ĐỖ LUẬT
Hồi Chuông Báo Tử Cho Đà Nẵng
tản mạn
Những kỷ niệm vui thì phải
lục tìm trong trí nhớ, còn những kỷ niệm buồn thì tự chúng trở về.
Hôm nay, một trong những kỷ niệm buồn tự tìm lấy lối về mà không cần báo trước:
ngày mà định mệnh gọi tên tôi với hồi chuông báo tử cho Đà Nẵng.
Và tôi đọc lại định mệnh của mình.
For
whom the bell tolls – Hồi chuông báo tử cho ai vậy – Ernest Hemingway –
1940
The
bell tolls for Danang – Hồi chuông báo tử cho Đà Nẵng – Olivier Todd –
Cruel April – March 29, 1975
Hồi
chuông báo tử cho Đà Nẵng vang lên sau nhiều ngày thành phố này hấp
hối vào ngày 29 tháng 3 năm 1975.
Cả
tuần nay, thành phố Đà Nẵng với dân số 600.000 đã cưu mang thêm
1.000.000 người tỵ nạn từ Quảng Trị, Thừa Thiên,Huế chạy vào từ
phía Bắc sau khi Huế bị bỏ ngỏ ngày 23 tháng 3 và người ṭy nạn từ
Quảng Ngãi, Quảng Tín, Hội An từ phía Nam chạy ra sau khi Quảng Tín
cũng bị bỏ ngỏ vào ngày 24 tháng 3. Cả trăm trường học đã đóng cửa
ở Đà Nẵng là nơi tạm trú cho những dân quê chất phác, đã vội vã bỏ
lại những tài sản không nhiều nhặn gì cuả mình với hy vọng sống
sót, và niềm tin ngây thơ sẽ được tàu đưa vào Nam như cuộc di cư năm
1954.
Ngày
25 tháng 3 Tòa Lãnh Sự Mỹ đóng cửa và di tản nhân viên, chỉ còn lại
những nhân vật cao cấp có trách nhiệm sẽ ở lại đến phút cuối cùng.
Người Mỹ ra đi làm sự hoảng loạn gia tăng. Những người có phương tiện
dồn về phi trường Đà Nẵng, hành lý chất đầy và người ta tụ tập hay
đi lang thang trên phi đạo. Ở Sài Gòn, Ed Daly một triệu phú Mỹ chủ
nhân hãng Hàng Không World Airways đã bỏ tiền túi lập cầu không vận
Đà Nẵng – Sài Gòn để giúp di tản người tỵ nạn. Nhưng đã muộn màng,
vì sự mất trật tự trên phi đạo và những viên đạn đại bác bắn thăm
dò của Pháo Binh Bắc Việt Nam, đã làm máy bay không thể hạ cánh
xuống phi trường Đà Nẵng nữa. Ngay cả Tổng Lãnh Sự Mỹ ở Đà Nẵng
là Al Francis cũng phải di tản bằng tàu, sau khi thỉnh cầu Không Lực 7
của Mỹ ở Thái Lan gởi trực thăng đến và được trả lời là không thể,
vì như thế vi phạm Hiệp Định Paris 1973 ( có lẽ người Mỹ là bên duy
nhất trong Hiệp Định Paris tôn trọng Hiệp Định này),và máy bay trực
thăng ở Thái Lan đang túc trực để di tản Nam Vang đang sụp đổ. Và
người có chức vụ cao nhất của Quân Đội Nam Việt Nam ở Đà Nẵng là
Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Đoàn 1 và Quân Khu 1 đã phải
bơi ra xuồng, rồi lên một tàu của Nam Việt Nam, trong ngày cuối cùng
khi tiếng chuông báo tử Đà Nẵng vang lên.
Bây
giờ con đường duy nhất để ra khỏi Đà Nẵng là đường biển.
