phỏng vấn

nhà thơ

Lâm Hảo Dũng

lê thị huệ thực hiện

kỳ 1

 

 

Lâm Hảo Dũng là thi sĩ thuộc lớp thanh niên trẻ bị động viên nhập ngũ ở Miền Nam thời Quốc Cộng chiến tranh 1954-1975. Ông là nhà thơ nổi bật với các thể loại thơ truyền thống như thơ bảy chữ, tám chữ và lục bát. Thơ ông được giới sáng tác cũng như độc giả Miền Nam trước 1975 yêu chuộng, v́ tính nhạc và tài xoay chữ nhẹ nhàng, dễ đi vào ḷng người.

 

Nhưng nếu có một cuộc nghiên cứu th́ gịng thơ người lính Miền Nam Lâm Hảo Dũng rất đáng nghiên cứu. Ông là một nhà thơ tiêu biểu của một thành phần lính Miền Nam, sáng tác hồn hậu về người lính Miền Nam khi xuất trận: hiền-nhân-thắng-thú-tính. Tuy vào trận chiến nhưng tâm thế vẫn lăng mạn hào hùng: khinh-tởm-việc-giết-người. Đây là một khủng hoảng khá bi hùng khác với khủng hoảng thú-tính-bắn-vào-quân-thù, như vẫn thường được thấy trong các tác phẩm kinh điển chiến tranh của phương Tây. 

 

Ông rời Việt Nam cuối thập niên 1980 và định cư ở Vancouver Canada. Ở Hải Ngoại thời gian đầu,  thơ Lâm Hảo Dũng xuất hiện khá nhiều trên tạp chí Làng Văn (Nguyễn Hữu Nghĩa), Lửa Việt (Bùi Bảo Sơn), Nhân Văn (Thượng Văn, Tưởng Năng Tiến, Lâm Văn Sang) … trong các thập niên 1980, 1990 .Sau đấy ông vắng mặt trên các tạp chí văn học hải ngoại khá lâu. Mới đây ông gởi thơ trở lại cho trang Gió O . Điều độc đáo là tuy vắng thơ cho các diễn đàn văn chương trên hàng chục năm, nhưng khi trở lại Lâm Hảo Dũng vẫn làm thơ hay. Vẫn cuốn hút người đọc với những bài thơ dễ tuồn cảm xúc và chữ nghĩa vào hồn. Cứ như thời gian không mảy may làm suy suyển một tài thơ thân thiện với đời là chàng thơ hồn nhiên Lâm Hảo Dũng.  

 

Gió O hân hạnh giới thiệu cuộc phỏng vấn với nhà thơ Lâm Hảo Dũng. (04/2017)

 

   

 

Lê Thị Huệ: Thường th́ anh bắt đầu một bài thơ như thế nào.  Xúc động rồi mới viết xuống, hay nẩy bật một câu chữ rồi theo đó thả ḍng tứ thơ ?

 

Lâm Hảo Dũng: Thông thường là sự xúc động đến trực tiếp, như bài “Trên đường đến Bandong,Savannakhet ; Một đêm ở Cà Ron-Savan- Lào…” ,  vừa ngồi trên xe đ̣, vừa chụp ảnh và vừa viết ngay trên sổ tay”.  Đôi khi tứ thơ (h́nh ảnh, sự vật…) có nhưng thơ chưa lên tiếng, tức sự rung cảm chưa đạt , tôi giữ tứ thơ ám ảnh, theo đuổi trong tâm năo ( đi, đứng, nằm, ngồi … để tiêu hóa hết) những ǵ ḿnh định viết, cho đến khi trái tim nhập hồn.

 

 

Lê Thị Huệ: Hiện anh viết câu thơ ra bằng cây bút lên trang giấy, hay anh gơ thẳng thơ vào màn h́nh computer? Nếu có sự thạy đổi về cách xử dụng cây viết và bàn phím, th́ anh có thấy sự khác biệt .

