đào trung đạo

thi sĩ / thi ca

(96)

Kỳ 1, Kỳ 2, Kỳ 3, Kỳ 4, Kỳ 5, Kỳ 6, Kỳ 7, Kỳ 8, Kỳ 9, Kỳ 10, Kỳ 11, Kỳ 12, Kỳ 13, Kỳ 14, Kỳ 15, Kỳ 16, Kỳ 17, Kỳ 18, Kỳ 19, Kỳ 20, Kỳ 21, Kỳ 22, Kỳ 23, Kỳ 24, Kỳ 25, Kỳ 26, Kỳ 27, Kỳ 28, Kỳ 29, Kỳ 30, Kỳ 31, Kỳ 32, Kỳ 33, Kỳ 34, Kỳ 35, Kỳ 36, Kỳ 37, Kỳ 38, Kỳ 39, Kỳ 40, Kỳ 41, Kỳ 42, Kỳ 43, Kỳ 44, Kỳ 45, Kỳ 46, Kỳ 47, Kỳ 48, Kỳ 49, Kỳ 50, Kỳ 51, Kỳ 52, Kỳ 53, Kỳ 54, Kỳ 55, Kỳ 56, Kỳ 57, Kỳ 58, Kỳ 59, Kỳ 60, Kỳ 61, Kỳ 62, Kỳ 63, Kỳ 64, Kỳ 65, Kỳ 66, Kỳ 67, Kỳ 68, Kỳ 68,Kỳ 66, Kỳ 69, Kỳ 70, Kỳ 71, Kỳ 72, Kỳ 73, Kỳ 74, Kỳ 75, Kỳ 76, Kỳ 77, Kỳ 78, Kỳ 79, Kỳ 80, Kỳ 81, Kỳ 82, Kỳ 83, Kỳ 84, Kỳ 85, Kỳ 86, Kỳ 87, Kỳ 88, Kỳ 89, Kỳ 90, Kỳ 91, Kỳ 92, Kỳ 93, Kỳ 94, Kỳ 95, Kỳ 96,

 

GIUSEPPE UNGARETTI

Chương II

Thi pháp và Thi ca của Ungaretti

Thi ca (tiếp)

Những chuyên gia viết về Ungaretti thường cho rằng lộ trình thi ca của ông có thể chia ra ba thời kỳ: thời kỳ thứ nhất với Allegria/Hân hoan (1914-1919), thời kỳ thứ nhì bắt đầu với Sentiment del tempo/Tình cảm Thời gain (1919-1935), La Terra promessa/Đất hứa (gồm những đoạn rời khởi đầu viết từ 1935 cho đến 1953) [15] và thời kỳ thứ ba với Il Dolore/Khổ đau (1937-1946) cùng những bài thơ viết khi về già như Un grido e paesaggi/Một tiếng kêu và những quang cảnh (1949-1952), Il taccuino del vecchio/Sổ tay của lão ông (1952-1960) và những bài thơ cuối cùng trong tập Dialogue/Đối thoại (xuất bản năm 1966).

