê phán (Defending China, trang 215).  Trong thực tế, điều luôn luôn được khuyến cáo là nên nghi ngờ các số thống kê của Trung Quốc.  Tuy nhiên, trong trường hợp này, có các lư do tốt cho việc chấp nhận chúng là khá tin cậy, và phiên bản Trung Quốc về các biên cố tương đối chính xác mặc dù gần như chắc chắn là có khuynh hướng nói thái quá.  Trước tiên, các sự tường thuật của cả Trung Quốc lẫn Việt Nam về các sự căng thẳng biên giới nói chung phù hợp với nhau.  Bắc Kinh tường thuật rằng các sự đột nhập của Việt Nam trở nên thường xuyên hơn vào cuối Tháng Tám 1978 và c̣n nghiêm trọng hơn trong Tháng Mười Một và Mười Hai.  Việt Nam đă không tố giác các vụ vi phạm biên giới của Trung Quốc cho đến cuối Tháng Mười 1978, và đă không nói chúng là nghiêm trọng cho đến Tháng Hai, 1979.  Thứ nh́, các sự cáo giác của Trung Quốc về các hoạt động của Việt Nam khá chi tiết và cụ thể, và con số các biến cố biên giới báo cáo được tuyên bố bởi Bắc Kinh vào thời điểm đó th́ nhất quán với các con số được trích dẫn bởi các nguồn tin Trung Quốc hai thập niên sau này.  Thứ ba, phía Trung Quốc ít có lư do để muốn khơi dậy một cuộc tấn công đại quy mô của Việt Nam vào Trung Quốc trước khi QĐGPNDTQ được bố trí một cách thích hợp để đương đầu với một t́nh huống như thế.  Chang, The Sino-Vietnamese Territorial Dispute, các trang 48-9.  Muốn có sự nhất quán trong các số thống kê, hăy so sánh các con số của Trung Quốc từ Tháng Hai, 1979 (Tretiak, “China’s Vietnam War”, trang 741) với các con số được dùng trong một nguồn tin năm 1998 (Zhongnanhai sandai, 2: 308-9).

85. Về sự bất cân xứng về động lực”, xem Mulvenon, “The Limits of Coercive Diplomacy”, các trang 75-7; về sự thiếu sót các sự khích lệ để Việt Nam thi hành động tác mong muốn và “sự nhiễu âm” ồn áo tại bối cảnh, xem Cùng nơi dẫn trên, các trang 74-5, 80.

86. Tân Hoa Xă tại Bắc Kinh, bản tin Anh ngữ, 24 Tháng Mười Hai, 1978, trong FBIS-CHI, 26 Tháng Mười Hai, 1978, trang A16.

87. Yee, “The Sino-Vietnamese Border War”, trang 18.

88. “Jianchi Sixiang jiben yuanze” [Giữ vững bốn nguyên tắc chủ yêu] (30 Tháng Ba, 1979), trong quyển Deng Xiaoping wenxuan, trang 146.  Điểm này cũng được nêu ra bởi Segal, Defending China, trang 218.

89. Yee, “The Sino-Vietnamese Border War”, trang 19.

90. Roger Garside, Coming Alive: China after Mao, New York: Mentor Books, 1982, trang 204.

91. “Jianchi Sixiang jiben yuanze”, trang 146.

92. Một học giả đă gọi đó là “Cuộc Chiến Tranh của Đặng Tiểu B́nh”.  Chen, China’s War with Vietnam, trang 152.

93. S. K. Ghosh, “Deng Xiaoping Steps Down from Military Leadership”, China Report XVI (Tháng Ba-Tháng Tư 1980): 3-4.

94. Xem Chen, China’s War with Vietnam, các trang 96-100; Ellis Joffe, The Chinese Army after Mao, Cambridge, MA: Harvard University Press, 1987, các trang 77-80.

95. Joffe, The Chinese Army after Mao, các trang 57-8.

96. “Jingjian jundui, tigao zhandouli” [Tinh giảm quân đội và nâng cao hiệu năng chiến đấu] (12 Tháng Ba, 1980), Deng Xiaoping wenxuan, các trang 248, 253.

97. Về ác cảm giữa họ Đặng và Hứu Thế Hữu, xem Richard Baum, Burying Mao: Chinese Politics in the Age of Deng Xiaoping, Princeton, NJ: Princeton University Press, 1994, trang 88; Jurgen Domes, The Government and Politics of the PRC: A Time of Transition, Boulder, CO: Westview Press, 1985, các trang 171-2.

98. Xem Alastair Iaian Johnston, “Party Rectification in the People’s Liberation Army, 1983-1987”, China Quarterly 112 (Tháng Mười Hai 1987): 591-630, đặc b9iệt các trang 602-3.

99. Yee, “The Sino-Vietnamese Border War”, trang 17.

100. Baum, Burying Mao, trang 80.  Baum giải thích sai lạc sự chỉ trích này là được nhắm vào họ Đặng.

101. W. J. F. Jenner, The Tyranny of History: The Roots of China’s Crisis, London: Allen Lane, 1992, trang 58.

102. “AFP Highlights General Atmosphere in Beijing, Elsewhere”, trang E3.

103. Chanda, Brother Enemy, các trang 361-2.

104. Các cuộc phỏng vấn của tác giả với các nhà nghiên cứu tại Bắc Kinh và Thượng Hải, Tháng Năm và Tháng Sáu 1998; các cuộc đối thoại của tác giả, Kunming, 1984-5.  Về nguồn gốc các câu văn được trích dẫn trong văn bản, xem Chương 3.

105. Xem, thí dụ, AFP tại Hồng Kông, bản tin Anh ngữ, 18 Tháng Hai, 1979, trong FBIS-CHI, 22 Tháng Hai, 1979, trang E1.  Cùng điểm này cũng đă được nêu ra bởi Segal, Defending China, trang 224; Tretiak, “China’s Vietnam War”, trang 751; Yee, “The Sino-Vietnamese Border War”, trang 20.

106. Phần Thông Tin Quốc Nội từ Bắc Kinh, 20 Tháng Hai, 1979, được trưng dẫn trong FBIS-CHI, 22 Tháng Hai, 1979, trang E2.