 

Lâm Hảo Dũng: Thỉnh thoảng,  tôi viết lên trang giấy (nếu đang làm ǵ, có một vài câu thơ chợt đến, vội ghi lại, bởi trí nhớ đă kém, nếu không, sẽ không nhớ được trọn vẹn).  Nhưng hiện nay tôi thường xử dụng computer.  Giữa xử dụng bàn phím và cây viết, tôi nghĩ cầm bút hay hơn v́ khi ḍng thơ đang chảy bất ngờ vấp váp, ngọn bút hí hoáy trên trang giấy, cũng như đọc lại đọan vừa viết, khiến ḿnh có thời gian khơi nguồn cảm hứng trở lại.

 

 

Lê Thị Huệ: "ḍng thơ" đây là "chữ",  hay là "cảm hứng" .

 

Lâm Hảo Dũng: Cô thật tinh tường. Đúng là  khi nguồn cảm hứng (ḍng thơ) đang chảy bất ngờ vấp váp, ngọn bút hí hoáy trên trang giấy…

 

 

Lê Thị Huệ:  Anh sáng tác thơ đă lâu năm, anh có thể cho biết làm sao để thấy đấy là "một bài thơ xuất thần", hay nói thẳng ra "đấy là một bài thơ hay". Hỏi điều này v́ theo sự t́m hiểu của tôi th́ Lâm Hảo Dũng là một nhà thơ được nhiều độc giả khen là có nhiều bài thơ hay

 

Lâm Hảo Dũng: Cảm ơn cô và độc gỉa. Thiển ư của tôi điểm cao nhất đó là trái tim thật thà rung cảm, đọc bài thơ ḿnh có thể nghĩ được người viết đang khóc theo từng ḍng chữ chảy dài trên trang giấy. C̣n phần trí óc, chỉ là sự chọn lọc ngôn từ cho câu thơ gẫy gọn, nâng cao gía trị nghệ thuật mà thôi.

 

 

Lê Thị Huệ: "Tôi chỉ thành thật nói", Lâm Hảo Dũng đă nói như thế trong một lần phát biểu về ḿnh. Tôi muốn hỏi anh . Cảm nghĩ của anh giữa Thơ và Sự Thật của Đời Sống . Anh có thấy nhu cầu chuyên chở Sự Thật của Đời Sống vào trong Thơ không ?

 

Lâm Hảo Dũng:  Xuyên suốt những giai đoạn làm thơ, từ thuở bỏ trường, vào đời, gia nhập quân đội; thơ tôi luôn thể hiện những băn khoăn, ưu tư của một thời tuổi trẻ, một hiện thực phải đối diện. Rơ nét nhất là khi mặc áo nhà binh. Cuộc sống chúng ta luôn bị vây quanh bởi những vấn nạn của xă hội, văn hóa, lịch sử, tôn giáo, chiến tranh, chủng tộc (như hiện nay)… mà không ai khó vượt thoát được. Thập niên 60-70 thế kỷ trước, nhiều anh em trẻ cẩm bút đă vẫn thường tự trách ḿnh “muôn năm bất măn và bất lực” được thể hiện bàng bạc trong thi ca của họ.

 

Chỉ là một Pháo thủ miền cao, tôi quanh năm ngược xuôi vùng rừng núi Kontum-Pleiku. Cái cảm giác yêu rừng núi, khung cảnh thiên nhiên, đă chạm khắc vào tâm trí tôi từ thời trưởng thành. Khi gia nhập quân đội, chỉ c̣n vùng hai và vùng một, c̣n nhiều nơi để chọn lựa. Tôi lại chấm ngay điểm đến Pleiku và rồi đời ḿnh cũng có những hệ lụy, ràng buộc măi về sau.

 

Một kỷ niệm mà tôi ray rức măi khi đơn vị tôi từ Trại Biệt Động Quân biên pḥng ở Banhet rút về đóng ở Phi trường Phượng Hoàng, Tân Cảnh. Tôi nhớ khoảng ba hay bốn giờ chiều, trời hôm ấy dầy đặc sương mù, nh́n thấy những anh em Nghĩa Quân đang thu ḿnh đứng gác giữ cầu Dakmot, một cây cầu được xem như là cây cầu biên giới từ khu vực Tam Biên, tâm hồn tôi đầy những rung cảm xót xa.