Tập thơ viết thời trẻ tuổi Allegria  đánh dấu một khởi đầu khai phá thi ca rực rỡ của Ungaretti. Chính vì hào quang của tập thơ đầu tay xuất hiện vào thời điểm thi ca Tây phương đang bế tắc nên các nhà nghiên cứu Ungaretti nói đến Allegria nhiều hơn so với những tập thơ thời trưởng thành và cuối đời của Ungaretti. Tuy nhiên buổi đầu khi ra mắt người đọc không phải Allegria không gặp những chống đối, phê phán (sẽ được đề cập khi nói về Ungaretti và những nhà phê bình.) Năm 1931 tác giả giải thích về Allegria [16] như sau: “ Quyển sách cũ kỹ này là một quyển nhật ký. Tác giả không có tham vọng nào khác, và hắn nghĩ rằng ngay cả những nhà thơ lớn cũng không có tham vọng nào khác  ngoài việc để lại cho đời sau một tiểu sử đẹp đẽ. Những bài thơ của hắn như thế biểu trưng cho những trăn trở có tính hình thức của hắn, nhưng hắn cũng mong người đời nhận rõ ra được rằng hình thức chỉ làm hắn trăn trở vì hắn muốn nó gắn liền với những biến thái của tinh thần hắn, và nếu như hắn ta có làm được sự tiến bộ nào đó như một nghệ sĩ, thì hắn cũng muốn rằng sự tiến bộ này cho thấy sự có hoàn thiện nào đó của con người [ĐTĐ nhấn mạnh]. Hắn đã trở thành một người chín chắn giữa những biến cố đặc biệt mà hắn chẳng bao giờ là kẻ xa lạ đứng ngoài cả. Chẳng bao giờ phủ nhận tính chất phổ quát thiết yếu của thi ca, hắn luôn nghĩ rằng vũ trụ, để có thể tưởng tượng ra được, phải hòa đồng với tiếng nói riêng tư của thi sĩ thông qua một tình cảm tích cực về lịch sử.” Philippe Jaccottet cũng ghi lại trích dẫn bình luận của Ungaretti khi Toàn Tập được Mondadori xuất bản năm 1969: “Tựa đề ban đầu, người ta bảo là lạ, vốn là Allegress des naufrages. Lạ, nếu như hết thảy chẳng phải là đắm tàu, nếu như tất cả đã chẳng bị đảo lộn, nghẹt thở, bị thời gian tiêu hóa. Nỗi hân hoan khoảnh khắc cho ta, khi xảy đến, bởi vì là nhất thời, cái khoảnh khắc mà chỉ có tình yêu có thể dứt ra khỏi thời gian, thứ tình yêu mạnh mẽ hơn cả cái chết. Chính ở đó lả điểm nơi phun ra sự hớn hở của một khoảnh khắc, nỗi hân hoan này, nó như một con suối, sẽ chẳng bao giờ phải khẩn cầu tình cảm về sự hiện diện của cái chết. Nó không dính dáng gì tới triết lý cả, nó dính dáng tới kinh nghiệm cụ thể, thủ đắc từ hồi còn thơ ấu sống ở Alexandrie và rằng cuộc chiến tranh 14-18 phải đánh thức, làm cho cứng, sâu xa và choàng hoa nó. Nỗi hân hoan của đắm tàu là sự ý thức, sự khám phá bản ngã ban đầu hoàn tất từ từ, rồi đột nhiên dâng cao trong một bài ca viết vào ngày 16 tháng 8 năm 1916, trong chiến tranh đang diễn ra, trong hố ẩn núp, và bài thơ này có tựa đề là Những dòng sông. Trong bài thơ này bốn nguồn được kể ra, bốn nguồn này trộn lẫn nước của chúng trong tôi, bốn con sông mà chuyển vận của chúng đọc cho tôi viết ra những bài ca mà tôi viết khi đó...”[17]  Allegria gồm năm phần: Chấm dứt thời kỳ đầu (12 bài), Hải cảng chìm sâu (33 bài), Đắm tầu (17 bài), Kẻ lang thang (5 bài) và Những khởi đầu mới (7 bài). Nhìn chung toàn bộ tập thơ toát lên những tình cảm, nghĩ tượng cô đọng được biểu đạt bằng một ngôn ngữ thi ca kết tinh, tỉnh lược, bí ẩn của một nội lực thi ca sung mãn và trí tuệ.

__________________________________________

 [15] Theo ghi chú của Philippe Jaccottet (Vie d’un homme trang 333): căn cứ trên Toàn Tập Ungaretti (trang 545) tác giả có ghi chú như sau: “Quyển này, như khi cho xuất bản, không mấy đầy đủ, lẽ  ra phải gồm cả những bài trường ca về Énée, Sổ tay lão ông, và những bài trường ca trong tập Đất hứa một cách nào đó có thể biểu trưng cho một sơ thảo...Ý tưởng đầu tiên của Đất Hứa – người ta còn nhớ – , tôi đã có vào năm 1935, ngay sau khi viết bài thơ  Auguri per il proprio compleanno/Những lời tự chúc tụng cho Ngày Sinh Nhật của chính mình mà người ta có thể đọc trong tập Sentiment del tempo...Rồi vào năm 1942, khi Mandadori bắt đầu xuất bản tất cả tác phẩm của tôi, La Terra promessa được loan báo trong lời yêu cầu được kèm vào với tựa đề Trước mùa sau chót. Đó chính là mùa thu tôi nghe thấy tiếng ca hát trong bài thơ của tôi, một mùa thu đến sớm từ nơi ấy những dấu hiệu cuối cùng của tuổi trẻ luôn mãi tách ra, [những dấu hiệu] của tuổi trẻ trần gian, sự thèm khát xác thịt cuối cùng.”