Lúc
đó ngoài khơi Hải Phận Việt Nam đã có một Hạm Đội Quốc Tế gồm
những tàu của Nam Việt Nam, Anh, Úc, Đại Hàn, Đài Loan, Phi Luật Tân
cam kết sẽ tham dự cuộc di tản, sau khi Phó Thủ Tướng Phan Quang Đán
kêu gọi Liên Hiệp Quốc, Phủ Cao Ủy Tỵ Nạn và Hội Hồng Thập Tự Quốc
Tế giúp di tản người tỵ nạn. Ngay cả Thủ Tướng Tây Đức, người có
thái độ thù nghịch với Mỹ trong chiến tranh Việt Nam, cũng lên tiếng
tham gia vào chiến dịch di tản hoàn toàn vì nhân đạo này. Tổng Thống
Gerald Ford của Mỹ đã gởi tới Việt Nam những tàu của Hải Quân Mỹ
nhưng không được vào Hải Phận Việt Nam, và thuê những tàu dân sự để
làm công việc di tản nhân đạo. Và để nhấn mạnh sự quan tâm của mình,
chính phủ Úc đã gởi đến Malaysia 6 máy bay chở đầy thực phẩm và
thuốc men sẵn sàng phân phát cho người tỵ nạn.
Mặc
dầu có cả một Hạm Đội Quốc Tế đang chờ đón ngoài Hải Phận Việt
Nam, nhưng mơ ước của những người tỵ nạn ở Đà Nẵng trong những ngày
cuối tháng 3 năm 1975 đã không trở thành sự thực: Không có cuộc di cư
như năm 1954. Sau khi kiểm điểm người ta biết rằng chỉ có 50.000 thường
dân và 16.000 quân nhân thoát ra khỏi Đà Nẵng. Như vậy còn lại hơn
1.400.000 người dân ở Quảng Trị, Thừa Thiên, Huế, Quảng Nam, Quảng
Tín, Quảng Ngãi, Hội An và Đà Nẵng đã ở lại vì không có cơ hội ra
đi; sau khi đã vội vã bỏ chạy để lại tất cả những tài sản không
nhiều nhặn gì mà một gia đình nông dân có thể có trong thời chiến
tranh, để đến được Đà Nẵng như niềm hy vọng cuối cùng.
Tôi,
Bắc Kỳ di cư 54. Mẹ tôi là người Hà Nội gốc Hà Đông và Bố tôi người
Nam Định. Bố Mẹ tôi gặp nhau trên chuyến tàu di cư vào Nam. Không bao
giờ hỏi trực tiếp nhưng qua lời kể của Mẹ, tôi biết là Bố Mẹ tôi
quen nhau, yêu nhau và lấy nhau, sau khi gặp nhau trên chuyến tàu ly hương
chứ không phải hồi hương năm ấy. Và kết qủa của cuộc tình trên
chuyến tàu di cư đó là Bố Mẹ tôi có 10 đứa con trai, mà tôi là thứ 3
trong gia đình theo cách gọi của người Bắc.
Là
quân nhân nên Bố tôi thuyên chuyển đây đó nhiều nơi trên đất nước Việt
Nam, và Đà Nẵng là nơi Bố tôi ở lâu nhất theo nhu cầu công vụ trong
đời binh nghiệp.