107. Thomas A. Fabyanic, “The Grammar and Logic of Conflict: The Differing Conceptions of Statesmen and Soldiers”, Air University Review 32 (Tháng Ba-Tháng Tư 1981): 23-31.

108. Alexander George, “The Development of Doctrine and Strategy”, trong sách của Alexander George, David K. Hall, và William E. Simons, The Limits of Coercive Diplomacy: Laos, Cuba, and Vietnam, Boston, MA: Little, Brown and Co0mpany, 1971, trang 18.

109. AFP tại Hồng Kông, 27 Tháng Hai, 1979, được trưng dẫn trong FBIS-CHI, 27 Tháng Hai, 1979, trang A7.

110. Xem, thí dụ, Chen, China’s War with Vietnam, trang 95.

111. “Deng Discusses Asia with Indian Journalists”, trang A7.

112. “Deng Welcomes UN Call for PRC, SRV Pullouts”, trang A5.

113. Muốn có sự tŕnh bày mạch lạc cổ điển về “đầu óc quân sự”, xem Samuel P. Huntington, The Soldier and the State: The Theory and the Politics of Civil-Military Relations, Cambridge, MA: Belknap Press, 1957, Chương 3; Richard K. Betts, Soldiers, Statesmen, and Cold War Crises, ấn bản lần thứ nh́, New York: Columbia University Press, 1991.

114. R. Bates Gill, Chinese Arms Transfers: Purposes, Patterns, and Prospects in the New World Order, New York: Praeger, 1992, trang 54.  Cũng xem các trang 55, 192; Phụ Lục Appendix 2 ở trang 215; Appendix 3 ở trang 217; Appendix 4 ở trang 219.

115. Sự can thiệp quân sự ồ ạt và trực tiếp của Trung Quốc tại Căm Bốt sẽ là một hành động táo bạo và tham vọng hơn rất nhiều so với cuộc tấn công hạn chế vào Việt Nam.

116. Tretiak, “China’s Vietnam War”, các trang 757-8; Segal, Defending China, trang 225; Joffe, The Chinese Army after Mao, trang 34; Baum, Burying Mao, trang 80; Lu Ning, The Dynamics of Foreign Policy Decisionmaking in China, Boulder, CO: Westview Press, 1997, trang 157.

117. Segal, Defending China, các trang 223-4.  Cần phải ghi nhận rằng một nhà phân tích lập luận là cuộc chiến tranh đă không có một tác động khổng lồ trong quốc nội về mặt đường lối không được thực hiện.  Cụ thể, nhà phân tích này quả quyết rằng cuộc chiến tranh đă khiến cho họ Đặng chuyển tiêu điểm cuộc cải cách của ông ta từ việc dân chủ hóa Trung Hoa sang việc xây dựng một “đế quốc toàn trị” mới.  Xem Ruan, Deng Xiaoping.  Tuy nhiên, điều này xem ra không xác đáng.  Xem phần điểm sách của tôi về tác phẩm của Ruan, trên tạp chí China Information XI (Tháng Bẩy 1996): 162-5. 

____

Nguồn: Andrew Scobell,  Chapter 6: “Half-Hearted Coercive Diplomacy: China’s 1979 Attack on Vietnam”,  China’s Use of Military Force Beyond the Great Wall and the Long March, Cambridge, United Kingdom: Cambridge University Press, 2003, các trang 119-143.

 

*****

 

CHƯƠNG KẾT LUẬN

 

GIẢI THÍCH SỰ SỬ DỤNG VŨ LỰC

 

CỦA TRUNG QUỐC

 

       Các nhận thức đương đại về một Trung Quốc ứng chiến (hay tham chiến)(belligerent) và một Quân Đội Giải Phóng Nhân Dân Trung Quốc (QĐGPNDTQ) hiếu chiến (bellicose) chịu ảnh hưởng nặng nề bởi các huyền thoại dai dẳng về truyền thống chiến lược của xứ sở này và mối quan hệ giữa QĐGPNDTQ với Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ).  Trong một huyền thoại, sự nhận thức về một nền văn hóa cổ xưa hiếu ḥa, nặng về pḥng thủ -- được biểu trưng bởi bức tường Vạn Lư Trường Thành – đụng độ với h́nh ảnh mới của một Trung Quốc thập niên 1990 ứng chiến hơn.  Trong một huyền thoại khác, sự giả định một quân đội hoàn thuộc lệ thuộc, hay đồng bộ hóa toàn thể, với một tầng lớp tinh hoa dân sự tại Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Quốc (CHNDTQ) – được biểu trưng bởi Cuộc Trường Chinh – đụng đầu với sự xuất hiện của các quân nhân có đầu óc độc lập và ăn nói bộc trực, tuyên nhận phát ngôn cho dân tộc Trung Hoa.

       Trong thực tế, văn hóa chiến lược của Trung Quốc không thuần túy chủ ḥa hay tham chiến.  Như Chương 2 [trong nguyên bản] nêu lên, trong nhiều trăm năm đă có hai phái: phái Chính Trị Thực Tế (Realpolitik) và phái Khổng học.  Các phái này tương tác để sản sinh ra một “Sự Tôn Sùng Sự Pḥng Thủ” bền bỉ của Trung Hoa ảnh hưởng sâu xa đến giới tinh hoa của Trung Quốc.  Hơn nữa, sự phân tích kỹ càng văn hóa dân sự - quân sự của cộng sản Trung Quốc nơi Chương 3 [trong nguyên bản] cho thấy rằng từ lâu đă có thể biện biệt giữa các lănh đạo dân sự và quân sự.  Ngay trong thời buổi sớm nhất của CHNDTQ, khi giới lănh đạo quân sự - chính trị bị khống chế bởi Mao Trạch Đông có thể được mô tả đóng vai tṛ song đôi, vẫn có thể đưa ra một số sự phân biệt nào đó.  Kế đến vào lúc cuối thế kỷ thứ hai mươi, khi văn hóa dân sự - quân sự được khuôn đúc lại dưới thời Đặng Tiểu B́nh và Giang Trạch Dân, QĐGPNDTQ trở nên cách biệt và tự trị hơn nhiều đối với ĐCSTQ, phát hiện trong tiến tŕnh tiềm năng của văn hóa quân sự.