Sinh thời Ungaretti không ngừng chỉnh sửa những bài thơ đã in của mình cũng như tự tay biên soạn những bài thơ để cho vào Tuyển Tập cho nên cần lưu ý năm xuất bản của những bài thơ và những Tuyển Tập này. Theo Joseph Cary, sự chỉnh sửa không ngừng này cho thấy đó là một sự đào sâu, một cuộc du hành từ ngẫu nhiên tình cờ (contingency) tới sự tinh túy, một sự nhìn nhận chậm rãi và khó khăn của cái trước hết thực sự có ý nghĩa hơn, đúng ra là một tiến bộ (progres) hơn là một diển trình (process) [Three Modern Italian Poets trang 136]

[16] Trích dẫn theo Philippe Jaccottet, sđd trang 132: “Ce vieux livre est un journal. L’auteur n’a pas d’autre ambition, et il pense que les grands poètes eux-mêmes n’eurent pas d’autre ambition, que de laisser derrière lui une belle biographie. Ses poésies représentent donc ses tourments formels, mais il souhaite voir reconnu une bonne fois que la forme le tourmente seulement parce qu’il veut qu’elle adhère aux variations de son esprit, et s’il a fait quelque progress comme artist, il voudrait que celui-ci révélât aussi quelque perfectionnement de l’homme. Il est devenu un homme mûr au milieu d’événements extraordinaires auxquels il n’est jamais resté étranger. Sans jamais nier la nécessaire universalité de la poésie, il a toujours pensé que l’univers, pour être imaginable, doit s’accorder à la voix singulière du poète à travers un sentiment actif de l’histoire.

[17] Sđd trang 331: Le titre primitif, étrange a-t-on dit, était Allegresse des naufrages. Étrange si tout n’était naufrage, si tout n’était bouleversé, etouffé, consumé par le temps. Éxultation que l’instant donne, en advenant, parce que fugitif, l’instant que seul l’amour peut arracher au temps, l’amour plus fort que la mort même. C’est là le point d’où jaillit cette éxultation d’un instant, cette allégresse qui, comme une source, n’aura jamais à conjurer que le sentiment de la présence de la mort. Il ne s’agit pas de philosophie, il s’agit d’expérience concrète, acquise depuis l’enfance vécue à Alexandrie et que la guerre de 14-18 devait éveiller, durcir, approfondir et couronner.

_____________________________________

THƠ UNGARETTI (tiếp)                                  

                   I FIUMI

                   Mi tengo a quest’ albero mutilano

                   Abbandonato in questa dolina

                   che ha il languore

                   di un circo

                   prima o dopo lo spettacolo

                   e guardo

                   il passaggio qieto

                   delle nuvole sulla luna

 

                   Stamani mi sono disteso

                   in un’ urna di acqua

                   e come una reliquia

                   ho riposato

 

                   L’Insonzo scorrendo

                   mi levigava

                   come un suo sasso

 

                   Ho tirato su

                   le mie quattr’ ossa

                   e me ne sono andato

                   come un accrobàta

                   dell acque

 

                   Mi sono accoccolato

                   vicino ai miei panni

                   sudici di guerra

 

                   e come un beduino

                   mi sono chinato

                   a ricevere

                   il sole

 

                   Questo è l’Isonzo

                   e qui meglio

                   mi sono riconosciuto

                   una docile fibra

                   dell’ universo

 

                   Il mio supplizio

                   è quando

                   non mi credo

                   in armonia

 

                   Ma quelle acculte

                   mani

                   che mi intridono

                   mi regalano

                   la rara

                   felicità

 

                   Ho ripassato

                   le epoche

                   della mia vita

 

                   Questi sono

                   i miei fiumi

                   questo è il Serchio

 

                   al quale hanno attinto

                   duemil’anni

                   forse

                   di gente mia

                   campagnola

                   e mio padre e mia madre

                   e questo è il Nilo

                   che mi ha visto

                   nascere e crescere

                   e ardere d’inconsapevolezza

                   nelle estese pianure

                   pretette d’azzurro

                   e questa è la Senna

                   e in quel suo torbido

                   mi sono rimescolato

                   e mi sono conosciuto

 

                   Questi sono i miei fiumi

                   contati nell’Isonzo

                   e questa è la mia nostalgia

                   che in ognuno

                   mi traspare

                   ora ch’è notte

                   che la mia vita mi pare

                   una corolla

                   di tenebre

                                           Cotici il 16 Agosto 1916

 

                   NHỮNG DÒNG SÔNG

 

                   Tôi tựa vào cái cây bị chặt

                   đứng chơ vơ trong bụi rậm này

                   nó có sự lười biếng

                   của một gánh xiếc

                   trước hay sau khi trình diễn

                   và tôi nhìn

                   dòng trôi lặng lẽ

                   của những đám mây ngang qua mặt trăng

 