Tôi
sinh ra và lớn lên ở ̣Đà Nẵng. Ngày định mệnh 29 tháng 3 năm 1975 tôi
được 17 tuổi rưỡi. Chiều hôm đó, trên Bến Phà Cầu Đen tôi đã rời Đà
Nẵng sau khi nhẩy xuống một chiếc tàu đổ bộ nhỏ của Lực Lượng Giang
Thuyền Hải Quân Vùng 1 Chiến Thuật. Tôi vừa nhẩy xuống chiếc tàu đổ
bộ và định giúp đỡ Mẹ và các em tôi xuống tàu, thì người chỉ huy
chiếc tàu ra lệnh quay mũi ra vì sợ chở quá tải khiến con tàu không
thể đi nổi. Con tàu rẽ sóng rời Bến Phà Cầu Đen, rời Đà Nẵng trực
chỉ Cam Ranh, và tôi ra đi một mình với chiếc cặp da đựng toàn bộ
giấy tờ của gia đình mà tôi được chỉ định là người mang giữ, sau
buổi họp quyết ̣định ra đi của cả nhà tôi sáng ngày 29 tháng 3. Suốt
đêm nằm co ro trong góc chiếc tàu đổ bộ để tránh nước biển tràn vào
mỗi khi sóng đánh, tôi băn khoăn lo lắng cho gia đình mình không biết
có đi được không. Mãi sau này sau khi đến Cam Ranh, rồi sau đó được đưa
vào trại tỵ nạn ở Vũng Tàu, tôi mới biết gia đình tôi nhờ nỗ lực
vô bờ của người anh thứ hai là Đỗ Bình, một người lính Pháo Binh Nam
Việt Nam đang đóng ở Bộ Tư Lệnh Pháo Binh Quân Đoàn, đã đưa được cả
gia đình lên chiếc tàu Pioneer Commander của Mỹ, đang đậu ngoài khơi Đà
Nẵng chờ vớt người tỵ nạn. Lúc đó anh Cả của tôi là Đỗ Tiến cũng
là một người lính Pháo Binh Nam Việt Nam, bị bắn vào ngực xuyên qua phổi
rồi trổ ra sau lưng, và được đưa vào Bệnh Viện ở Nha Trang điều trị,
nên anh Bình đã một mình vượt qua những khó khăn và nguy hiểm, đưa cả
gia đình tôi vào đến Vũng Tàu.
Tôi
đã bước vào cuộc đời như thế đấy.
Ngày
29 tháng 3 ở Đà Nẵng, và ngày 30 tháng 4 năm 1975 ở Sài Gòn đến trước khi tôi kịp
đi thi lấy bằng Tú Tài Toàn Phần để nộp đơn vào Đại Học. Việc học của tôi
chấm dứt khi tôi 17 tuổi rưỡi, và tôi đã không có cơ hội hoàn thành
bậc Trung Học ở đất nước mình, mà phải đi đến Mỹ để lấy bằng Trung
Học khi đã vào tuổi 30. Và vì tôi không hề xem mấy năm theo học để lấy mấy
chứng chỉ về Business Management, do công ty nơi tôi làm việc gởi đi học khi
tôi nhận lãnh trách nhiệm làm Head Department, là theo học Đại Học đúng nghiã,
cho nên tôi vẫn chỉ là một người ít học theo đúng nghiã của chữ ít học. Tất
cả kiến thức tôi có được ngày hôm nay, là từ chợ bán sách cũ trên
vỉa hè đường Calmette ở Sài Gòn, nơi những tinh hoa của nhân loại,
những giá trị muôn đời của con người được vất ra vỉa hè, rồi đem bán
ký để làm giấy gói hàng. Bằng tiền dành dụm, mà Mẹ tôi cho sau một lần
bán củi hay bán bắp tôi đã lên Sài Gòn, nhặt nhạnh những tên tuổi làm
thành lịch sử nhân loại, đem về đọc trong những đêm dài ở một vùng
đất nghèo khó gọi là Tân Hiệp, Long Thành với cái tên cũ là Khu
Khẩn Hoang Lập Ấp Thái Thiện, do Quốc Vụ Khanh Phan Quang Đán thành
lập với mục đích làm vòng đai bảo vệ Sài Gòn trước kia.
Tôi
không được học hành đến nơi đến chốn, chưa một ngày bước chân vào trường Đại Học,
nên suốt đời và mãi mãi tôi chỉ là một ” sản phẩm chưa hoàn tất của Trung Học
Việt Nam Cộng Hoà”.*
Tuổi
thanh xuân của tôi là những ngày dài vào rừng chặt tre, đốn củi, đốt than bán lấy
tiền mua gạo bắp ăn sống qua ngày; hay là những ngày cũng dài không kém lên rẫy
đốt gốc cây, phá đất, cuốc cỏ tranh trồng bắp, trồng khoai, trồng sắn để có miếng
ăn.