       Tác động của văn hóa, giờ đây được xem như một yếu tố quan trọng trong việc nghiên cứu an ninh, được thẩm định tốt nhất bằng việc phân cách chiều kích này thành các tầng lớp khác biệt, mỗi tầng thao tác một ảnh hưởng đáng kể nhưng theo các phương cách khác nhau.  Sự Tôn Sùng Pḥng Thủ giải thích tính liên tục và thường lệ mà với chúng Trung Quốc sử dụng vũ lực.  Sự biến đổi của văn hóa dân sự - quân sự từ đó [sự Tôn Sng` Pḥng Thủ] dưới thời họ Mao (từ 1949 cho tới giữa thập niên 1970) cho đến Sự Tôn Sùng Pḥng Thủ dưới thời họ Giang (kể từ giữa thập biên 1990) giải thích sự thay đổi về nơi và phương cách mà Trung Quốc nhiều phần sẽ sử dụng vũ lực.  Văn hóa tổ chức quân sự giải thích sự khác biệt trong tư tưởng giữa các quân nhân và chính khách về cách thức mà vũ lực phải được sử dụng.

       Chương sách này tái duyệt bản chất và tác động của văn hóa chiến lược, văn hóa dân sự – quân sự, và văn hóa quân sự về sự sử dụng vũ lực của Trung Quốc.  Sau cùng, các hàm ư của cuộc nghiên cứu này được khảo sát.

 

TÍNH LIÊN TỤC: SỰ TÔN SÙNG PH̉NG THỦ

       Giới tinh hoa Trung Quốc chắc chắn nh́n Trung Quốc như một cường lực pḥng thủ, nhưng điều này không có nghĩa Trung Quốc sẽ ngại ngần né tránh sự xung đột.  Ngược lại, Trung Quốc có thiên hướng vẫn dụng đến vũ lực trong một cuộc khủng hoảng, một hậu quả của sự Tôn Sùng Sự Pḥng Thủ đă được xác định trong Chương 2 [của nguyên bản].  Hơn nữa, Sự Tôn Sùng Pḥng Thủ này ảnh hưởng đến cả tác phong đối ngoại lẫn đối nội.  QĐGPNDTQ là vị thần Janus hai mặt [Janus faced trong nguyên bản, chỉ vị thần Janus trong thần thoại La Mă, có hai mặt, một hướng về phía trước, một hướng về phía sau, chú của người dịch], và sự sử dụng vũ lực quân sự là một sự việc vừa có tính chất ngoại giao lẫn đối nội.

       Trong thế kỷ thứ hai mưoi mốt, các nhà lănh đạo Trung Quốc nhiều phần sẽ tiếp tục nh́n thế giới theo mặt Chính Trị Thực Tế (Realpoloiik) trong khi cùng lúc nhận thức văn hóa chiến lược Trung Quốc là theo Khổng học hay có đầu óc chủ ḥa và pḥng thủ.  Một cách nghịch lư, Sự Tôn Sùng Pḥng Thủ sản xuất ra một Bắc Kinh sẵn sàng sử dụng vũ lực quân sự một cách khẳng quyết chống lại các mối đe dọa ngoại lại hay nội bộ được nhận thấy, cùng lúc nhấn mạnh rằng Trung Quốc sở đắc một ác cảm văn hóa đối với việc sử dụng vũ lực, sẽ chỉ làm như thế để pḥng thủ và như một phương sách cuối cùng.

       Các cuộc tranh chấp lănh thổ th́ đặc biệt quan trọng đối với Bắc Kinh, nhất là các vụ tranh chấp liên quan đến Đài Loan và các ḥn đảo tại Biển Nam Hải.  Bắc Kinh đă từng sẵn ḷng sử dụng vũ lực được cân nhắc cẩn thận tại Triều Tiên (1950-3), tại Eo Biển Đài Loan (1954-5, 1958, 1962, và 1995-6), chống lại Ấn Độ (1962), chống lại Liên Bang Sô Viết (LBSV) (1969), chống lại Việt Nam (1965-73, 1974, 1979, và 1988), và chống lại Phi Luật Tân (kể từ 1995). 1 Trong các trường hợp như thế, sự sử dụng QĐGPNDTQ để chống đỡ các sự tuyên xác chủ quyền của Trung Quốc, trong khi bị xem là có tinh chất tấn công và / hay đe dọa tại các thủ đô khác, lại được nh́n là có tinh chất pḥng thủ thuần túy tại Bắc Kinh.  Trung Quốc đă quyết đoán và tính toán về sự sử dụng vũ lực của nó, đưa ra nhiều lời cảnh cáo và biện minh nghiêm khắc nhưng nghe có vẻ hợp lư một cách tổng quát.  Phán đoán theo các lời tuyên bố chính thức này, Bắc Kinh t́m cách cầu cứu đến hành động quân sự chỉ như một phương sách cuối cùng.  Bị ảnh hưởng phần lớn bởi mỹ từ chính thức như thế và sự sử dụng có kiểm soát công cụ quân sự, hầu hết các cuộc nghiên cứu về sự sử dụng vũ lực của Trung Quốc đă nhấn mạnh đến bản chất pḥng thủ và sự thận trọng của mọi hành động quân sự. 2 Song, nhiều cuộc động binh quân sự của CHNDTQ liên can đến động thái tấn công – mặc dù giới hạn – vượt quá các ranh giới được công nhận về mặt quốc tế của Trung Quốc và một xu hướng chấp nhận sự rủi ro. 3

 

THAY ĐỔI:

MỘT VĂN HÓA DÂN SỰ - QUÂN SỰ TIẾN HÓA

       Văn hóa dân sự – quân sự ảnh hưởng một cách đáng kể đến nơi và cách thức mà vũ lực được sử dụng.  Sự tiến hóa của văn hóa dân sự - quân sự từ họ Mao đến họ Đặng (cuối thập niên 1970 đến giữa thập niên 1990) rồi đến họ Giang đă ảnh hưởng tới cách thức mà các nhà lănh đạo Trung Quốc quyết định việc sử dụng vũ lực về mặt đối nội và đối ngoại.  Tính liên tục tổng quát trong sự sẵn ḷng của CHNDTQ để viện dẫn đến vũ lực được giải thích bởi sự tương tác của hai luồng tư tưởng Chính Trị Thực Tế và Không học về văn hóa chiến lược.  Một sự phân tích các trường hợp cá biệt của sự sử dụng lực lượng vũ trang phát hiện rằng các sự thay đổi trong văn hóa dân sự - quân sự có thể giải thích phần lớn biến thái về nơi và cách thức mà Trung Quốc nhiều phần sử dụng vũ lực.  Một số các học giả nêu ư kiến rằng quân đội của Trung Quốc đang tăng trưởng mạnh mẽ hơn về mặt chính trị và / hay hiếu chiến (bellicose) hơn. 4 Có thể chính xác hơn để nói rằng bản chất của quyền lực của QDGPNDTQ đang thay đổi và phương thức theo đó QĐGPNDTQ hành sử quyền lực này đang biến đổi.  Trong giai đoạn sau này của thời đại họ Đặng và trong thời hậu họ Đặng, các nhân vật quân sự xuất hiện và lớn tiếng hơn nhiều, phát biểu mạnh bạo các quan điểm của họ về một loạt các vấn đề trong truyền thông và tại Quốc Hội Toàn Dân.  Điều này khác biệt đáng kể với tính chất kín đáo và vận động hậu trường của thời đại họ Mao.  Nhưng Chương 4 [nguyên bản] phát hiện, ngay trong thời gian sớm nhất của thời họ Mao, các nhân vật quân sự đă biểu lộ một lối nghĩ khác biệt với các đối tác dân sự của họ về vấn đề Triều Tiên năm 1950.

       Văn hóa dân sự – quân sự đă trải qua các sự biến thể đáng kể từ thời họ Mao đến thời hậu họ Đặng.  QĐGPNDTQ đang tăng trưởng ngày càng khác biệt và tự trị đối với ĐCSTQ.  Kết quả, vào lúc bắt đầu thế kỷ thứ hai mươi mốt, QĐGPNDTQ là một thực thể thư lại và tổ chức khác biệt hơn – nhưng không có nghĩa nguyên khối duy nhất – sẵn sàng và có khả năng bày tỏ một cách chính thức các quan điểm của nó.  Và trong nửa thế kỷ qua, quân đội dường như đă giữ một quan điểm khác biệt với ngành ngoại giao về các vấn đề chiến tranh và ḥa b́nh, và đặc biệt về ngoại giao cưỡng hành.  Điều này xuất hiện ngày càng trở nên rơ nét hơn với thời gian.  Sự đồng thuận dân sự và quân sự đă dễ dàng đạt tới với giới tinh hoa đóng vai tṛ song hành trong năm 1950 và ngay cả trong năm 1967 và 1979.  Các quan điểm của các nhà lănh đạo tối cao đóng vai tṛ song đôi có thể tuyên bố cả lập trường mang thực chất dân sự lẫn quân sự có tính chất cốt yếu.  Trong khi các cải cách quốc pḥng thời họ Đặng diễn ra, lúc mà các nhân vật lăo thành của thế hệ Trường Chinh đă về hưu và chết đi, và khi các quân nhân trẻ hơn được thăng chức, sự khác biệt dân sự và quân sự đă trở nên rơ ràng hơn.  Sự phân biệt chức năng trong giới tinh hoa th́ hoàn toàn hiển hiện trong các trường hợp nghiên cứu năm 1989 và 1995-6.  Trong trường hợp kể sau, sự vắng bóng của một nhà lănh đạo tối cao đóng vai tṛ song đôi đă khiến cho sự đóng góp của QĐGPNDTQ có tác động lớn lao hơn.

       Học thuyết đă biến đổi từ “Chiến Tranh Nhân Dân” trong thời họ Mao sang “Chiến Tranh Giới Hạn Dưới Các Điều Kiện Kỹ Thuật Cao Cấp” trong thời hậu họ Đặng.  Đă có một sự biến thể từ một định hướng đối nội với các nhiệm vụ bao quát sang định hướng đối ngoại điều hướng QĐGPNDTQ đặt tiêu điểm vào các năng lực thỏa đáng nặng về kỹ thuật cần thiết để phát động chiến tranh trong thế kỷ thứ hai mươi mốt.  Căn cước của quân đội đă được biến đổi từ một quân đội đông đảo với lời thề trung thành vững chắc với ĐCSTQ – được hiện thân bởi họ Mao và sau này là họ Đặng – thành một lực lượng tinh nhuệ với ít ḷng trung thành thiết thạch đối với ĐCSTQ.

       Trong thực tế, QĐGPNDTQ nhiều phần bị rối trí và phân hóa trong bản thân về các cải cách quân sự gây nhiều tranh luận đang diễn ra.  Có các quan điểm khác biệt về tương lai. 5 Các phần tử trong QĐGPNDTQ có thể phản đối một cách ồn ào các cải cách mà trong quan điểm của họ ảnh hưởng một cách tiêu cực đến quân đội.  Lời loan báo của họ Giang hồi Tháng Bẩy 1998 rằng quân đội phải đi ra ngoài việc kinh doanh, thí dụ, đưa ra một thử thách quan trọng.  Và nạn thất nghiệp gia tăng hồi cuối thập niên 1990 khi các xí nghiệp quốc doanh bị phá sản hay sa thải nhân viên cũng ảnh hưởng đến giới quân sự, có lẽ trực tiếp nhất qua việc cho nghỉ việc các người hôn phối trong quân đội.  Nạn thất nghiệp gia tăng nâng cao khả tính của sự bất ổn ở đô thị và tiềm năng cho sự bố trí trong nước của quân đội.  Động lực cho quân đội để trở thành một quân đội “hiện đại” sẽ gia tăng – để rút lui khỏi các cơn lốc xoáy chính trị và các sự vướng mắc quốc nội chẳng hạn như các vụ kinh doanh thương mại.