 

Cũng là lính người Nghĩa Quân Dakmot

Ngắm hàng cây trơ trụi khóc trên đồi

Những đêm vắng nghe suối rừng tuôn chảy

Như nỗi buồn đất nước măi chia đôi

                                          

Anh vẫn đứng bên cầu sương lạnh xuống

Vẫn âm thầm giữ đất nở hoa thơm

………………………………………..

Xin được gởi đến anh chùm trái sáng

Những hoa đèn quên phố thị về đêm

Để anh ngủ trong yên lành thanh thản

Giữa những ngày bom đạn của Tam Biên.

( Người Nghĩa Quân Bên Cầu Dakmot- 1971)

 

Hoặc khi ở Bồng Sơn –B́nh Định, may mắn không đi lội rừng, long rong ra phố, gặp thân xác của người anh em bên kia chiến tuyến ngă gục bên cầu xe lửa Bồng Sơn vào dịp Tết, tôi tự vấn tôi hoài:

 

Ngày xuân ra phố Bồng Sơn

Ngắm thây người chết, ngắm ḍng nước trôi

Em kiêu sa Chúa trên trời

Dấu trong đôi mắt dân Hời diệt vong

Ngày xuân ra phố âm thầm                    

Biết đâu Nguyễn Huệ truy tầm Ngọc Hân ?

Bạn nghiêng cốc rượu ân cần…

( Ngày Xuân Ra Phố Bồng Sơn-1969)

 

 

Lê Thị Huệ: Nhóm các Nhà Thơ Hậu Giang lớn lên cùng thời với anh, anh nghĩ có những nhà thơ nào có thơ hay nhưng đă không được đề cao như đáng lẽ họ nên được.

 

Lâm Hảo Dũng: Chúng tôi có Trần Phù Thế, Lưu Vân (đă mất) học chung trường và chung lớp; riêng Triều Uyên Phượng (đă mất) chung trường. Phượng , tuổi trẻ làm thơ hay, thơ đăng ở Văn vào năm,64, 65 mặc dù c̣n ngồi ở Trung học . Lưu Vân , thơ văn cũng đều tay, nhưng bản tánh nghệ sĩ qúa nên sáng tác cũng khiêm tốn. Một Ngô Nguyên Nghiễm đam mê văn nghệ “ hết ḿnh”, cho đến nay vẫn c̣n sáng tác rất sung măn. Anh đă công phu biên soạn bộ” Người đồng hành quanh tôi tập I,II,II,IV”, quyển nào cũng dầy khoảng ngh́n trang sách. Tháng 12-2016 vừa qua, anh cho ra đời bộ “Chân dung Văn Nghệ Sĩ Việt Nam qua góc nh́n Ngô Nguyên Nghiễm”…

 

Trần Phù Thế trong thi tập “Giỡn Bóng Chiêm Bao”, có những câu truyền đạt rất xúc động:”

Khi em vừa mới chào đời

Chiến tranh có mặt trong lời mẹ ru

Năm mươi tuổi lẽ phù du

Nợ tằm chưa hết sẽ bù kiếp sau

Chút ḷng đau nát ḷng đau

Nén hương cố xứ bay vào cơi xa

Trái tim em để quê nhà

Nợ văn em để làm qùa mai sau

(Lời Ru Nguyễn văn Ba ).

 

Lưu Vân trong bài Nghe Bạn Đọc Thơ Bùi Giáng Chợt Nghĩ

Kinh Pháp Hoa cất trên chùa

Ta ba hoa lúc ta chưa phục Tần

Kinh Kha một gă lừng khừng

Qua sông Dịch Thủy một lần là thôi

Ngày chay cũng cố ăn chay

Câu kinh chưa thuộc lấy ai cùng về

Đời người giấc mộng kim kê

Tỉnh ra lại thấy cơn mê đă đầy

Ta về rửa sạch bàn tay

Nghe câu thơ bỗng nhớ Ngài… phố trưa.

