ĐẶNG PHÙNG QUÂN
Mario Vargas Llosa,
người đọc Flaubert
(kỳ chót)
kỳ 1, kỳ 2, kỳ 3, kỳ 4, kỳ 5, kỳ 6, kỳ 7, kỳ 8, kỳ 9, kỳ 10, kỳ 11, kỳ 12,
Trong phân tích Sarrasine, Barthes đánh số phân chia ra 561 bộ, với năm mă đă xuất hiện ngay ở nhan đề và câu mở đầu truyện ngắn này. Nhà phê b́nh ghi nhận một hay nhiều mă ở những bộ kế tiếp, với 93 tiết, hai phản đề/Antithèse ở tiết 14 và 27, hai nghi nghĩa/équivoque ở tiết 62 và 69, hai khả độøc/Lisible ở tiết 66 và 77. Trong các từ hoa, Barthes cho phản đề là cái bền vững nhất, có chức năng biểu kiến của một danh từ, một đối tượng siêu ngữ cống hiến hay thuần hóa sự phân chia những tương phản. Nghi nghĩa I như trong câu nói: anh không thể liều với đối thủ, hàm hai nghĩa 'v́ được yêu' hoặc v́ 'tán tỉnh một người yếm hoạn’; nghi nghĩa II nhằm tiết lộ chủng (tôi bị tước danh tịch) hoặc ỉm loại đi (tôi là tên yếm hoạn) như một nói dối hoán dụ. Khả độc theo Barthes bị nguyên tắc không mâu thuẫn chi phối, trong câu “mọi sự có quan hệ với nhau” , diễn ngôn khả độc. Khả độc II hàm ngụ luật giá trị của khả độc, nghĩa là hoàn tất những khâu nhân quả, mỗi tất định cũng là bị xác định.
Vị trí của câu nói đến ở trên được thể nghiệm trong tiểu luận viết về Flaubert và câu văn của Barthes [in Nouveaux essais critiques], ông nhận xét công việc văn phong đối với Flaubert là “một nỗi thống khổ không thể tả xiết, đau đớn tuyệt đối, vô cùng, vô dụng, như vĩnh biệt biền biệt với cuộc đời”, Flaubert nhốt ḿnh v́ dâng ḿnh cho chuyện văn phong, khác với Proust cũng giam kín ḿnh cho đối tượng là phục hoạt toàn diện tác phẩm, v́ có quá nhiều điều để nói, hối hả v́ cái chết, c̣n Flaubert muốn sửa văn đến vô tận (gạch xóa, trở lại từ số không). Theo Barthes, văn rơ ràng đưa toàn hiện hữu của nhà văn nhập cuộc, v́ lẽ đó có thể gọi nó như thể một chữ nghĩa: viết tức là sống, như Flaubert nói: Một quyển sách luôn luôn đối với tôi mà một cách sống đặc biệt. Chữ nghĩa là chính cứu cánh của tác phẩm. Flaubert đă đem lại một hiện hữu kỹ thuật và siêu h́nh của một lực không ǵ sánh bằng, đó chính là câu văn. Có thể nói ông đă trải cuộc đời để dựng lên những câu văn, làm thành lịch sử cho tác phẩm, thâu gồm văn phong, lao động và đời sống. Câu văn của Flaubert là một sự vật, có một lịch sử đến từ chính ngôn ngữ, như trong thư tín bất hủ, ông đă viết; làm việc để kết thúc câu văn, như thể mâu thuẫn với điều ông hô hoán, không bao giờ kết thúc. Barthes ghi nhận, câu văn Flaubert là dấu vết của mâu thuẫn này.
Barthes không là một Flaubertiste. Vargas Llosa là một Flaubertiste, tuy nhiên khi ông phân tích Madame Bovary ông đă thực hiện cùng lúc hai mục tiêu: nói chuyện với nhân vật/ảo như chính tự thân và giải đáp vấn đề tiểu thuyết như một nhà thuyết thoại học.
