ĐÀO TRUNG ĐẠO
thi sĩ / thi ca
(10)
Kỳ 1, Kỳ 2, Kỳ 3, Kỳ 4, Kỳ 5, Kỳ 6, Kỳ 7, Kỳ 8, Kỳ 9, Kỳ 10,
Một thời điểm bao giờ cũng là một giả thiết làm chỗ dựa cho một số không giới hạn những phóng chiếu kư ức. Khi một thời điểm chỉ ghi ngày tháng mà không ghi năm th́ càng làm tăng những cơ hội trong tương lai kép (futur antérieur, future anterior).V́ vậy thời điểm chính là một tương lai kép: người ta chỉ định thời điểm này cho những ngày kỷ niệm vị lai, trong tương lai. Một thí dụ về thời điểm trong thơ Celan: ngày 13 tháng Hai năm 1962 Celan có mặt ở Paris nhưng tập thơ Die Niemandsrose trong đó có bài In Eins măi năm 1963 mới được xuất bản và Celan viết câu đầu tiên bài thơ này “Dreizehnter Feber…/Ngày 13 tháng Hai”: đó là ngày dân chúng Paris cử hành tang lễ cho những nạn nhân bị thảm sát ở trạm xe điện Charonne và cùng ngày cũng nổ ra cuộc biểu t́nh lớn của Dân chúng Paris (Peuple de Paris) do cánh tả, Liên đoàn Lao động và đảng viên Cọng sản tổ chức nhằm phản đối OAS (Organisation de l’Armée Secrète là một tổ chức thuộc quân đội Pháp chống lại việc trao tả độc lập cho Algérie). Những người thuộc Peuple de Paris sau này kết hợp thành Công xă (Commune): hai biến cố xảy ở cùng một thời điểm vừa đánh dấu cuộc chiến tranh của quốc gia (guerre nationale) vừa cuộc nội chiến (guerre civile). Từ đo có thể rút ra kết luận: sự kết thúc của biến cố này là sự bắt đầu của biến cố kia.
Derrida đặc biệt chú tâm diễn giải từ đánh dấu thời điểm quan trọng hàng đầu Schibboleth/schibboleth trong tác phẩm của Celan v́ “chính thời điểm tương tự như một schibboleth (La date elle-même ressemble à un schibboleth) cho phép một tiếp cận đă mă hóa vào một loạt những sắp xếp theo thứ tự bí mật những nơi chốn người sử dụng mật mă ghi nhớ trong kư ức. Sự sắp xếp càng nhiều nơi chốn th́ thời điểm càng không được qui định rơ một cách tương đối, chẳng hạn như trong bài thơ Schibboleth Celan chỉ nêu tháng Hai – dùng từ Februar thay v́ từ Đức cổ Feber – mà không ghi ngày cho nên ư nghĩa chính trị rộng răi có thể để chỉ ngày 13 tháng Hai của biến cố Peuple de Paris cũng như có thể để chỉ biến cố những người chống chế độ độc tài Franco hô vang khẩu hiệu no pasasán trong cuộc nội chiến ở Tây Ban Nha năm 1936, hay để chỉ biến cố liên kết của những người theo cánh tả, đảng viên SFIO, đảng viên đảng xă hội cực đoan vả đảng viên cọng sản ngày 12 tháng Hai năm 1934 để thành lập Mặt trận b́nh dân (Front populaire). Thế nhưng trong bài thơ In Eins Celan lại nói rơ đó là ngày 13 tháng Hai nên người ta có thể hiểu Celan muốn chỉ ngày 13 tháng Hai năm 1962 của biến cố đánh dấu cuộc chiến tranh quốc gia và cuộc nôi chiến Pháp như đă nói ở trên. Derrida nhắc lại quan điểm của ḿnh coi thời điểm như một giả thiết và nói rơ hơn: “Thời điểm là một tương lai kép, nó đưa ra thời gian người ta chỉ định những ngày lễ kỷ niệm trong tương lai.”(48)