 

CÁC QUÂN NHÂN VÀ SỰ SỬ DỤNG VŨ LỰC:

VĂN HÓA QUÂN SỰ

       Năm trường hợp nghiên cứu trong quyển sách này phát hiện rằng các quân nhân và các chính khách Trung Quốc giữ các sự nhận thức khác nhau về cách thức và thời điểm sử dụng vũ lực quân sự.  Văn hóa tổ chức dường như có ảnh hưởng trong việc xác định quan điểm của các nhân vật cá biệt đối diện với sự sử dụng vũ lực.  Trái ngược với tiếng tăm hiếu chiến (bellicose) của họ, các binh sĩ Trung Quốc có khuynh hướng không diều hâu (hawkish) nhiều hơn các nhà chính khách Trung Quốc.  Trong thực tế, các nhà lănh đạo quân sự thường có khuynh hướng ít “diều hâu” hơn các đối tác dân sự của họ.  Bất kể khuynh hướng của họ ra sao, các quân nhân Trung Quốc hiêm khi có vẻ sẽ là phần tử quyết đoán trong các quyết định sử dụng vũ lực.  Trong bất kỳ trương hợp nào, sự cẩn trọng của các quân nhân có khuynh hương không được đếm xỉa tới.

       Chi ở một trong các trường hợp duy đă khảo sát – cuộc Khủng Hoảng Eo Biển Tài Loan 1995-6 – mà tư tưởng của các nhà lănh đạo QĐGPNDTQ có được một tác động đáng kể trong việc liệu vũ lực có được sử dụng hay không.  Trong trường hợp này, họ đă tỏ ra “diều hâu” (hawkish) một cách nhất quán hơn các chính khách.  Từ ngữ “diều hâu, dương oai điệu vơ, biểu dương uy thế” (hawkish) được dùng một cách cân nhắc thay v́ bellicose: hiếu chiến, thích đánh nhau hay belligerent: ứng chiến, túc chiến,  sẵn sàng tham chiến (xem Chương 8) [nguyên bản] [*a].  Hai từ ngữ sau hàm ư một thiên hướng của tâm thần (predisposition) hay sự hăng say vận dụng đến bạo lực và không được chính xác trong quan điểm của tôi.

       Với ngoại lệ của Cuộc Khủng Hoảng Eo Biển Đài Loan 1995-6, chính vị lănh đạo tối cao đă là động lực chủ yếu trong các quyết định dàn binh bố trận quân đội cả ở trong nước lẫn hải ngoại.  Họ Mao đă là lực thúc đẩy đàng sau các quyết định để can thiệp tại Triều Tiên và để phái QĐGPNDTQ đến các khu phố, cơ xưởng, công xă, và các trường học hồi cuối thập niên 1960.  Họ Đặng đă là kẻ thúc đẩy chính yếu trong cuộc tấn công được phóng ra để đánh Việt Nam trong năm 1979 và trong việc thả QĐGPNDTQ ra để nghiền nát phong trào phản đối Mùa Xuân Bắc Kinh trong năm 1989.

       Một cách tổng quát, các quân nhân th́ thận trọng và bảo thủ hơn các chính khách trong các sự điều dụng trong nước và ngoài nước; tuy nhiên, được này không mấy đúng trong các vấn đề về  dân tộc chủ nghĩa dễ gây xúc cảm.  Các cảm thức của các quân nhân Trung Quốc trong các sự can thiệp ở Triều Tiên và Việt Nam đều bị ảnh hưởng bởi một lịch sử của một sự liên kết chặt chẽ giữa QĐGPNDTQ với các lực lượng vũ trang của các phong trào cộng sản liên hệ của hai nước này.  Trong năm 1950, lịch sử này đă có khunh hướng tăng cường cảm thức để tiến vào cuộc chiến tranh tại Triều Tiên và trợ giúp các chiến hữu cũ.  Trong năm 1979, lịch sử này có khuynh hướng tăng cường cảm thức trong một số binh sĩ để tấn công Việt Nam và trừng phạt một đồng minh trước đây nay phản bội quay lại chống Trung Quốc – một cảm thức cũng ảnh hưởng đến giới dân sự Trung Quốc.  Trong các trường hợp Việt Nam và Đài Loan, dường như có một sự đồng thuận rộng răi giữa các quân nhân và các chính khách rằng một vài loại hành động quân sự th́ cần thiết.  Có lẽ điều này xảy ra cũng v́ mỗi trường hợp đều có dính líu đến một vấn đề “đối nội”.  Trong trường hợp Việt Nam, vấn đề là sự đối xử với người gốc Hoa và các sự tranh chấp lănh thổ.  Đối với Đài Loan, vấn đề thống nhất quốc gia nâng cao xúc cảm của cả các quân nhân lẫn giới dân sự.

       Sự phân tích ở đây phù hợp với sự nghiên cứu của các học giả khác về các quan điểm của các nhân vật Trung Quốc đới với việc sử dụng vũ lực: Các quân nhân xem ra không cổ vũ chiến tranh (hawkish) nhiều hơn các đối tác dân sự của họ.  Trong ít nhất ba trường hợp khác với năm trường hợp khảo sát ở đây – Eo Biển Đài Loan (1958), Ấn Độ (1962), và Việt Nam (1964-5) – có vẻ rằng ít nhất một số quân nhân thượng tầng đă chống đối sự sự dụng vũ lực. 6 Trong suốt các thời đại họ Mao và họ Đặng, ư kiến của các nhà lănh đạo dân sự thượng tầng của Trung Quốc rơ ràng đă thắng thế, trong khi quan điểm quân sự chưa bao giờ có vẻ sẽ là yếu tố xác định trong các quyết định phát khởi các chiến sự thực sự.  Trường hợp nghiên cứu Đài Loan năm 1995-6 khiến ta nghĩ rằng điều này có thể thay đổi trong sự vắng bóng một nhà lănh đạo tối cao đóng vai tṛ song đôi.  Trong khi các tướng lănh của Trung Quốc có thể c̣n miễn cưỡng để thúc đẩy chiến tranh, họ có thể thuộc phái “diều hâu”.  Có nghĩa, họ có thể tham gia vào việc rung kiếm (saber rattling: biểu dương vũ lực) và đẩy t́nh h́nh đến miệng hộ chiến tranh (brinkmanship), đặc biệt trên các vấn đề, chẳng hạn như Đài Loan, mà họ tin rằng đă đe dọa đến các vấn đề cốt lơi của chủ quyền quốc gia và các quyền lợi chiến lược sinh tử.  Vụ va chạm hồi Tháng Tư 2001 giữa chiến đấu cơ F-8 của Trung Quốc và phi cơ thám sát EP-3 của Hải Quân Hoa Kỳ tại không phận quốc tế gần đảo Hải Nam cũng có thể được nh́n trong khung cảnh này.  Rơ ràng rằng các phi công Trung Quốc thường xuyên tham gia vào các màn thao diễn phi hành mạo hiểm được trù định để dọa dẫm phi hành đoàn Hoa Kỳ bay các phi vụ thường lệ gần không phận Trung Quốc.  Rất nhiều xác xuất rằng hành vi này đă chấp thuận bởi hệ thống chỉ huy quân sự mà không có sự hay biết của các nhà lănh đạo dân sự thượng tầng. 7 Bất kỳ một sự “biểu dương lực lượng” nào như thế đều có thể leo thang thành một cuộc xung đột trọn vẹn.