Trong mục tiêu thứ nhất, đă có trong lịch sử tư tưởng, một triết học Bôvarít của Jules de Gaultier (1858-1942) và tranh luận của Georges Palante (1862-1925). Mối tương quan giữa Gaultier và Galante đi từ chỗ đồng cảm đến ác cảm, ở thời kỳ đầu 1912 là sự ngưỡng mộ từ một trung gian là tư tưởng Nietzsche, dẫn khởi những bí mật của thiên tài đời sống và thiên tài tri thức; ở thời kỳ sau 1925 là sự thất vọng trước xu hướng phản lư hay giả lư. Tuy nhiên, cả hai cùng khởi hứng từ một vũ trụ Bôvarít của Flaubert, như chính Palante diễn giải: chủ nghĩa Bôvarít là cha đẻ của ảo tưởng về tự thân đi trước và đồng bước với ảo tưởng về tha nhân và thế giới; tuy nhiên không phải chỉ là một quy luật tâm lư cá thể hay tập thể, nhưng c̣n chuyển biến thành một nguyên lư siêu h́nh, một mô thức chủ yếu của Hữu phổ quát, nghĩa là có thể từ góc nh́n thể nghiệm và vai tṛ sinh lực, như một hiện tượng nhân tính.
Một người Flaubertiste như Jean Bruneau, nghĩa là chuyên khảo Flaubert, khi phê phán và phản biện lại Sartre trong L'Idiot de la famille [q. I, tr. 485 nêu ba vấn đề căn bản với Bruneau chung quanh truyện kể l'Anneau du Prieur của Flaubert] đă dẫn câu văn quan trọnbg của Flaubert là con người ông “có hai đời sống hiện hữu khá phân biệt; những sự biến ngoại tại là biểu tượng chung cuộc của cuộc đời trước và khai sinh ra cuộc đời sau”.
Khi giới thiệu tác phẩm L'Orgie perpétuelle (Flaubert et Madame Bovary) của Vargas Llosa, tôi không có ư phê phán quyển sách, mà chỉ đưa ra những lời thích nghĩa (commentaires, hiểu theo nghĩa của W. Benjamin, là phân biệt với phê phán ở chỗ chỉ chú ư đến vẻ đẹp và nội dung tích cực của bản văn/mit der Schönheit und dem positiven Gehalt seines Textes). Sự khu biệt giữa thích nghĩa và phê phán ở đây c̣n hàm ngụ vị thế của hai người đọc quyển tiểu thuyết của Flaubert. Vargas Llosa đọc Madame Bovary để nói chuyện thân t́nh với Emma Bovary, đương nhiên là nói nhiều về ông hơn là về nàng. Như Harry Levin khi viết A Literary Enormity: Sartre on Flaubert, nhận xét: Chúng ta biết ít về Flaubert hơn là về Sartre; như Benjamin F. Bart cũng biểu đồng t́nh: đọc quyển sách của Sartre không thấy điều ǵ về con người mang tên Gustave Flaubert.
Ở đây đối với Vargas Llosa là kết thúc của chuyện t́nh của ông. Trong chương Một nỗi đam mê không được phản hồi ông viết: Mỗi lần, ở nỗi buồn và sầu muộn lẫn lộn một cảm xúc an ủy kỳ lạ và kết quả của cuộc lễ từng trải là sự ngưỡng mộ và nhiệt t́nh cho tôi: Emma tự văn để cho tôi sống. Trong những dịp tương phản khác, thất vọng hay gỉan dị chỉ là rầu rĩ, tôi lai cầu cứu đến phương thuốc này và hầu như luôn luôn có một kết quả thông lợi như vậy. Kinh nghiệm này và những kinh nghiệm tương tự thuyết phục tôi về trạng huống tranh căi những lư luận bảo vệ một nền văn chương khuyến thiện theo những kết quả của nó. Không nhất thiết là những câu chuyện hạnh phúc và với đạo lư lạc quan nâng đỡ tinh thần lên và làm trái tim người đọc vui vẻ; trong nhiều trường hợp, như trường hợp của tôi, cũng có thể đạt kết quả ấy, trong cái vẻ đẹp u buồn của chúng, với những câu chuyện cũng khổ sở và bi quan như chuyện nàng Emma Bovary. Thật hiếm thấy người đọc nào yêu nhân vật say đắm như Vargas Llosa với Emma vậy.