Và
tuổi thanh xuân của tôi cũng là những đêm dài chờ sáng, đọc sách dưới ánh sáng
tù mù của ngọn đèn dầu nhỏ – vì không có tiền mua dầu thắp ngọn đèn lớn. Tôi đọc
tất cả những gì có chữ mà tôi vớ được : Nietzsche, Rimbaud, Đức Phật, Đức Chúa,
Hermann Hesse, Daisetsu Teitaro Suzuki, Nguyễn Du, Phạm Công Thiện, Henry
Miller, Platon, Aristote, Khổng Tử, Lão Tử, William Faulkner, André Gide,
Schopenauer, Emerson, Rainer Maria Rilke, Dostoyevski, Boris Pasternak, Tuệ Sỹ,
Bùi Giáng, Alexander Solzhenitsyn, Hemingway, Duyên Anh, Phan Nhật Nam, Nikos
Kazantzakis, Thomas Wolfe, Kierkegaard, Jean Paul Sartre, Constantin Virgil
Gheorghiu, Albert Camus, Francoise Sagan, John Steinbeck, Eric maria Remarque,
Krisnamurti, Tagore, Leon Uris, Doãn Quốc Sỹ, Nhã Ca…
Ngày
qua ngày, tháng qua tháng, năm qua năm, ban ngày tôi làm việc quần quật như một
tên tù với cuộc hành trình kiếm cơm ăn áo mặc; và ban đêm tôi lặng lẽ một mình
làm cuộc hành trình đi lên của tâm thức, với gót chân nhỏ máu của Niezsche,của
Phạm Công Thiện, của Nikos Kazantzakis.
Và kết
quả của những tháng năm ban ngày làm việc như tù, ban đêm đọc sách chờ sáng là
tôi bị bội thực tư tưởng, và đầu óc tôi bị hư hỏng vô phương cứu chữa từ đó cho
đến bây giờ.
Tôi
không kể về mình như một lời than vãn, vì tôi nghĩ sự may mắn của
con người trên trần gian này như một chiếc bánh khổng lồ, mà Thượng
Đế – nếu có, phải tự mình cắt ra chia cho từng người; thì Thượng Đế
cũng mỏi tay nên khi cắt bánh có miếng to miếng nhỏ. Tôi được miếng
nhỏ thì ăn ít, người được miếng to thì ăn nhiều, chứ Thượng Đế nào
muốn có chuyện không công bằng khi chia phần may mắn cho tất cả chúng
ta.
Và
tôi cũng nghĩ rằng những nghịch cảnh mà chúng ta phải chịu, cũng
giống như là chích thuốc ngừa bệnh đậu mùa, một khi đã được chích
ngừa rồi thì chúng ta sẽ trở thành miễn nhiễm, những khó khăn nào
có đến nữa thì cũng không làm cho chúng ta ngã gục, mà chỉ làm cho
chúng ta mạnh mẽ thêm để tiếp tục đi cho hết cuộc đời này.
Đã
bao nhiêu nước chẩy qua cầu từ ngày định mệnh 29 tháng 3 năm 1975 gọi
tên tôi, đã trải qua những dâu bể cuộc đời, nhưng tôi chưa bao giờ hối
tiếc với những gì mình đã làm. Chỉ có một điều, không phải là hối
tiếc nhưng luôn làm tôi băn khoăn, là đã không từ giã Đà Nẵng một
cách đàng hoàng theo cách chúng ta từ giã những người mình yêu quý
nhất, khi hồi chuông báo tử cho Đà Nẵng vang lên 40 năm về trước.