       Các sự khám phá của cuộc nghiên cứu này khiến ta nghĩ rằng các thái độ của các quân nhân và các chính khách Trung Quốc phù hợp một cách đại cương với khuôn mẫu được t́m thấy bởi tác giả Richard Betts trong cuộc nghiên cứu của ông về các thái độ của các nhà lănh đạo Mỹ trong Cuộc Chiến Tranh Lạnh. 8 Tác giả Betts nhận thấy rằng các nhân vật quân sự đă có khuynh hướng không ‘diều hâu” hơn các nhà lănh đạo dân sự và, trong thực tế, thường thuộc phe “bồ câu” [dovish: thuộc phe cổ vũ cho thái độ ḥa b́nh hay ḥa giải của quốc gia trong chính sách quốc pḥng, chú của người dịch] hơn.  Tuy nhiên, một khi xứ sở lao vào con đường chiến tranh, các quân nhân, đặc biệt các cấp chỉ huy tại chiến trường, trở nên hăng hái để đảm nhận nhiệm vụ của họ.  Tuy thế, vào lúc trước khi có sự chiến đấu, các sĩ quan tại chiến trường phô bày sự thận trọng và dè dặt đáng kể về chiến lược và các chiến thuật, và trên việc sử dụng vũ lực tối đa.  Cuộc nghiên cứu của tôi hậu thuẫn luận điểm của tác giả Paul H. B. Godwin rằng trên các vấn đề về an ninh quốc gia và chính sách ngoại giao, các quân nhân và các chính khách Trung Quốc có các khuynh hướng căn bản phù hợp một cách tổng quát với các sự khám phá của tác giả Betts. 9 Điều này cho thấy sự hiện diện của một “đầu óc quân sự Trung Quốc” – tương tự như tư duy được xác định tại Hoa Kỳ -- khác biệt với tư tưởng của các nhà lănh đạo dân sự Trung Quốc.

       Một cách đáng chú ư, cuộc nghiên cứu của tác giả Betts về động thái khủng hoảng Hoa Kỳ nhận thấy các cấp chỉ huy không quân và hải quân phần nào sẵn ḷng sử dụng vũ lực hơn các sĩ quan lục quân. 10 Nếu chúng ta có thể tổng quát hóa từ các khám phá này, chúng mang các hàm ư quan trọng cho Trung Quốc.  Sự khống chế áp đảo của thành phần lục quân của QĐGPNDTQ, so sánh với các binh chủng không và hải quân của nó, khiến ta nghĩ rằng trong quá khứ quân đội Trung Quốc có thể ít “diều hâu” hơn nhiều so với các lực lượng vũ trang của các quốc gia khác sở đắc nhiều năng lực không và hải quân quan trọng. 11 Điều này cũng có thể đang thay đổi khi các binh chủng không và hải quân Trung Quốc trải qua sự hiện đại hóa lớn lao và sự nâng cấp các năng lực của chúng. 12 Ảnh hưởng gia tăng của hải quân QĐGPNTQ th́ đáng kể nơi đây.  Hải Quân QĐGPNDTQ xem ra có một cảm nhận đặc biệt mạnh mẽ về nhiệm vụ và rơ ràng sẽ là một lực thúc đẩy đàng sau sự thám hiểm và bành trướng của Trung Quốc vào vùng Biển Nam Hải. 13

       Các thái độ của các quân nhân và các chính khách có khuynh hứngb khác biệt tự nền tảng về vấn đề ngoại giao cưỡng hành.  Điều này hiển hiện rất rơ nơi bốn trong năm trường hợp nghiên cứu trong quyển sách này.  Đă có các sự căng thẳng giữa cách mà các nhà lănh đạo dân sự và quân sự nh́n về việc vũ lực sẽ phải được áp dụng ra sao.  Các sự căng thẳng này tương đối dễ ḥa giải trừ một trong năm trường hợp bởi v́ các quân nhân đă chiều theo các ư muốn của nhà lănh đạo dân sự tối cao.  Chỉ trong trường hợp thứ năm và sau cùng, Đài Loan, các tướng lănh mới xuất hiện chống lại giới lănh đạo dân sự về sự cần thiết của việc sử dụng vũ lực.  Tuy thế, đă có một sự đồng thuận dân sự - quân sự phổ biến giữa các nhà lănh đạo chính trị lẫn quân sự về hành động thích đáng được lựa chọn.

 

CÁC HÀM Ư

       Cuộc nghiên cứu này về sự sử dụng vũ lực của Trung Quốc nêu ư kiến rằng các sự nghiên cứu an ninh phải mở rộng ư niệm về văn hóa để bao gồm sự hiện hữu của nhiều tầng văn hóa: văn hóa quân sự, văn hóa dân sự - quân sự, cũng như văn hóa chiến lược.  Và khi văn hóa chiến lược của một quốc gia được khảo sát, các nhà nghiên cứu phải tiếp thu sự hiện diện khả hữu nhiều hơn một luồng suy tư và phải cảnh giác về các ảnh hưởng của sự tương tác giữa chúng.  Hơn nữa, khi phân tích văn hóa chiến lược của một quốc gia, điều quan trọng là không được bỏ quả ảnh hưởng của truyền thuyết, văn hóa b́nh dân, tần số bạo động giữa các tầng lớp xă hội quan trọng (intrasocietal) và của nhà nước trên xă hội, và các sự điều dụng quân đội quốc nội.