Trong phân tích Madame Bovary, Vargas Llosa rơ ràng chịu ảnh hưởng những trào lưu tư tưởng văn chương hiện đại và những khoa học liên hệ (ngữ nghĩa học, thuyết thoại luận, hiện tượng luận, kư hiệu học v.v..). Ở những yếu tố bổ khuyết, ông chú ư phân tích thời tính, dựa trên cấu trúc ngữ pháp của Pháp ngữ như những th́ bán khứ, quá khứ đơn giản và hiện tại chỉ định khi xác định thời gian hư cấu không bao giờ đồng nhất với cái thực. Georges Poulet trong Etudes sur le temps humain 1950 khi luận về Flaubert chú ư đến phương thức tri giác đối tượng, quan năng tri giác, những cảm giác khoái lạc khi nh́n sự vật tŕnh bày trong Thư tín của nhà văn, nhận xét Flaubert trải qua kinh nghiệm toàn diện về tự thức trong những thời khoảng ông đắm ḿnh để đồng nhất với đối tượng của tri giác này. Poulet xem đó là một chuyển tải sáng tạo của học thuyết Spinoza, trong cái sâu thẳm bất biến của Bao la, của đời sống vũ trụ, của kinh nghiệm huyền nhiệm phiếm thần. Cho nên ông xác định bản thể của hiện tại sinh động là thời gian của những kư ức cấu thành, không phải của những kinh nghiệm giác quan. Hiện tại là nơi tận cùng của những ảnh tượng gom lại, những ảnh tượng giác quan; chẳng hạn , trong những ngày không nắng khi tinh thần không mở ra đón nắng hiện tại, mà mở ra với mù sương vàng óng vẫn tỏa ra từ nắng đă nhận được từ lâu rồi. Những kư ức thời niên thiếu, như trong Thư tín mô tả nhẩy múa như h́nh xoắn ốc. Poulet cũng dẫn những đoạn văn trong Madame Bovary minh họa những kỷ niệm với người cha qua lá thư của ông , rồi từ ảnh tương đầu này, từng bước, kư ức như chặng đường của cuộc đời dẫn đến khoảnh khắc hiện tại:
“hạnh phúc nào…đầy những ảo tượng…giờ đây không c̣n ǵ giữ lại. Nàng dùng chúng để ngược trở lại những kinh nghiệm ngẫu nhiên trong trí nàng, qua mọi hoàn cảnh kế tiếp…liên tục đánh mất trong suốt cuộc đời dài này, như người lữ khách bỏ lại một chút ǵ của cải nơi quán trọ dọc đường…”
“rồi, cuốn theo những kư ức của nàng như thể dâng lên từ gịng nước lũ đầy bọt, nàng nhớ ngay đến những ngày qua…”
Poulet nhận xét, khác với Balzac là nhà văn viết tiểu thuyết về cái đang xác định, Flaubert là nhà văn tiểu thuyết của cái đă xác định, kinh nghiệm của người khi viết một câu văn, từ mệnh đề điều kiện đến mệnh đề hiển nhiên, những yếu tố khác nhau được phối trí sáng tạo trong một tổng hợp trồi lên, rơi xuống, đến lúc hoàn tất, mang lại khám phá trong câu đă viết ra từ một thống nhất bất biến, trong đó mọi sự trở thành hiện tại. Vấn đề thời gian đơn giản chỉ là một vấn đề của văn phong.
Đối với triết gia hiện tượng luận Paul Ricœur, trong Temps et récit 1983, khi khảo những nan đề về kinh nghiệm thời gian qua quyển XI bộ Confessions của Augustin và ssắp đặt t́nh tiết của kịch bản, văn bản qua đọc Poétique của Aristote, đă liên kết hai nghiên cứu độc lập như một gỉa thuyết căn bản, nghĩa là giữa hoạt động của kể một lịch sử với thời tính của kinh nghiệm con người, có một quan hệ giao hỗ không thuần túy ngẫu nhiên, mà tạo thành một h́nh thái tất yếu xuyên văn hóa. Ông viết: thời gian trở thành thời gian của con người trong khuôn khổ nó được tiết hợp trên một phương thức thuyết thoại, và truyện kể đạt tới ư nghĩa toàn diện khi trở thành một điều kiện của hiện hữu thời tính.
