Arif Havas Oegroseno
Đại Sứ Indonesi tại Brussels,
Cựu Thứ Trưởng Đặc Trách Các Hiệp Ước Quốc Tế
Nguyên Chủ Tịch Các Quốc Gia Thành Viên của Hội Nghị UNCLOS 1982
INDONESIA,
BIỂN NAM TRUNG HOA
VÀ CÁC ĐƯỜNG 11/10/9 VẠCH (ĐOẠN)
Ngô Bắc dịch
Lời Người Dịch
Mặc dù Indonesia không phải là một trong các nước tuyên nhận cạnh tranh tại Biển Nam Nrung Hoa, bản đồ 11/10/9 vạch của Trung Quốc có bao gồm một phần của Chuỗi Đảo và Biển Natuna, thuộc tỉnh Riau, của Indonesia. Các hành vi bành trướng trắng trợn của Trung Quốc tại Biển Đông hiên nay đă khiến cho Indonesia có lập trường cứng rắn hơn đối với Bản Đồ 11/10/9 vạch của Trung Quốc, theo các quan sát viên quốc tế.
***
Bản Đồ Biển Nam Trung Hoa và Chuỗi Đảo & Biển Natuna của Indonesia
***
Arif Havas Oegreseno (jadwaldubes@gmail.com) là Đại Sứ Indonesia tại Brussels. Trước đây, ông là Thứ Trưởng về Các hiệp Ước Quốc Tế và Chủ Tịch Hội Nghị Các Quốc Gia Thành Viên của Công Ước UNCLOS 1982\. Bài viết này được ấn hành trước đây trên tờ Jakarta Post tại
http://www.thejakartapost.com/news/2014/04/09/indonesia-south-china-sea-and-11109-dashed-lines.html.
***
Dường như là một ám ảnh trong các nhà b́nh luận tại Á Châu và xa hơn rằng Indonesia phải thừa nhận rằng nó là một quốc gia tuyên nhận trong cuộc tranh chấp tại Biển Nam Trung Hoa và do đó, phải từ bỏ vai tṛ của nó như một “điều gải viên”. Đây là điều đáng buồn cười dưới nhăn quan củ luật quốc tế.
Dưới đây là ư kiến của tôi về vấn đề này.
Thứ nhất, ngay bản chất của cuộc tranh chấp tại Biển Nam Trung Hoa, nói một cách đơn giản, là về việc ai sở hữu hàng trăm các ḥn đảo, băi đá, rặng san hô, các cao điểm khi thủy triều xuống mức thấp nhất, và các băi cát tại các Quần Đảo Paracel [Hoàng Sa trong tiếng Việt, chú của người dịch] và Spratly [Trường Sa trong tiếng Việt, chú của người dịch]. Các nước tuyên nhận là Brunei, Trung Quốc, Mă Lai, Phi Luật Tân và Việt Nam. Đài Loan cũng được xem là một nước tuyên nhận bởi nhiều nước khác.
Kể từ thời độc lập của ḿnh, Indonesia chưa hề nghĩ đến việc đưa ra sự tuyên nhận đối với bất kỳ một trong hàng trăm địa h́nh tại Biển Nam Trung Hoa. Ngay khi Thủ Tướng Djuanda Kartawidjaja tuyên cáo hải phận ṿng cung đảo của Indonesia năm 1957, Indonesia đă không kể gồm Quần Đảo Spratly. Indonesia không hề có bất kỳ tham vọng lănh thổ nào tại khu vực này.
Nếu các nước tuyên nhận thực tâm muốn giải quyết việc nước nào sở hữu những ǵ và ở đâu, họ phải chấp nhận nguyên tắc tổng quát của công pháp quốc tế, và án lệ. Nhật kỳ lùi lại đên phán quyết vụ kiện Las Palmas/Miangas năm1928. Họ không thể vận hành Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982 bởi nó không được thiết kế để giải quyết các tranh chấp chủ quyền.
Thứ nh́, nếu, không phải khi, quyền sở hữu hàng trăm địa h́nh tại Biển Nam Trung Hoa có được xác định, sự thi hành tiếp theo sau sẽ là sự phân định các vùng biển từ các địa h́nh đó. Nguyên tắc pháp lư quốc tế quy định rằng “đất liền khống chế biển”, do đó, bất kỳ chiều rộng của các khu vực hàng hải tại Biển Nam Trung Hoa sẽ phải dựa trên sự phóng chiếu từ đất liền. Các luật khả dĩ áp dụng được gồm chứa trong Công Ước UNCLOS 1982, đặc biệt Điều 15 (phân định hải phận), Điều 74 (phân định các vùng kinh tế độc quyền (EEZ), Điều 83 (phân định thềm lục địa) và Điều 121 (chế độ các ḥn đảo).