       Quan niệm Trường Chinh về văn hóa dân sự - quân sự th́ hữu ích trong việc t́m hiểu các căn nguyên của con đường nắm quyền hành của đảng và sự tiến hóa của các quan hệ đảng – quân đội tại Trung Quốc.  Nhưng biến cố hào hùng này có ít hữu dụng trong việc t́m hiểu các tương tác chính trị - quân sự tại Trung Quốc trong thế kỷ thứ hai mươi mốt ngoại trừ như một sự nhắc nhở về các mối ràng buộc quân đội – đảng hỗn loạn trong thế kỷ trước.  Huyền thoại Trường Chinh sẽ nhiều phần phai mờ dần vào bóng tối, đặc biệt tương quan với các huy hoàng cổ xưa của các triều đại vinh quang trong quá khứ của Trung Quốc.  Các kỳ công của thế hệ Trường Chinh thuộc các nhà lănh đạo chính trị và quân sự sẽ phai nhạt dần khi các thế hệ lănh đạo kế tiếp t́m cách thiết lập và nâng cao tư thế đại cường cho Trung Quốc trong thế kỷ mới.  Khi các nhà lănh đạo này nh́n lại lịch sử, cuộc di hành hào hùng của một nhóm các nhà cách mạng rách rưới sẽ bị che khuất bởi ước vọng của họ muốn lập lại sự vinh quang và nguy nga của các triều đại cổ xưa.

       Kết luận quan trọng nhất của quyển sách này là sự bền bỉ của một huyền thoại được cùng chia sẻ trong các nhà cấu tạo quyết định và nghiên cứu Trung Quốc, được biểu trưng bởi Vạn Lư Trường Thành.  Bức tường thành này th́ thiêt yếu trong việc t́m hiểu thiên hướng chiến lược đương đại của Trung Quốc.  Đối với nhiều quân nhân và chính khách Trung Quốc, bức trường thành tượng trưng cho một biểu tượng mạnh mẽ của niềm tin của họ nơi truyền thống chiến lược Trung Hoa hoàn toàn pḥng thủ.  Các kẻ thuộc lớp tinh hoa này thành thực tin tưởng rằng họ là các người thừa kế một văn hóa chiến lược bền bỉ và cổ xưa mang tính chất pḥng thủ thuần túy.  Tín niệm này sẽ tiếp tục thúc đẩy các nhà lănh đạo này đến việc lư luận trong thực tế bất kỳ hoạt động quân sự nào như một hành động pḥng thủ.  Bắc Kinh dường như không có khả năng để nh́n nhận rằng các hành động mà nó nh́n như pḥng thủ thuần túy có thể được giải thích như tán công và đe dọa tại các thủ đô khác.  Các hàm ư của nhận xét sau cùng này cung cấp nguyên do lớn nhất cho sự báo động của các lân bang của Trung Quốc trong thế kỷ thứ hai mươi mốt./- 

_____

CHÚ THÍCH

1. Muốn có một sự phân tích bao quát gần đây, xem Allen S. Whiting, “China’s Use of Force, 1950-96, and Taiwan”, International Security 28 (Fall 2001): 103-31.  Về Triều Tiên, cuộc xung đột với Việt Nam năm 1979, và Cuộc Khủng Hoảng Eo Biển Đài Loan mới nhất, xem các chương liên hệ của quyển sách này.  Về các cuộc khủng hoảng ở eo biển trước đây, xem Thomas E. Stolper, China, Taiwan, and the Offshore Islands, Armonk, NY: M. E. Sharpe, 1985; Shu Guang Zhang, Deterrence and Strategic Culture: Chinese and American Confrontations, 1948-1958, Ithaca, NY: Cornell University Press, 1992; về Ấn Độ và Đông Dương trong thập niên 1960 và đầu thập niên 1970, xem Allen S. Whiting, The Chinese Calculus of Deterrence: India and Indochina, Ann Arbor, MI: University of Michigan Press, 1975; về Việt Nam trong năm 1974 và 1988, xem Quansheng Zhao, Interpreting China’s Foreign Policy: The Micro – Macro Linkage Approach, New York: Oxford Univeristy Press, 1996, các trang 42-6; về Liên Bang Sô Viết trong năm 1969, xem Thomas Robinson, “China Confronts the Soviet Union: Warfare and Diplomacy on China’s Inner Asian Frontiers”, trong sách biên tập bởi Roderick MacFarquhar và John K. Fairbank, Cambridge History of China, Vol. 15: The People’s Republic, Part 2: Revolutions within the Chinese Revolution 1966-1982, New York: Cambridge University Press, 1991, các trang 218-301; về các cuộc đụng độ năm 1995 với Phi Luật Tân, xem, thí dụ, Marichu Villanueva, “Senators Fear’Full-Blown’ War over Spartlys”, Manila Standard, 18 Tháng Hai, 1995.  Cũng xem Rigoberto Tiglao, Andrew Sherry, Nate Thayer, và Michael Vatikiotis, “’Tis the season”, Far Eastern Economic Review, 24 Tháng Mười Hai, 1998, các trang 18-20.  Manila tiếp tục xem trường hợp cuối cùng này cực kỳ nghiêm trọng.

2. Xem, thí dụ, Whiting, The Chinese Calculus of Deterrence; Gerald Segal, Defending China, New York: Oxford University Press, 1995; Melvin Gurtov và Byung-Moo Hwang, China under Threat, Baltimore, MD: John Hopkins University Press, 1980.

3. Whiting, “China’s Use of Force, 1950-96”, trang 130.

4. Michael D. Swaine, The Role of the Chinese Military in National Security Policymaking, Santa Monica, CA: RAND, 1996; Ross Munrovà Richard Bernstein, The Coming Conflict with China, New York: Alfred A. Knopf, 1997.

5. Michael Pillsbury, biên tập, China Debates the Future Security Environment, Washongton, DC: National Defense University Press, 2000; Andrew Scobell, “Playing to Win: Chinese Army Building in the Era of Jiang Zemin”, Asian Perspectives 25 (2001): 73-105.