Những nan đề về kinh nghiệm thời gian của Augustin không phải hoạt động kể một câu chuyện, c̣n phân tích t́nh tiết kịch bản hư Aristote đă làm th́ không là lư luận thời gian mà từ vật lư học. Cho nên Ricœur đề nghị phải có trung gian làm đạo tuyến để khai thác quan hệ thời gian với truyện kể, qua lư giải ba thời khoảng, mà ông đặt tên là mimèsis/biểu tượng mô phỏng 1, 2 và 3; ông coi mimèsis 2 như cơ sở của phân tích. Phương pháp phân tích của ông dựa trên kư hiệu học bản văn là khoa học có thể thành lập trên trừu tượng hóa mimèsis 2 và chỉ xét đến những quy luật nội tại của tác phẩm văn chương, song, đảo lại, nhiệm vụ của thông diễn học nhằm tái tạo toàn bộ khai triển để dựa vào đó kinh nghiệm thực tiễn có thể tiếp cận tác phẩm, tác giả và người đọc. Cơ sở khai triển bộ ba mimèsis này theo một quá tŕnh, từ vận hội của một thời gian biểu thị trước đến một thời gian tái biểu thị qua trung gian của một thời gian dịnh h́nh. Những chiều kích thời gian được xác định, như qua cấu trúc không điều ḥa-điều ḥa của thời gian theo Augustin trên b́nh diện phản tư đă vạch ra một số những nét nghịch lư mà chỉ có hiện tượng luận hành động mới chỉ ra được phác thảo đầu tiên; khi nói không có thời vị lai, qua khứ và hiện tại, có nghĩa là chỉ có bộ ba thời hiện tại (một hiện tại của những sự vật tương lai, một hiện tại của những sự vật quá khứ và một hiện tại của những sự vật hiện tại). Ông nại tới Heidegger trong phân tích hiện hữu đóng một vai tṛ quyết định khi chỉ ra cấu trúc của nội-thời tính (Innerzeitigkeit) là cách tốt hơn để xác định thời tính của hành động, từ một hiện tượng luận về tự ư/bất tự ư sang một ngữ nghĩa học về hành động.
Cấu trúc thời gian qua bốn b́nh diện của Vargas Llosa, đă nói đến trước đây, cấu tạo thành một thể thống nhất bất hoại. Ông ví nhà văn như người nhạc trưởng điều khiển và phối trí những nhạc cụ (là những dữ liệu bốn thời mà Vargas Llosa đă phân tích). Harald Weinrich trong Tempus: Besprochene und erzählte Welt (Thời: Tranh biện và thế giới truyện kể 1964) đă liệt kê chỉ trong một chương của tiểu thuyết Madame Bovary đă có hơn bốn mươi câu văn sử dụng trạng từ thời gian. Những thảo luận này sẽ nói đến ở một chỗ khác.
Khi bàn về tiểu thuyết hiện đại, Vargas Llosa đă đối chiếu Brecht với Flaubert, sự tương phản giữa yêu/ghét con người, nhà dân chủ giáo dục/nhà hoài nghi song lại tôn trọng tự do của người đọc - nhưng khởi từ một điểm chung: vấn đề đạo lư và xă hội. Ricœur trong Temps et récit 3 1985 cũng đưa ra nhận xét là tác phẩm như Madame Bovary có ảnh hưởng nhiều đến phong hóa xă hội hơn là những can thiệp hay tố cáo về mặt luân lư của những nhà văn mệnh danh là nhập cuộc: “sự vắng mặt mọi đáp án cho những lưỡng luận đạo đức của một thời đại có lẽ là vũ khí hữu hiệu nhất cho văn chương hành xử trên những phong tục xă hội và biến đổi thực tiễn. Một trực tuyến đi từ Flaubert đến Brecht”. [sdt, ch. 7, chú thích 52].
Thật sự, Brecht là một hiện tượng khó hiểu (Bert Brecht ist eine schẃerige Erscheinung), như Benjamin nhận xét trong Versuche über Brecht. Ngay từ những năm 30 của thế kỷ XX, ông đă nói “người bôn-sê-vích chẳng biết làm thế nào để phát triển văn chương”, tỉnh mộng trước chính sách văn hóa của Xô viết, những năm sau đó là cuộc lưu đày. Những nghịch lư trong kịch và thơ Brecht, muốn giáo dục quần chúng song lại gặp những trở ngại, những nan đề xă hội, điều Vargas Llosa không thể hiểu.