Đà
Nẵng, thành phố nơi tôi sinh ra và lớn lên với những Thầy, Cô, Bạn Bè
mà tôi kính trọng và yêu thương, đáng được hưởng một từ giã xứng
đáng hơn cách tôi đã làm khi bỏ ra đi. Không biện minh cho mình, nhưng
trong lúc vội vã và sợ hãi ” Tất cả mọi người đều sợ hãi, Jean
Paul Sartre đã viết. Tất cả. Người không biết sợ là không bình
thường. Và điều này không liên quan gì đến sự can đảm.”, tôi đã xử
sự không đúng cách, là chỉ nhẩy lên tàu và ra đi không một lời từ
biệt.
Tôi
đã trở lại Đà Nẵng một lần sau khi đi định cư ở Mỹ, nhưng không gặp
bất cứ một Thầy, Cô và Bạn Bè nào của mình. Đâu rồi Thầy Mai Xuân
Châu người đã ngâm bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng cho chúng tôi nghe
trong giờ Quốc Văn lớp 8, đâu rồi Thầy Trần Toàn người đã đọc bài
thơ Hồ Trường của Nguyễn Bá Trạc cho chúng tôi nghe trong giờ Quốc Văn
lớp 9, đâu rồi Cô Lê Thị Phú Phương đã giảng cho chúng tôi nghe về
Chinh Phụ Ngâm cuả Đặng Trần Côn mà Đoàn Thị Điểm đã diễn Nôm trong
giờ Cổ Văn lớp 10, và cũng chính Cô Lê Thị Phú Phương đã giảng thật
hay cho chúng tôi nghe về Đại Thi Hào Nguyễn Du người làm đẹp cho
tiếng Việt qua tác phẩm Truyện Kiều trong giờ Cổ Văn lớp 11. Những Thầy
Cô của tôi ngày tôi mới lớn, với lương tâm của một nhà giáo theo
nghĩa hay nhất, đã dạy cho chúng tôi những bài học đạo đức căn bản
để làm người, đã chắp cho chúng tôi đôi cánh chim Bằng để bay vào
những phương trời viễn mộng, đã hy vọng chúng tôi thành những người
có tài năng để phụng sự xã hội nay ở đâu. Và đâu rồi những bạn thân
ngày còn đi học, một Lê Tự Nhạn tài hoa mà khinh bạc, một Nguyễn
Hường tay toán cự phách nhất Đà Nẵng, một Nguyễn Kình nhà nghèo
nhưng giỏi trên mọi phương diện, một Kiều Văn Lũy đa tài đa cảm, một
Trần Thị Minh Nguyệt tài sắc mà cả hai người bạn tôi Nguyễn Kình và
Kiều Văn Lũy cùng thầm yêu. Trong những người bạn cùng nhóm tôi chỉ
biết có một Hoàng Liệu trở thành Dược Sĩ và Mai Thị Thanh Hồng trở
thành Bác Sĩ, còn tất cả những chàng trai, những cô gái tài giỏi
đã một lần ước mơ lấp biển vá trời bây giờ đang ở đâu, có còn mơ
mộng đem tài năng ra giúp mình giúp đời, hay bây giờ cũng như tôi với
mái tóc không còn xanh màu xanh viễn mộng nữa, và cũng đang khóc cho
giấc mơ xa không bao giờ đến của mình.
Tôi
đã trở lại Đà Nẵng và tôi biết rằng tôi sẽ còn trở lại Đà Nẵng
ít nhất là một lần nữa.
Trở
lại nơi mà mình đã sinh ra và lớn lên, nơi mà ước mơ lấp biển vá
trời của mình được ươm trồng ngày mới lớn, là cách từ biệt xứng
đáng mà tôi phải làm với Đà Nẵng, dù ước mơ lấp biển vá trời của
tôi đã không vá nổi định mệnh của mình.
Đỗ Luật
http://www.gio-o.com/DoLuatQuyCoHuong.htm
© gio-o.com 2019