                   Sáng nay tôi  nằm xoải

                   trong vạc nước

                   và như một di vật

                   tôi ngơi nghỉ

 

                   Dòng Isonzo xuôi chảy

                   tắm gội tôi

                   như một trong những tảng đá của nó

 

                   Tôi nâng nhấc

                   thịt xương tôi

                   và bước đi

                   trên mặt nước

                   như một tay biểu diễn nhào lộn

 

                   Tôi ngồi xổm

                   bên bộ đồ lính chiến

                   nhơ bẩn

                   và như một kẻ du cư

                   tôi cúi rạp mình đón nhận

                   mặt trời

 

                  

                   Đây là dòng Isonzo

                   và chính nơi đây

                   tôi nhận ra mình hơn

                   một sợi ngoan ngoãn

                   của vũ trụ

 

                   Sự day dứt của tôi

                   chính khi nào

                   tôi không tin mình

                   hòa đồng

 

                   Nhưng những bàn tay

                   huyền bí

                   nhào nặn tôi

                   ban cho tôi

                   hiếm 

                   ân sủng

 

                   Tôi duyệt xét

                   những giai đoạn

                   đời mình

 

                   Đây là

                   những con sông của tôi

 

                   Đây là dòng Serchio

                   chính do nó người ta đã vét cạn

                   có thể từ ba nghìn năm trước

                   của nông dân tôi

                   và của cha và mẹ tôi

 

                   Còn đây là sông Nil

                   nó đã nhìn tôi

                   sinh ra và lớn lên

                   và đốt cháy sự chân thật

                   trên những cánh đồng mênh mông của nó

 

                   Còn đây là sông Sein

                   trong dòng nước đục ngầu của nó

                   tôi đã được trộn lẫn và tái tạo

                   và tôi đã tự biết mình

 

                   Đó là những dòng sông của tôi

                   gồm trong dòng Isonzo

                  

                   Và đó là hoài niệm của tôi

                   như hiện hình

                   trong mỗi dòng sông

                   giờ đây đêm tới

                   dường như đời tôi là

                   một tràng

                   bóng tối

 

L’ISOLA

                   A una proda ove sera perenne

                   Di anziane selve assorte, scese,

                   E s’inoltrò

                   E lo richiamò rumore di penne

                   Ch’erasi sciolto stridulo

                   Batticuore dell’acqua torrida,

                   E una larva (languiva

                   E rifioriva) vide;

                   Ritornato a salire vide

                   Ch’era una ninfa e doemiva

                   Ritta abbracciata a un olmo.

 

                   In sé da simulacro a fiamma vera

                   Errando, giunse a un prato ove

                   L’ombra negli occhi s’addensava

                   Delle vergini come

                   Sera appiè degli ulivi;

                   Distillavano i rami

                   Una pioggia pigra di dardi,

                   Qua pecore s’erano appisolate

                   Sotto il liscio tepore,

                   Altre brucavano

                   La coltre luminosa;

                   Le mani del pastore erano un vetro

                   Levigato da fioca febbre.

 

                  

ĐẢO

                   Dọc theo một bãi cát nơi buổi chiều luôn

                   Là buổi chiều của những khu rừng cổ xưa, hắn đi xuống

                   Và bước tới

                   Và tiếng cánh chim vỗ gọi hắn trở lại,

                   Tiếng kêu thoát ra từ giọng rít lên

                   Nhịp đập của nước sôi sục,

                   Và hắn nhìn thấy ảo ảnh

                   (Mờ dần rồi lại bừng lên);

                   Khi tiếp tục trèo lên, hắn thấy

                   Rằng đó là một nữ thủy thần thiếp ngủ,

                   Thân thẳng tắp và đeo vào một cây du.

 

Bất định trong lòng về ảo ảnh tựa hồ

Từ một ngọn lửa có thực hắn đi đến một bãi cỏ

Ở đó bóng tối đọng lại trong mắt

Những trinh nữ như

Buổi chiều dưới gốc cây olive;

Cành thả xuống

Một cơn mưa những mũi tên lười biếng;

Ở đây gia súc đầm mình

Dưới hơi ấm tỏa

Những con khác gặm cỏ

Dọc đồng cỏ lấp lánh;

Tay của những kẻ chăn gia súc làm bằng thủy tinh

Được mài bóng bởi hơi nóng e thẹn.

 

(còn tiếp)

đào trung đạo

                                          

http://www.gio-o.com/DaoTrungDao.html 

© gio-o.com 2018