Phụ chú:
1.Những vấn đề nêu trong phần tŕnh bày trên đây là một phần của khai triển Khái luận về phê b́nh lư trí văn chương.
2. Gustave Flaubert: sinh năm 1821 tại Rouen và mất năm 1880 ở Croisset, lớn lên trong một nhà thương (v́ thân phụ ông là y sĩ trưởng khoa giải phẫu của Hôtel-Dieu de Rouen). Ông mang thể chất yếu đuối nên phải gián đoạn việc theo học luật. Ngay từ thuở thiếu niên, ông đă bị cuốn hút trong những chủ đề khai triển sau này, những bút kư tản mạn như lam bản của những tác phẩm ông viết ra La Tentation de saint Antoine, l'Education sentimentale, Madame Bovary, Bernard et Pécuchet, Salammb6, le Candidat (kịch)những bản văn như Mémoires d'un fou 1938, Novembre 1841, Correspondance 13 q. đă hoàn tất và xuất bản sau khi ông mất. Những bài kư trong du lịch như Par les champs et par les grèves.
Có thể tham khảo tiểu sử của ông qua những tác giả như R. Dumesnil : Flaubert, l'homme et l'œuvre ; Jean Bruneau : Les Débuts littéraires de Gustave Flaubert.
3. Những tên như Léon, Charles, Rodolphe, Lheureux, Homais là nhân vật trong tiểu thuyết Madame Bovary, xuất hiện trên Revue de France năm 1856 và xuất bản thành sách năm 1857 : câu chuyện bắt đầu từ chỗ Charles Bovary, nguời học sinh mới nhập lớn trong một trường trung học tỉnh lỵ. Y học tập hăm chỉ và thi đậu để trở thành y sĩ. Từ đó, y lập nghiệp ở Tostes, gần với Rouen và theo lệnh mẹ cưới một bà góa lớn tuổi nhưng giàu có. Trong một dịp đi khám bệnh, Bovary si mê thiếu nữ con một trang chủ, tên Emma Rouault, và khi vợ mới qua đời, y cầu hôn được nàng. Emma là người ham mê những mơ mộng tiểu thuyết ngay lúc c̣n học nội trú trường đạo, và luôn luôn mơ mộng hôn nhân này sẽ thực hiện những giấc mơ của nàng. Song nàng mau vỡ mộng với đời sống lứa đôi b́nh dị, chẳng giống như những khung cảnh đam mê, say đắm như trong tiểu thuyết. Khi họ di chuyển đến ở một thị trấn sang cả hơn, Yonville-l'Abbaye, nàng vẫn gặp lại bầu không khí tầm thường như trước, với những người như Homais, nhà dược sĩ chống tăng lữ và Binet, viên chức thuế vụ khật khùng. Sau khi sinh con gái đầu ḷng, nàng gặp gỡ được Léon Dupuis, viên lục sự có dáng dấp như h́nh ảnh trong mộng của nàng. Tuy Leon chinh phục được tinh thần nàng, song y lại ngỡ nàng không đáp ứng, nên rời bỏ Yonville. Emma thất t́nh, nên một thân sĩ giàu có Rodolphe Boulanger dễ dàng quyến rũ được nàng. Emma tưởng bỏ di theo Rodolphe, song y ngại tai tiếng đă bỏ rơi nàng. Ở Rouen, Emma gặp lại Léon trong một chuyến đi Paris và trở thành t́nh nhân của y. Một kỷ nguyên sung sướng bắt đầu, Emma đắm ch́m trong những dục vọng sang cả, thiếu nợ và sa vào tay một lái buôn, Lheureux ; gă sở khanh này đ̣i những món nợ nàng thiếu, và khi cầu cứu Léon không thành, Emma đă dùng thạch tín tự vận. Charles chỉ biết thốt lời : đó là lỗi của số mệnh !
Đặng Phùng Quân
http://www.gio-o.com/DangPhungQuan.html
© gio-o.com 2011