6. Về Đài Loan, xem Segal, Defending China, trang 134; về Ấn Độ, cùng nơi dẫn trên, các trang 153-4; Gurtov and Hwang, China under Threat, các trang 169-70.

7. Muốn có một sự phân tích về điều mà cuộc khủng hoảng phát hiện về các tương tác dân sự - quân sự tại Trung Quốc, xem James Mulvenon, “Civil-Military Relations and the EP-3 Crisis: A Content Analysis”, China Leadership Monitor 1 (Winter 2002) được cung cấp tại: www.chinaleadershipmonitor.org/20011/20011JM1.html

8. Xem, Betts, Soldiers, Statesmen, and Cold War Crises, ấn bản lần thứ nh́, New York: Columbia University Press, 1991.  Khuôn mẫu này cũng được nhận thấy tại một số nhưng không phải tất cả các nước khác.  Xem Jong Sun Lee, “Attitudes of Civilian and Military Leaders towards War Initiation: Application of Richard Betts’ Analysis of American Cases to Other Countries”, Luận án Tiến Sĩ, Ohio State University, 1991.

9. Paul H. B. Godwin, “Soldiers and Statesmen: Chinese Defense and Foreign Policies in the 1990s”, trong sách biên tập bởi Samuel S. Kim, China and the World: New Directions in Chinese Foreign Relations, ấn bản lần thứ nh́, Boulder, CO: Westview Press, 1989, các trang 181-202.

10. Các tư lênh trong không quân và, ở một mực độ kém hơn, các cấp chỉ huy trong hải quân có khuynh hướng ít dè dặt hơn trong việc phái các lực lượng đi chiến đấu so với các cấp chỉ huy trong lục quân.  Betts,  Soldiers, Statesmen, and Cold War Crises, các trang 116-42.

11. Tính đến cuối thập niên 1990, khoảng ba phần tư nhân lực của QĐGPNDTQ được tập trung trong các lực lượng diện địa.  Xem You Ji, The Armed Forces of China, London: I. B. Tauris, 1999, các trang 28-9.  Sự xác quyết và số thống kê này không có nghĩa nêu ư kiến trong nhất thời rằng Không Quân và Hải Quân QĐGPNDTQ th́ không quan trọng.  Ngược lại, chúng hoàn toàn đáng kể.  Muốn có một cuộc nghiên cứu gần đây về binh chủng không quân, xem Kenneth W. Allen, Glenn Krumel, và Jonathan D. Pollack, China’s Air Force Enters the 21st Century, Santa Monia, CA: RAND, 1995; muốn có một cuộc nghiên cứu gần đây về hải quân, xem Bernard D. Cole, The Great Wall at Sea: China’s Navy Enters the Twenty First Century, Annapolis, MD: Naval Institute Press, 2001.

12., Về chương tŕnh năng nổ của các sự tạo măi vũ khí của Trung Quốc, xem Bates Gill và Tacho Kim, China’s Arms Acquisitions from Abroad: A Quest for “Superb and Secret Weapons”, Oxford, UK: Oxfrod University Press, 1995.

13. John W. Garver, “China’s Push through the South China Sea: The Intersection of Bureaucratic and National Interests”, China Quarterly 132 (Tháng Mười Hai 1992): 999-1028.  Cũng xem, Lu Ning, The Dynamics of Foreign-Policy Decisionmaking in China, Boulder, CO: Westview Press, 1997, các trang 124-7.

_____

Nguồn: Andrew Scobell,  Chapter 9: “Explaining China’s Use of Force”,  China’s Use of Military Force Beyond the Great Wall and the Long March, Cambridge, United Kingdom: Cambridge University Press, 2003, các trang 192-198.

*****

PHỤ CHÚ CỦA NGÔ BẮC

* a) Tác giả Scobell đă đưa ra các ư nghĩa khác biệt của các từ  ngữ hawkish, bellicosebelligerent như sau, nơi trang 171 của quyển sách:

… Một sự phân biệt quan trọng phải được đưa ra giữa các từ ngữ bellicose, belligerenthawkish: từ ngữ đầu tiên để chỉ tính khí, trong khi hai từ ngữ sau chỉ mức độ sẵn sàng về tinh thần để vận dụng đến chiến tranh.  Một nhà lănh đạo bellicose có đầu óc hiêu chiến  [thich chiên tranh] – có nghĩa, có ư thiên về việc vận dụng đến chiến tranh trong hầu hết mọi t́nh trạng.  Một lănh đạo belligerent là kẻ đă vượt qua ngưỡng cửa tinh thần trong một trường hợp cá biệt và sẵn sàng và hăng hái giao chiến [có thể dịch là ứng chiến, sẵn sàng tham chiến].  Ngược lại, một nhà lănh đạo hawkish là kẻ chuẩn bị sử dụng các phương tiện quân sự chưa phải là chiến tranh – tức rung kiếm, đẩy t́nh h́nh đến bờ vực chiến tranh và đe dọa chiến tranh  -- để thu đạt một mục đích của chính sách – tóm lại, để thực hiện ngoại giao cưỡng hành[có thể tạm dịch hawkish, theo nghĩa đen là phe diều hâu”, theo ư nghĩa là “biểu dương lực lượng, dương oai điệu vơ, chú của người dịch].  Trong các từ ngữ này, từ ngữ hawkish là từ ngữ chính xác nhất được dùng để mô tả lời nói và hành động của quân nhân Trung Quốc.  Trong năm 1995-6, QĐGPNDTQ nghiêng về về biểu dương vũ lực quân sự và các sự đe dọa như là các thành tố cốt lơi của một chính sách đối với Đài Loan.  Ngược lại, các từ bellicosebelligerent có tinh cách lừa dối bởi các từ ngữ này mang lại ấn tượng sai lạc rằng các nhà lănh đạo QĐGPNDTQ đang hăm hở muốn đánh một trận trong cuộc khủng hoảng và / hay là các kẻ hiếu chiến, có tính khí thích chiến tranh….   

 

Ngô Bắc dịch và phụ chú

27.08.2012    

 

 http://www.gio-o.com/NgoBac.html

 

© gio-o.com 2012