V́ tương tự như thời điểm nên schibboleth ghi dấu nhiều lần, nhiều lần trong chỉ một lần theo nghĩa in eins, at once (Derrida dùng cả tiếng Đức lẫn tiếng Anh ở đây cho rơ nghĩa ) và đó là tính chất đa phức được ghi dấu (Multiplicité marquée) nhưng đó cũng lại là tinh chất đa phức để ghi dấu (Multiplicité marquante). Derrida dẫn giải: “Thật vậy, một mặt, ở trong bài thơ, hiển nhiên nó [schibboleth] là tên gọi mật khẩu hay dấu hiệu tái nhập nhóm, một quyền đi qua hay một ra dấu của sự thuộc vào trong mọi t́nh huống chính trị, suốt dọc những biên giới lịch sử được định h́nh bởi bài thơ. Cái thông hành/hộ chiếu này, như người ta nói, chính là schibboleth, nó xác định một chủ đề, một ư nghĩa hay một nội dung. Nhưng, ở mặt khác, như một mă số bí mật hay được đánh số, schibboleth cũng đặt vần cho cái quyền tụ tập riêng biệt của thời điểm kỷ niệm này. Thời điểm kỷ niệm này cho phép đi vào kư ức, đi vào tương lai của thời điểm, vào tương lai của chính thời điểm, nhưng cũng cho phép đi vào bài thơ – chính bài thơ. Schibboleth là schibboleth là quyền đối với bài thơ tự nó gọi tên chính ḿnh là schibboleth, là schibboleth của riêng nó ở ngay thời khắc nó truy niệm những schibboleth khác. Schibboleth là danh xưng của nó, dù nó có xuất hiện hay không ở nơi chốn đó, như nơi một trong hai bài thơ.”(49) Tuy nhiên có hai điều Derrida muốn minh bạch: thứ nhất, không phải những biến cố được truy niệm là những biến cố không-thi ca (non-poétiques) v́ đối với Celan sự kết hợp có ư nghĩa tất cả những thảm kịch và những tác nhân lịch sử này sẽ tạo nên chữ kư của một bài thơ; thứ nh́, không phải việc sắp đặt một schibboleth sẽ xóa bỏ mă số, cho chúng ta cái ch́a khóa để mở mă số bí mật và nắm chắc ư nghĩa, mă số không bị xóa bỏ, schibboleth vẫn là một điều bí ẩn, một lối đi qua không chắc chắn, và bài thơ hé lộ một bí ẩn chỉ cốt để xác định rằng ở đó có một sự bí ẩn thu rút, măi măi trốn chạy khỏi sự tận giải thông diễn luận. “Nó vẫn cứ là một sự bí ẩn không bí hiểm, và thời điểm là không đồng nhất với mọi sự tổng hợp diễn giải. Xóa bỏ nguyên lư thông diễn luận. Không có chỉ một ư nghĩa ngay khi có một thời điểm và schibboleth, không c̣n chỉ là một ư nghĩa nguyên ủy duy nhất.” (50) Sự khác biệt trong cách phát âm shi và si trong từ Schibboleth tự chính nó không có ư nghĩa nhưng lại cần phải biết và ghi nhận để cất bước (faire le pas) qua biên giới của nơi chốn hay cái ngưỡng (le seuil) của một bài thơ, để thấy ḿnh được cho quyền cư ngụ hợp pháp một tiếng nói, một ngôn ngữ. Sự bí ẩn của Schibboleth nằm ở chỗ phải có khả năng nói từ này đúng như phải nói, có khả năng làm điều này, có nghĩa là ghi dấu (marquer). Đó là một sự bí ẩn không có bí ẩn (Un secret sans secret), v́ quyền liên kết, đồng minh không dấu diếm một bí ẩn nào. Hơn nữa sự khác biệt giữa shi và si c̣n là một dấu hiệu được mă hóa để có khả năng chia sẻ với người khác, khả năng khu biệt này phải được tự thân ghi dấu (inscrit en soi) nghĩa là trong chính thân xác – chẳng hạn năng khiếu phát âm – của ḿnh (corps propre) cũng như tiếng nói, ngôn ngữ của ḿnh. Nói cho gọn là phải thuộc về một cộng đồng văn hóa và ngôn ngữ nào đó.