Chế độ các ḥn đảo là một khía cạnh vô cùng trọng yếu của luật biển trong việc xác định việc cấc quyền bằng khoán vùng biển của một đảo cá biệt. Phái đoàn Trung Quốc dự kỳ họp thứ 19 của các nước thành viên của UNCLOS có tuyên bố rằng theo Điều 121 Công Ước UNCLOS, các băi đá không thể chống đỡ cho sự cư trú của con người hay sinh hoạt kinh tế sẽ không có vùng kinh tế độc quyền hay thềm lục địa. V́ phần lớn các địa h́nh trong cuộc tranh chấp rơi vào phạm vi của điều khoản này, những ǵ có thể xảy ra “sẽ là “điểm sôi sục” trong hải phận 12 dặm. Các điểm sôi sục đó nhiều phần sẽ tọa lạc xa không trùng lắp với Vùng Kinh Tế Độc Quyền của Indonesia tại Biển Nam Trung Hoa.
Thứ ba, tất cả các nước tuyên nhận trong cuộc tranh chấp đều đă đưa ra các bản văn tuyên nhận rơ như pha lê, song không nước nào trong họ đă tŕnh bày kỹ lưỡng căn bản cho yêu sách của họ. Có lẽ các lập luận của họ thiếu mất nền tảng pháp lư đến nỗi tiết lộ chúng sẽ là điều tai họa.
Thứ tư, một trong các nước tuyên nhận [chỉ Trung Quốc, chú của người dịch] đă đưa ra một bản đồ với một h́nh vẽ không nhất quán được biết là đường chín vạch (đoạn). Nó không nhất quán bởi đường vẽ không luôn luôn chỉ có chin vạch. Đôi khi có tới 11 hay 10 vạch.
Đường vẽ các vạch không được nối liền với nhau. Các vạch rơ ràng không phải là một sự phóng chiếu vùng biển của bất kỳ địa h́nh nào tại Biển Nam Trung Hoa. Bản đồ trên đó các đường 11/10/9 vạch này được vẽ hoặc không có tọa độ hay dự liệu cụ thể hay hệ thống đo lường đất đai. Chưa hề có ai giải thích một cách quyết đoán là liệu bản đồ có chủ định để tŕnh bày các sự tuyên nhận trên các địa h́nh không thôi hay trên địa h́nh và hải phận, hay là các ranh giới của địa h́nh, hải phận và khu vực hàng hải.
Trong cuộc tranh chấp Burkina Faso-Mali, điều được quy định rằng “Các bản đồ […] bởi sự hiện hữu không thôi của chúng […] không thể cấu thành bằng khoán lănh thổ”. Trong sự trọng tài vụ Eritrea chống Yemen, Ṭa Án Công Lư Quốc Tế phán định rằng “nó không sẵn sàng để gán ư nghĩa cho các đường vạch rời nhau. Các kết luận trên căn bản này được thúc đẩy bởi Eritrea liên quan đến […] bản đồ của nó th́ không được chấp nhận”.
Trong việc giải thích sự tuyên nhận của nó, Trung Quốc đă dùng các từ ngữ không được hay biết trong Công Ước UNCLOS 1982, tức “các hải phận liên hệ: relevant waters” và “các hải phận kề cận: adjacent waters”. Các nhà b́nh luận Trung Quốc cũng nói rằng bản đồ tượng trưng cho các quyền có tinh chất lịch sử (historic rights) hay các hải phận có tinh chất lịch sử (historic waters). Song Công Ước UNCLOS 1982 chỉ biết đến các vũng lịch Sử (historic bays) và bằng khoán lịch sử liên hệ đến hải phận.
Thứ năm, các lănh hải của Indonesia trong vùng đó được phân chia bởi đường ṿng ngoài của vành đại hải phận rộng 12 hải lư. Đường ṿng ngoài này được phát sinh từ các đường cơ sở của vành cung đảo đă được nạp lên Liên Hiệp Quốc và được xem là phù hợp với nguyên tắc vành cung đảo của Công Ước UNCLOS 1982. Các hải phận bên trong đường ṿng ngoài này là hải phận của Indonesia và các hải phận vành cung đảo được gọi là Biển Natuna. Các hải phận vượt quá đường ṿng ngoài này cho đến hết giới hạn vùng kinh tế độc quyền của Indonesia là một phần của Biển Nam Trung Hoa. Indonesia và Mă Lai đă đệ nạp hiệp ước của họ về sự phân định các thềm lục địa tại Biển Nam Trung Hoa hồi Tháng Mười 1969 lên tổng thư kư Liên Hiệp Quốc.
Không có ngay chỉ một nước nào đă phản đối hiệu lực của hiệp ước lâu 45 năm này, vốn có phân chia một số phần nào đó khá đáng kể của Biển Nam Trung Hoa.