 ( Rót Nắng Qua Mưa)

 

Ngô Nguyên Nghiễm trong( Trăm Năm Ngàn Năm), có những câu thơ lồng lộng như cuồng phong Bảy Núi:”

Bạn ta dựa gốc cây

Khác ǵ con chim nhỏ

Giữa rừng người không quen

Chực chờ như mảnh hổ”

hoặc phong vị đầm thắm nhân sinh cổ:

Ôm nhau như uyên ương

Cũng có ngày xa cách.

 

Sau này, khi gia nhập quân đội, có lúc đơn vị tôi trú đóng tại thành Dakpha - Kontum, t́nh cờ quen biết với Nguyễn Bạch Dương (đă mất), quê Vĩnh Long, chuyên viên Mật Mă, đóng sát vị trí của tôi. Anh có những bài rất đạt. Ngoài ra, anh cũng tinh nghịch chọn cho ḿnh một bút hiệu nữ- đó là Lê Thị Tư. Tôi c̣n nhớ tựa đề một bài thơ của anh kư dưới bút hiệu Lê Thị Tư  này Để nhớ Cẩm Ĺn xa, bài này được đăng ở trang đầu cuả tuần báo Khởi Hành, lúc đó tôi lại về Tân Cảnh –Dakto, nên biết cô này, cô là thành viên trong một gia đ́nh Phật Tử. ( Dương khá mộ đạo, dường như ăn trường chay).

 

Trần Kiêu Bạt (đă mất), quê Cần Thơ,một nghệ sĩ phóng túng, bạt mạng:

Thôi người ở lại sớm hôm.  

Đường xưa ngọn cỏ như c̣n dáng tôi

( Ngày Gĩa Từ Cần Thơ).

 

Bên cạnh Trần Kiêu Bạt cũng có một người bạn tay đàn tay hát Hà Thúc Sinh. Từ những ḍng nhạc sơ khai mở đầu bằng những lời ca cổ điển cho đến ḍng thơ đơn giản rất hồn nhiên thời tuổi trẻ của họ Hà viết tặng cho Trần Kiêu Bạt trong những năm 1965,1966. “ Bài Năng Gù, Nhứt và Trường An “ (Nhứt tên thật của Trần Kiêu Bạt)

 

Đến đây một cuộc t́nh mời

Xe ngưng bụi đỏ, gặp người tôi run

Tôi yêu người ở răng trong

Đôi tay trần trắng mộng mông mênh hờ

Tôi yêu người ở chân như

Và yêu người ở Năng Gù đấy An

Đời sơn sơ ước cũng tàn

Tôi kiêu bạt với hai hàng lệ nâu...”

 

Hoài Ziang Duy, quê Châu Đốc, có thời góp tiếng trong Khai Phá của Ngô Nguyên Nghiễm, chỉ văn kỳ thanh. Qua đây có dịp liên lạc qua anh Trần Phù Thế. Thơ anh thể hiện sự phẫn uất, u trầm về một quê hương đă mất.

Sáng thức dậy

Đứng lên từ qúa khứ

Chỗ em nằm là chỗ trống đời ta

Chiều hôm qua nắng t́m chim bỏ xứ

Trong mắt em giọt nước đọng bên nhà"

(Thương Lấy đời Nhau - Con Mắt Trần Gian Thao Thức Mỏi )

 

Triều Uyên Phượng (đă mất), quê Sóc Trăng, học sau tôi vài lớp, thơ đăng ở Văn, Ngàn Khơi, Tiểu Thuyết Tuần San. Bài “ Buổi Sáng” được đăng ở Văn năm 1965, tuổi chưa qua 18!

Tách cà phê đen

Vũng bùn buổi sang

Tôi ngồi chưa quen.

Bên này góc phố

Cuộc đời nhô lên

Một mặt trời đỏ

Bây giờ ở đó

Tiếng cười sớm hôm

Thưa dần tuổi nhỏ

Tôi nh́n tôi luôn…”

(Người Đồng Hành Quanh Tôi II)

 

(c̣n tiếp)

 

 

http://www.gio-o.com/LamHaoDung.html

 

 

 

© gio-o.com 2017