Theo Derrida Schibboleth không mă hóa một sự vật nào và nó không chỉ là một mă tự hay mă tự của một bài thơ, nhưng chính là từ bên ngoài ư nghĩa (hors-sens) nơi bài thơ trụ lại trong dự trữ, là mă tự của mă tự (le chiffre du chiffre), sự biểu lộ được mă hóa của mă số như vậy. “Và khi một mă tự biểu lộ ra như cái nó là, nghĩa là trong khi tự mă hóa, không phải để nói với chúng ta rằng: tôi là một mă tự. Nó cũng có thể dấu diếm chúng ta, dù chẳng có ư dấu diếm chút nào, sự bí ẩn nó chứa chất trong tính chất khả độc của nó. Nó càng tạo ấn tượng, làm mê say và quyến rũ chúng ta hơn. Nơi nó có tỉnh lược của sự thận trọng, và sự ngắt quăng, nó chẳng thể làm khác. Việc cho qua này là một niềm đam mê trước khi trở thành sự tính toán một mối hiểm nguy, trước mọi sách lược, trước mọi thi pháp cố t́nh mă hóa, như nơi Joyce chẳng hạn, làm cho nhiều thế hệ giáo sự phải bận bịu. Cứ giả dụ rằng việc làm này vét cạn được sự ham muốn thực sự hay ban đầu của Joyce, tôi không tin như vậy, tôi thấy chẳng có điều ǵ xa lạ với Celan cả.”(51) Chắc chắn là có phức tính (multiplicité) và di trú của những ngôn ngữ như Babel được gọi tên sau tên Ghetto-Rose/Bông Hồng Xóm Nghèo (ghetto) trong bài thơ Hinausgekrönt/Được đẩy ra bên ngoài (trong tập Niemandsrose) và cái h́nh dạng dương vật (phallisch gebündelt/figure phallique) này được gói ghém trong ḷng bài thơ và đó cũng là lời cuối của bài thơ nhằm đối thoại và trao gửi. Derrida trích dẫn khổ chót bài thơ Hinausgekrön:
Und es steigt eine Erde herauf, die unsre,
diese.
Und wir schicken
keinen der Unsern hinunter
zu dir,
Babel. (52)
Và một trái đất nổi lên, trái đất của chúng ta,
trái đất này.
Và chúng ta sẽ không gửi đi
không ai trong chúng ta xuống đó
tới em,
Babel.
Bài thơ dường như nhắn gửi Babel nhưng không không ai trả lời. Ngôn ngữ cũng như xứ sở thi sĩ di tản mang theo những biên giới: “Xứ sở di chuyển như những cái tên này và những phiến đá này người ta đem cầm cố làm của tin, tay sang tay, và bàn tay cũng bị cho đi, và cái bị cắt đi, bị biến dạng, bị xé nát có thể lại tái hợp trong biểu tượng, trong của làm tin, trong lời hứa hẹn, trong kết liên, trong từ/lời chia sẻ, trong sự chuyển di của từ/lời được chia sẻ.” (53)
Derrida trích đoạn bài thơ ES IST ALLES ANDERS/TẤT CẢ KHÁC VỚI trong tập Niemandsrose của Celan:
– was abriß, wächst wieder zusammen –
das hast du sie, da nimm sie dir, da hast du alle beide,
den Namen, den Namen, die Hand, die Hand,
da nimm sie dir zum Unterpfand,
er nimmt auch das, und du hast
wieder, was dein ist, was sein war,
Windmühlen
Stoßen dir Luft in die Lunge […]
–cái bị tháo rời, lại nối lại –
nơi ngươi có chúng, hăy cầm lấy chúng, ngươi có cả hai,
tên, tên, tay, tay
lấy chúng làm của tin,
hăy lấy chúng, giữ chúng như món đồ đem thế chấp,
hắn cũng lấy nó, và ngươi lại có
cái ǵ là của ngươi, cái ǵ của hắn,
Những cối xay gió
đẩy không khí vào phổi ngươi […]
___________________________________
(48) Sđd trang 48: La date est un future antérieure, elle donne le temps qu’on assigne aux anniversaires à venir.
(49) Sđd trang 49: D’une part, en effet, à l’intérieur du poème, il nomme évidemment le mot de passé ou le signe de ralliement, un droit d’accès ou un signal d’appartenance dans toutes les situations politques, le long des frontiers historiques configurées par le poème. Ce visa, dira-t-on, c’est le schibboleth , il détermine un thème, un sens ou un contenu.