Thứ sáu, để Indonesia tuyên bố tự ḿnh là một quốc gia tuyên nhận trong cuộc tranh chấp Biển Nam Trung Hoa do sự hiện hữu của bản đồ đường 11/10/9 vạch sẽ là điều phi lư. Như một vấn đề của luật pháp, sự kiện và sự lư luận khiến việc Indonesia sẽ bắt đầu phủ trùm bản đồ chính xác cao độ và xác đáng về mặt pháp lư lên một bản đồ không hoàn chỉnh, không chính xác, không nhất quán, và trục trặc về pháp lư là điều không thể hiểu được.
Indonesia đă phác họa lập trường của ḿnh về bản đồ đường vạch rời nhau trong văn thư ngoại giao gửi đến tổng thư kư Liên Hiệp Quốc hôm 8 Tháng Bảy, 2010, nói rằng bản đồ đó không có căn bản pháp lư quốc tế và tương đương với việc đảo lộn Công Ước UNCLOS 1982. Bộ Trưởng Ngoại Giao Marty Natalegawa đă tái xác định sự phủ nhận của Indonesia về tính hợp pháp của bản đồ [chin vạch] hôm 19 Tháng Ba.
Là một nước tôn trọng Luật Biển quốc tế, Indonesia luôn luôn bác bỏ bất kỳ đường vẽ nào trên biển không có căn bản liên quan đến Công Ước UNCLOS 1982, chẳng hạn như Hiệp Ước Paris (Treaty of Paris) năm 1898 và bản đồ đường vạch rời nhau. Trong lănh vực luật quốc tế về biển, chúng không có giá trị pháp lư, trong bất kỳ trường hợp nào. Không có sự mơ hồ, về chiến lược hay phương diện nào khác.
Thứ bảy, các lập luận bởi một số các nhà b́nh luận như Tiến Sĩ Ann Marie Murphy của Hoa Kỳ (xem Bản Tin PacNet#26: “Chấm dứt sự mơ hồ chiến lược. Indonesia chính thức loan báo sự tranh chấp của nó với Trung Quốc tại Biển Nam Trung Hoa”) và Tiến Sĩ Batongbacal của Phi Luật Tân rằng Indonesia mất đi vai tṛ của nó như điều giải viên trong cuộc tranh chấp Biển Nam Trung Hoa là một sai lầm quá mức sửa chữa. Indonesia không phải là “một điều giải viên” bởi cuộc tranh chấp chưa bước vào giai đoạn “điều giải: mediation”.
Điều vượt quá bất kỳ sự ngờ vực hợp lư nào rằng cuộc tranh chấp hiện đang được thảo luận, không phải điều giải, trong Nhóm Công Tác Chung giữa khối ASEAN và Trung Quốc về sự thi hành Bản Tuyên Bố về Sự Ứng Xử Của Các Bên tại Biển Nam Trung Hoa vừa mới nhóm họp hồi Tháng Ba vừa qua tại Singapore.
Sự góp sức không ngừng của Indonesia trong một khảo hướng đường lối thứ nhi, được biết như Nhóm Công Tác Quản Trị Xung Đột Tiềm Năng (Workshop on Managing Potential Conflict) tại Biển Nam Trung Hoa, không có ư định để đặt Indonesia làm một điều giải viên. Đó là một biện pháp xây dựng sự tín nhiệm để nâng cao sự hiểu biết và tin tưởng hỗ tương.
Chỉ mỗi sự hiện hữu của một bản đồ không hoàn chỉnh, không chính xác, không nhất quán và trục trặc pháp lư sẽ không buộc Indonesia phải từ bỏ các nỗ lực tạo sự thuận lợi cho việc xây dựng ḷng tín nhiệm hay đột nhiên làm Indonesia mất đi sự tin tưởng nơi phóng đồ hàng hải tại Biển Nam Trung Hoa với sự chính xác cao độ, xác đáng về mặt pháp lư và đă đê nạp lên Liên Hiệp Quốc của ḿnh./-
__
Các b́nh luận và đối đáp trên PacNet đại diện cho các quan điểm của các tác giả liên hệ. Các quan điểm khác biệt luôn luôn được đón nhận.
_____
Nguồn: Arif Havas Oegroseno, Indonesia, South China Sea and the 11/10/9-dashed lines, Pacific Forum CSIS, Honolulu, Hawaii , Number 26R Apr. 15, 2014, 1003 Bishop Street, Suite 1150, Honolulu, HI 96813; Email: PacificForum@pacforum.org; Web Page: www.pacforum.org.
Ngô Bắc dịch và phụ chú
07.07.2014
http://www.gio-o.com/NgoBac.html
© gio-o.com 2014