Mais, d’autre part, chiffre cryptique ou chiffre numérique, schibboleth épelle aussi ce pouvoir de rassemblemnt singulier de la date universaire. Celle-ci donne accès à la mémoire, à l’avenir de la date, à son propre avenir, mais aussi au poème – lui-même. Schibboleth est le schibboleth pour le droit au poème qui se dit lui-même schibboleth, son prpre schibboleth à l’instant où il en commémore d’autres. Schibboleth est son titre, qu’il apparaisse ou non à cette place, comme dans l’un des deux poèmes.
(50) Sđd trang 50: La crype demeure, le schibboleth reste secret, le passage incertain, et le poème ne dévoile un secret que pour confirmer qu’il y a là du secret, en retrait, à jamais soustrait à l’exhaustion herméneutique. Secret sans hermétisme, il reste, et la date, hétérogène à toute totalisation interpretive. Éradication du principle herméneutique. Il n’y a pas un sens, dès qu’il y a de la date et schibboleth, plus un seul sens originaire.
(51) Sđd, trang 51: Et quand un chiffre se manifeste comme il est, donc en se cryptant, ce n’est pas pour nous dire: je suis un chiffre. Il peut encore nous dissimuler, sans la moindre intention cachée, le secret qu’il héberge dans sa lisibilité. Il nous émeut, fascine et séduit d’autant plus. L’ellipse de la discrétion est en lui, et la césure, il n’y peut rien. Ce laisser-passer est une passion avant de devenir le calcul d’un risque, avant toute stratégie, avant toute poétique du chiffrage destine, comme chez Joyce, à faire travailler des generations d’universitaires. A supposer que cela épuise le vrai ou le premier désir de Joyce, je ne le crois pas, rien ne me paraît plus étranger à Celan.
(52) Nguyên tác bài thơ này của Celan như sau:
HINAUSGEKRÖNT
Hinausgespien in die Nach.
Bei welchen
Sternen! Lauter
graugeschlagenes Herzhammersilber. Und
Berenikes Haupthaar, auch hier, - ich flocht,
ich zerflocht,
ich flechte, zerflechte.
Ich flechte.
Blauschlucht, in dich
treib ich das Gold. Auch mit ihm, dem
bei Huren und Dirnen vertanen,
komm ich und komm ich. Zu dir,
Geliebte.
Auch mit Fluch und Gebet. Auch mit jeder
der über mich hin-
schwirrenden Keulen: auch sie in eins
geschmolzen, auch sie
phallisch gebündelt zu dir,
Garbe-und-Wort.
Mit Namen, getränkt
von jedem Exil.
Mit Namen und Samen,
mit Namen, getaucht
in alle
Kelche, die vollstehn mit deinem
Königsblut, Mensch, - in alle
Kelche der großen
Ghetto-Rose, aus der
Du uns ansiehst, unsterblich von soviel
Auf Morgenwegen gestorbenen Toden.
(Und wir sangen die Warschowjanka.
Mit verschilften Lippen, Petrarca.
In Tundra-Ohren, Petrarca.)
Und es steigt eine Erde herauf, die unsre,
diese.
Und wir schicken
keinen der Unsern hinunter
zu dir,
Babel.
BỊ ĐẨY RA BÊN NGOÀI DƯỚI MỘT V̉NG MIỆN
trổ ra bên ngoài dưới những khạc nhổ trong đêm tối.
Dưới những ngôi sao
nào! Chỉ có bạc
của búa của tim nện xám. Và
Mái tóc của Bénérice, cũng ở đây, - tôi bện,
tháo tung,
tôi bện, tôi tháo tung.
tôi bện lại.
Lũng sâu xanh, vào em
tôi đẩy vàng. Cũng với nó,
hoài phí nơi đĩ và điếm,
tôi đi và đi. Tới em,
em yêu dấu của tôi
Và cùng với những lời nguyền rủa và cầu xin. Và với mỗi
cây gậy vung lên
phía trên tôi: chúng cũng kết lại
thành một, chúng cũng
kết thành bó dương vật hướng về em,
Bó-và-Lời.
Với những cái tên, ướt sũng
của mỗi lưu đầy.
Với những cái tên và những hạt giống,
với những cái tên nhào vào
trong tất cả
những khoang cạn kiệt
máu hoàng tộc của em, con người, - trong tất cả
những khoang vĩ đại của
Bông Hồng-Ghetto, nơi
em nh́n chúng tôi, sự bất tử của
biết bao kẻ đă chết bỏ xác trên những nẻo đường sớm mai.
(Và chúng ta ca bài Warschowjanka
bằng môi bị lau sậy xâm lấn, Petrarca.
trong những cái tai của lănh nguyên, Petrarca.)
Và đây một trái đất nổi lên, trái đất của chúng ta,
trái đất này.
Và chúng ta sẽ không gửi đi
không ai trong chúng ta về
hố thẳm của em,
Babel.
Bản Pháp văn của Jean-Pierre Lefebvre:
POUSSÉ DEHORS SOUS UNE COURONNE (1)
poussé dehors sous des crachats dans la nuit.
Sous quelles
étoiles! Rien qu’argent
de marteau du cœur battu gris. Et
Chevelure de Bérénice (2), ici aussi, – je tressais,
détressais,
je tresse, je détresse.
Je tresse. (3)
Ravin bleu, en toi
je pousse l’or (4) . Avec lui aussi,
l’égaré prodigue chez filles et putains,
je viens et je viens. Vers toi,
mon aimée.
Avec aussi juron et priers. Avec aussi chacune
des massues qui vrombissent
sur moi: ells aussi fondues
en un seul être, ells aussi
liées en fascine phallique vers toi.
Gerbe-et-parole.
Aves des noms, imbibes
de chaque exil.
Avec des noms et des semences,
avec des noms, plongés
dans tous
les calices saturés de ton
sang royal, être humain (5) , dans tous
les calices de la grande
Rose du ghetto d’où
tu nous regarde, immortel de tant
de morts mortes sur des chemins de matin.
(Et nous chantons la Varschavianka. (6)
Avec les lèvres envahies de Roseau, Pétrarque.
Dans des Oreilles de toundra, Pétrarque. (7)
Et voici que monte une terre, la nôtre,
celle-ci.
Et nous n’expédions
aucun des nôtres vers
ton abîme,
Babel.
Jean-Piere Lefebvre đưa ra những chú giải giá trị để hiểu bài thơ này của Celan:
(1) 3 tháng Bảy 1962. Thời gian được đ8ạt tên là Pariser Elegie. Hai động từ bắt đầu bằng hinaus để chỉ hai cách tống ra xem ra trái ngược nhau.
(2) Chevelure de Bérénice: cḥm sao của bán cầu Boréal giữa Bouvier và Lion: những ngôi sao không mấy tỏ. Callimaque và Catulle trưng dẫn sự hy sinh của công chúa Ai cập Bérénice Đệ nhị cho Aphrodite mái tóc của ḿnh để lấy lại được người chồng của ḿnh.
(3) Động từ zerflechten không có trong tiếng Đức. Âm điệu động từ này ghi dấu một diễn tác hủy hoại hầu như mạnh mẽ. Sự lập lại này có thể gợi ra câu thơ wir weben und weben trong bài Chant des Tisserands của Heinrich Hein.
(4) Thành ngữ “pousser l’or” để chỉ công việc làm nguội kim khí mảnh, trong thơ Celan có nghĩa hành vi t́nh dục. Vàng cũng là tinh trùng.
(5) Mensch trong tiếng Đức có thể để chỉ đàn ông lẫn phụ nữ.
(6) Tên tiếng Nga của La Varsovienne là bài hát cách mạng Ba Lan (1879) du nhập vào Nga năm 1905, ở đây được liên kết với việc tạo nên bạo loạn của khu ghetto ở Varsovie năm 1943. Varsovie cũng là nơi chon nhau cắr rốn của Mandelstam, thi sĩ lưu đầy cũng như Pétrarque thời xưa, cụm từ “couronné-caché” để chỉ Mandelstam bị lưu đầy vả tử nạn ở Sibérie năm 1938.
(7) Theo Ilya Ehrenbourg, Mandelstam trong trại giam ngâm những bài thơ của Pétrarque.
(53) Sđd, trang 52: Le pays même émigre et transporte ses frontiers. Il se déplace comme ces noms et ces pièrres qu’on se donne en gage, de main en main, et la main se donne ainsi, et ce qui se découpe, s’abstrait, se déchire peut se rassembler de nouveau dans le symbole, le gage, la promesse, l’alliance, le mot partagé, la migration du mot partagé.
(c̣n tiếp)
ĐÀO TRUNG ĐẠO
http://www.gio-o.com/DaoTrungDao.html
© gio-o.com 2016